Bà Lê Văn Hưng - Ngày
21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho
cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói: “Mất một Tổng Thống
Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào
còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi
nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ.” Lời tuyên bố của ông Thiệu
đã gây cho tôi sự xúc động.
Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo
gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ
cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà,
dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời,
Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi
tiếng nấc nghẹn ngào.
Ôi
tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn
Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đày
yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/1975 bi thương thê
thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương
tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không ? Tin thất
trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho
địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc
rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.
Ðài
VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến
lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh
giáp, không người chỉ huy, cuống quýt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh
thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau: “Tổng
Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Ðại Tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn
đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc,
chúng ta còn đánh làm gì.” Họ còn hỏi nhau: “Bao nhiêu năm chúng ta
chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá
nhân của ai đây?” Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu,
rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi: “Quân không Tướng chỉ huy thì
sao?” Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai: “Có những
ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng
hưởng.”
Lời
phê bình của những kẻ bất mãn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật
chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm
cho quân đội bị nhục, thì cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi
lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô
tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa
các Tướng Lãnh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc
gia như thế nào. Ðối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh
của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân.
Có
nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi: “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng
chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến
đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?” Lại có người nghiêm
khắc trách tôi: “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không
để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con
lại sao?” Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lãnh, hoặc còn ở trong
tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi.
Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét
“theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười
lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những
người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can
đảm đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả
lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị
nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán
đoán vì…những vị Tướng Lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi
tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng
xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến
công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lãnh, đã từng khắc phục gian
nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ
nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị xuôi
tay tự sát hay sao?
Viết
đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: “Thưa toàn thể quý vị sĩ quan
QLVNCH. Ngày quý vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quý vị
còn nhớ sáu chữ gì trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng
đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.” Ngày mãn khóa sĩ quan
với những lời tuyên thệ, quý vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai
lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở
lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi
không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về
cái chết của hai vị Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng
này đã ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ,
cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối
thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi.
Trước
đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh
trên đài phát thanh Sài Còn ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam
trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính lúc “kế hoạch hành quân mật của
hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất.”
Tướng
Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối
tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng
nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với
Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn
đò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc
điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đã luôn khẳng định:
“Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến
cùng.”
Khi
Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi
vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ
Hương đã trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần
làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên đâng nước Việt
Nam cho Cộng Sản.” Vị Tướng Lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất
nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay
chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ
huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm
lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn
Hữu Hạnh đã không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.
Viết
đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ khi nhớ đến một
số sĩ quan binh sĩ đã bật oà khóc lên khi nghe lệnh đầu hàng của Dương
Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có
những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định đã không chịu đầu
hàng. Họ đã tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu
đời mình. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ,
hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và hùng
thế đấy.
Trong
khi Sài Gòn bỏ ngỏ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch
hành quân đã thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều
chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế
hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó.
Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một
thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn
nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng.
Nhưng,
Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Ðã có một
số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã
xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay
cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân nào đã bỏ
trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh
trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắc
chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo
tinh thần binh sĩ.
Lúc
ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm
địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ Bộ
Chỉ Huy Quân Ðoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ
chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. Ðúng theo kế hoạch lệnh hành quân
bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị
thì mới hay họ chưa biết tý gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài
việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.
Tìm
kiếm Ðại Tá anh ninh, người mà đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và
lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã
đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị
Ðại Úy dưới quyền. Ông này cũng đã cuốn gói trốn theo ông Ðại Tá đàn
anh, cho có thầy, có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã
biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi.
Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của
Thiếu Tướng và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi
vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người
đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ
phản bội hèn nhát làm gãy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn
hỏi : “Có đồng ý đem con lánh nạn không?” Tôi cương quyết từ chối. Tôi
không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa
đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi
tôi: “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định
liệu lẽ nào?” Tôi đáp: “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không
muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản.”
Và
để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cho cái chết
sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. Bốn
giờ 45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân
Ðoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng
kiến cảnh bàn giao ơ nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá
Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều ngày 30 tháng 4, khi Hoàng
Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc
với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ
ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Ðoàn 21 mới về đóng nơi đây.
Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở
các tiểu khu. Ðồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị
trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp.
Sáu
giờ 30 chiều ngày 30 tháng 4, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có
một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn. Họ gồm
khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng
thị xã, yêu cầu: “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất
phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu
Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ
nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi,
xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ
tánh khí khái, can cường…” Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó
chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ
trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Ðôi, cách Bộ Tư Lệnh
không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân
chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu
ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời: “Xin các ông yên
lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng.” Toán
người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi: “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan
Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan
Ðã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không
nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó
tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đãn nhịn ăn rồi uống thuốc độc
quyên sinh.” Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp: “Thà chết chứ đâu thể bó
tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào.”
Sáu
giờ 45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình
hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã
đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền
tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng
hay là ông đã cho thu băng lời lêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ
cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau lòng. Ðài Cần Thơ bị nội ứng trước đó,
khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn
băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của
Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát
thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự
tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa
thớt lại càng thêm thưa thớt.
Bây
giờ 7 giờ 30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc.
Ðây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể
cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh:
“Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Ðại Tá
không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến
lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và
binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng
vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ. Quắc đôi mắt
sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng: “Em phải sống ở lại nuôi con.” Tôi hoảng
hốt: “Kìa mình, sao mình đổi ý?” “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết
con.” “Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm
chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút,
chúng ta cùng chết một lúc.” “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con.
Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành
người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ
làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng
chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày
còn phục hận cho đất nước chúng ta.” “Nếu vì con, mình thương con, sao
mình không đi ngoại quốc?” Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách
móc: “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?” Biết mình vụng về,
lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi: “Xin mình tha thứ. Chẳng
qua vì quá thương mình nên em mới nói thế.”
Giọng
Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh: “Nghe anh nói đây. Người
ta trốn chạy được. Chớ anh không gao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ
dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình
sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào
mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì
không cầm cự được lâu. Ðã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh
không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và
anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào.”
Tôi phát run lên hỏi: “Nhưng mình ơi, còn em? em phải làm gì trong lúc
này?” Nắm chặt tay tôi, Hưng nói: “Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu,
anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý
chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi
con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống.
Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng
nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình.”
Tôi
không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết
ấy: “Vâng, em xin nghe lời mình.” Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc
giục: “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi.” “Em xin hứa. Em xin hứa mình
ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa
con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình
chứ?” Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi: “Em
mời má và đem các con lên lầu gặp anh.”
Tôi
quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng. Tôi vội
vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói: “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ
tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó.” Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng
ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng
lên hối tôi: “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên.” Khi mẹ tôi và các con lên
văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi
phải sống.
Vâng
lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn
phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ
phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau.
Hưng dõng dạc nói: “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại
quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa
chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn
Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi
cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những
lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy
la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán
đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với
quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là
những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có.
Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ
được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân,
bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình,
vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Ðừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung
các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh
biệt các anh.”
Tướng
Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Ðến
bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm: “Xin giúp đỡ giùm vợ
con tôi. Vĩnh biệt tất cả.” Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được
lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an
ủi mẹ tôi. Yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh
cho tất cả mọi người phải ra ngoài.
Không
ai chịu đi. Hưng phải sô từng người ra cửa. Tôi van xin: “Mình cho em ở
lại chứng kiến mình chết.” Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng
quay vào văn phòng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa: “Nghĩa trở lại
với tôi.” Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa
trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ. Tiếng nổ nghe chát
chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 phút tối ngày 30 tháng 4 năm
1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết.
Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi
chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai
cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rảy từng cơn. Ðôi
mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm
lấy Hưng hỏi: “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?” Hưng
không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở: “Thiếu Tướng!
Trời ơi, Thiếu Tướng!” Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ
đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt
đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào
khóc: “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”
Tôi
bảo Giêng: “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn
Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn
chận Việt Cộng.” Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng
thay không biết khẩu súng ở đâu. Ðến lúc tắm rửa người, thay drap dấy
máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn
bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc
dộng, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba,
khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên
nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa
tay bế bé như mọi khi.
Nghĩa
điện thoại khắp nơi tìm Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vã
mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra
máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên
các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4,
tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi,
30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang: “Alô, Alô, ai đây?” “Dạ thưa chị
đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây.” Tôi bàng hoàng: “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần
không?” Tôi cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, để Cẩn không nhận
biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng
súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi: “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi
gặp ông một chút.” Tôi lúng túng vài giây: “Ông đang điều động quân
ngoài kia.” “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa
đâu chị?” “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé.” Tôi
áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang
Nghĩa tôi hỏi: “Ðại Tá Cẩn đòi gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?”
Nghĩa lúng túng: “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi.” “Không thể nói như vậy
được. Ðại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng.”
Trí
óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống
anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt: “Thiếu Tướng
không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao?
Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Ðịch ra sao?”
“Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng
còn giữ y lịnh không?” “Cẩn vui lòng chờ chút.” Tôi lại áp chặt ống điện
thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích
tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn
hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định: “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu
Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?” Cẩn đáp thật nhanh; “Lúc nào
cũng sẵn sang, chớ chị!” “Tốt lắm, vậy thì y lịnh.” “Dạ, cám ơn chị.”
Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ:
“Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!”
“Anh
Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồi viết lại những
dòng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện
thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Ðại Tá
Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào
hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia
thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ,
hẳn anh tha thứ cho tôi?” Kính thưa toàn thể quý vị thuộc thân bằng
quyến thuộc của Ðại Tá Cẩn. Kính thưa quý vị đã đọc những giòng chữ này.
Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng
Hưng đã chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người
lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử
thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người
như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh
trưởng Chương Thiện.
Mười
một giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Ðiện thoại lại reo. Lần này, chính
giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam: “Alô, chị Hưng!” Tôi vừa khóc,
vừa đáp lời Thiếu Tướng: “Thưa Thiếu Tướng…” Giọng Tướng Nam buồn bã u
uất: “Tôi biết rồi, chị Hưng. tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng.” tôi
vẫn nức nở: “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?” “Hưng đã nói
với chị nghe hết rồi hả? Ðành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát
hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được
Ðại Tá…thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời
yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu
quả, khó cứu vãn nổi tình hình.” Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi:
“Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?” “Thưa biết. Hưng cũng bảo
tôi như Thiếu Tướng đã vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có
định phản công không?” “Chị quên còn dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng
dân, còn mình thì…Ðàng chị thế nào?” “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đã
tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết
đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản. “Còn mấy chú đâu hết?” “Chỉ
có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả đã bỏ đi hết. Hưng đã
chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác
Hưng.” “Chị tẩm liệm Hưng chưa?” “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo
xong thì Thiếu Tướng gọi tới.” “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ
không còn kịp. chúng nó sẽ không để yên.”
“Thiếu
Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng
thật sao?” Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi
cũng sẽ không quên: “Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi
và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội
giờ chót.” Người chép miệng thở dài: “Thôi chị Hưng ơi.” Bỗng giọng
người trầm xuống, ngậm ngùi: “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng
tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước.” Giọng
người bình tĩnh và rắn rỏi: “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. chị phải
sống vì mấy đứa nhỏ. Ðêm nay có gì nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không
được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới.” “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng.”
Nói
chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Ở dưới
sân, sĩ quan và lính tráng đã đi hết. Trừ có Nghĩa còn ở lại. Cổng rào
bỏ ngỏ. Gío thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai.
Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê
lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Hòa, cho trò đời bể dâu
hưng phế. Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa
Nam, của Ðại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời
tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm
buồn của Tướng Nam.
Bảy
giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế
trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay
lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản,
Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y
Viện ngay vì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân
Y Viện. Tướng Nam đã bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5,
1975. cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng
người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm,
biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi
xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam còn
nằm đó, cầu nguyện: Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng
để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ
linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiêng phò hộ cho mẹ con
tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc
chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.
Trung
Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can
đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được
Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn
ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. Tám giờ sáng ngày 1 tháng 5,
1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu
nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt
Hưng hé mở, nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai giòng lệ
chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.
Người
khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người
khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho lúc đến chết, hai Tướng Nam và Hưng
chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người. Chớ
không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Ðại Tá kia. Xin quý vị hiểu rõ
giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đình hai
ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi lòng người mất niềm
tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng
trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.
Vận
nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng
không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một
ngày chúng ta còn mang trong người dòng máu của dân tộc Lạc Hồng, còn
hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Ðó là
món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả
được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt
của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để
trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm
hại, đạp chà nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nươc Cộng Sản?
Ðọc
những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu
tất cả sự thật vì sao Tướng Nam và Tướng Hưng đã phải tự sát để bảo tồn
tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ
lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người
còn sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương
trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: “Chúng ta đã làm được gì cho
đừng hổ thẹn với những người đã nằm xuống? Họ đã nằm xuống không phải là
vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn sâu chữ mà họ từng
mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được gì cho
quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Ðừng vô tình thành
tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho tổ quốc.
Bà Lê Văn Hưng
(Nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng)
(Nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng)
baotoquoc
No comments:
Post a Comment