Kính gửi:
Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chủ tịch và Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Thủ tướng và Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tổng Bí thư và Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ tịch và Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Thủ tướng và Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tổng Bí thư và Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
Thưa quý vị,
Chúng
tôi, một số trí thức sinh sống tại nước ngoài, gửi đến quý vị lá thư
ngỏ này để phát biểu những suy nghĩ thẳng thắn và xây dựng trước tình
hình nghiêm trọng của Việt Nam hiện nay.
Trước
hết, chúng tôi muốn bày tỏ sự ủng hộ bản “Tuyên cáo” ngày 25 tháng 6,
2011 của 95 nhân sĩ, trí thức, tố cáo và lên án nhà cầm quyền Trung Quốc
liên tục gây hấn, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Chúng tôi đồng thời hưởng ứng bản “Kiến nghị” ngày 10 tháng 7, 2011 của
20 nhân sĩ, trí thức, kêu gọi Quốc hội và Bộ Chính trị công khai hoá
thực trạng quan hệ Việt-Trung, nhấn mạnh vào nhu cầu đổi mới hệ thống
chính trị, tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của nhân dân để có thể
thực hiện thành công nhiệm vụ bảo vệ và phát triển đất nước.
Cả
hai bản Tuyên cáo và Kiến nghị đại diện những tiếng nói can đảm, trung
thực của giới trí thức yêu nước mà chúng tôi có cơ hội tiếp xúc, trực
tiếp hay gián tiếp, trong nhiều năm qua. Dù xa quê hương đã lâu, dù còn
mang quốc tịch Việt Nam hay đã trở thành công dân nước ngoài, chúng tôi
vẫn luôn quan tâm đến các khó khăn và thuận lợi của đất nước. Do đó
chúng tôi ủng hộ những ý kiến chính đáng của nhân sĩ, trí thức trong
nước và chỉ trình bày ngắn gọn một số nhận định bổ túc sau đây.
Hiểm hoạ ngoại bang
Sau
chiến tranh biên giới cực Bắc năm 1979, nguồn tư liệu do Nhà nước bạch
hoá về quan hệ Việt-Trung cho thấy mối quan hệ giữa hai nước không tốt
đẹp như nhiều người lầm tưởng. Do hơn 30% dân số Việt Nam hiện sử dụng
internet, thông tin ngày nay không còn là độc quyền của riêng ai. Kết
hợp các nguồn tư liệu khác nhau cũng cho thấy rằng đối với Trung Quốc,
“Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính” (“Sự
thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua”, nxb Sự thật,
1979, trang 8).
Quan điểm trên được
thể hiện rõ nét qua một chiến lược nhất quán của Trung Quốc trong gần 60
năm nay tuy chiến thuật tùy lúc, tùy thời có khác nhau: phản bội Việt
Nam ở Hội nghị Geneva năm 1954, ngăn cản Việt Nam thương lượng với Mỹ
năm 1968, dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 1974, phát động
chiến tranh biên giới năm 1979, dùng vũ lực đánh chiếm một phần Trường
Sa năm 1988; và sau khi quan hệ giữa hai nước đã bình thường hoá năm
1991, từng bước lũng đoạn kinh tế, thu vét tài nguyên, thực hiện mưu đồ
đồng hoá, xâm phạm chủ quyền và đối xử tàn bạo đối với ngư dân Việt Nam
trên Biển Đông.
Sức mạnh dân tộc
Việt
Nam có lịch sử chống ngoại xâm, phần lớn là từ phương Bắc, trong nhiều
thế kỷ. Việt Nam cũng có nhiều tài nguyên thiên nhiên, với non 20 triệu
héc-ta rừng, và hơn 3.200km đường biển. Trong dân số gần 90 triệu, hơn 3
triệu người có trình độ đại học trở lên. Do biến chuyển thời cuộc, hiện
có hơn 3 triệu người gốc Việt sinh sống tại nước ngoài, trong đó có hơn
300.000 người có trình độ đại học trở lên và nhiều người là chuyên gia,
giáo sư ở những công ty, trường đại học hàng đầu của thế giới.
Vị thế chính quyền
Sau
hơn 35 năm lãnh đạo một đất nước thống nhất, các nhà cầm quyền chắc
biết rõ hơn ai hết toan tính thâm độc của Trung Quốc và tình thế nguy
nan của Việt Nam. Nhưng trong thời gian qua những chính sách và biện
pháp đối nội và đối ngoại được thực thi đã tỏ ra lúng túng và mâu thuẫn,
trái với sự mong đợi của toàn dân. Tình trạng này hiển nhiên làm suy
yếu sức mạnh dân tộc, đòi hỏi chính quyền cần phải có những thay đổi
toàn diện về cơ chế và chính sách mới có thể bảo vệ được chủ quyền và
phát triển đất nước.
Những việc cần làm
Khác
với các cuộc xâm lăng trong quá khứ, Trung Quốc trong thế kỷ XXI có
nhiều lý do cần thiết hơn và nhiều điều kiện thuận lợi hơn để “khuất
phục và thôn tính” Việt Nam mà không cần sử dụng vũ khí hay tổn thất
nhân mạng. Mặc dù yếu kém hơn Trung Quốc về kinh tế và quân sự, Việt Nam
có một lợi thế lớn chưa từng có trong lịch sử: không một nước tự do,
dân chủ nào muốn thấy một nước độc tài chuyên chế như Trung Quốc xâm
phạm quyền lợi hay quyền tự quyết của một nước khác, đe dọa tình trạng
ổn định trong khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, cũng sẽ không có quốc gia
hay liên minh nào có thể hỗ trợ Việt Nam nếu, trước hết, chính phủ Việt
Nam không chứng tỏ là có ý chí và khả năng bảo vệ dân tộc và đất nước
của mình.
Một lần nữa, chúng tôi
khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ các ý kiến chính đáng vừa qua của nhân sĩ,
trí thức trong nước. Chúng tôi hi vọng quý vị lãnh đạo tiếp thu đóng góp
quan trọng ấy và sớm thiết lập một lộ trình cải cách cụ thể để được
nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Chúng tôi đề nghị những điểm chính dưới
đây cần được chú trọng khi quyết định lộ trình:
1.
Đối với Trung Quốc: Cần xác định công khai và rõ ràng lập trường của
Việt Nam đối với chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa-Biển Đông: mọi tranh chấp
phải được giải quyết dựa trên luật pháp quốc tế và chứng cứ lịch sử. Cần
xét lại toàn bộ quan hệ Việt-Trung và chỉnh sửa những quyết định sai
lầm trước đây khiến Việt Nam mất cân bằng, lệ thuộc vào mối quan hệ này
trên các lãnh vực khác nhau. Cần nhấn mạnh truyền thống hiếu hòa của
Việt Nam với nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là trí thức tiến bộ, để tranh
thủ sự ủng hộ của họ trong việc cùng tranh đấu cho công bằng và quan hệ
bình đẳng giữa hai nước.
2. Đối
với ASEAN và các nước khác: Cần tiếp tục củng cố và phát triển quan hệ
hợp tác với thành viên ASEAN cũng như những nước then chốt khác. Cần
đồng thuận trong việc bác bỏ đòi hỏi trên 80% chủ quyền Biển Đông của
Trung Quốc và trong lập trường đàm phán đa phương với Trung Quốc về
Trường Sa. Cần tranh thủ sự ủng hộ của ASEAN và quốc tế cho một giải
pháp về Hoàng Sa trên cơ sở luật pháp quốc tế và chứng cứ lịch sử. Cần
thúc đẩy sự đồng thuận của ASEAN trong việc đổi tên Biển Đông thành Biển
Đông Nam Á để góp phần vô hiệu hóa đòi hỏi chủ quyền phi lý của Trung
Quốc, và để tránh ngộ nhận về các tên gọi khác nhau cho một vùng biển
chung.
3. Đối với nhân dân trong
nước: Cần sửa đổi Hiến pháp để đẩy mạnh quá trình dân chủ hoá với ba cơ
chế hoàn toàn độc lập: Quốc hội và cơ chế đại diện ở cấp thấp hơn, cơ
chế toà án và cơ chế chính quyền. Cần thực hiện tự do bầu cử và ứng cử.
Cần tôn trọng các quyền tự do công dân quy định bởi Hiến pháp Việt Nam
và những công ước quốc tế mà Việt Nam cam kết tôn trọng, cụ thể như
quyền tự do biểu tình và tự do phát biểu nhằm phản đối hành động hung
hãn của Trung Quốc trên Biển Đông. Cần trả lại tự do cho những công dân
bị giam giữ vì tranh đấu ôn hòa cho tự do, dân chủ, cho chủ quyền quốc
gia, để đoàn kết toàn dân. Cần cải tổ hệ thống luật pháp, kinh tế, tài
chính, giáo dục, y tế, v.v. để đẩy lùi tham nhũng, giảm thiểu bất công,
gia tăng năng lực, bảo vệ tài nguyên. Cần tham khảo với những nhóm
nghiên cứu độc lập (như Viện Nghiên cứu Phát triển IDS đã phải tự giải
thể năm 2009) trong quá trình hình thành các chính sách có tầm vóc quốc
gia và quốc tế.
4. Đối với cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài: Cần tạo bước đột phá để cải thiện sự
hợp tác của cộng đồng vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Cần cho
tái thiết Nghĩa trang Biên Hoà vô điều kiện, giúp đỡ chương trình tìm
kiếm hài cốt những người đã bỏ mình trong trại tù cải tạo, không can
thiệp vào việc xây dựng bia tưởng niệm thuyền nhân ở các nước Đông Nam
Á. Đây là bước cần thiết bắt đầu một quá trình nghiêm túc thực hiện hoà
giải và hoà hợp dân tộc.
Mặc dù chính quyền kêu gọi trong nhiều năm, sự đóng góp về trí tuệ của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vẫn quá nhỏ bé: số chuyên gia, trí thức hàng năm về nước “chuyển giao công nghệ” chỉ trong vòng 500 lượt người trên con số hơn 300.000 trí thức.
Có
hai nguyên nhân chính: (1) cơ chế chính quyền hiện hữu không những đánh
mất niềm tin của người dân trong nước mà còn là cản trở lớn cho trí
thức ở nước ngoài muốn đóng góp vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” do chính Nhà nước đề ra; (2) sự nghi
ngờ, thiếu tin tưởng vào thiện chí của trí thức còn phổ biến trong một
bộ phận không nhỏ của lãnh đạo.
Cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài còn có điều kiện nghiên cứu và vận động
tìm kiếm những giải pháp thuận lợi cho Việt Nam, như tranh thủ sự ủng
hộ của các chính phủ và dư luận quốc tế cho quan điểm của Việt Nam. Thực
tế là một số chuyên gia trong và ngoài nước từng hợp tác với nhau trong
các hoạt động theo chiều hướng này và công cuộc vận động đã đạt được
một số kết quả tích cực về vấn đề Biển Đông và sông Mekong.
Trước
chiến lược trước sau như một của Trung Quốc đối với Việt Nam và trước
tham vọng bành trướng, bá quyền ngày càng lộ rõ của Trung Quốc, đất nước
và nhân dân đòi hỏi quý vị phát huy sức mạnh dân tộc, đoàn kết toàn dân
trong và ngoài nước trong giai đoạn cực kỳ hiểm nguy cho Việt Nam.
Chúng tôi mong quý vị dũng cảm nắm lấy thời cơ duy nhất để thực hiện một
cuộc cách mạng dân chủ toàn diện, xây dựng một chính quyền thực sự của
dân, do dân và vì dân, nhằm đưa Việt Nam lên vị thế xứng đáng với các
nước trong khu vực và cộng đồng thế giới.
Trân trọng kính chào,
Ngày 21 tháng 8 năm 2011
Đồng ký tên:
Liên lạc điện thư: ThuNgo2108@gmail.com
http://www.danchimviet.info/archives/41725
No comments:
Post a Comment