Đòan Thanh Liêm - Bài 3 – Tôn giáo và Xã hội Dân sự Tòan cầu (Religion and the Global Civil Society)
Trong
bài viết từ năm 2009 với nhan đề “ Sơ lược về Xã hội Dân sự Tòan cầu”,
tôi đã có dịp trình bày về những nét chính yếu của một thực thể văn hóa
xã hội đang mỗi ngày một thêm phát triển
trong thế giới ngày nay với
khuynh hướng tòan cầu hóa về nhiều phương diện, đặc biệt là về mặt khoa
học kỹ thuật, về kinh tế chính trị, cũng như về văn hóa xã hội, và nhất
là về sự bùng nổ thông tin qua kỹ thuật của mạng lưới tòan cầu internet
vào những năm đầu của thế kỷ XXI hiện nay.
Trong
bài viết này, tôi muốn được trình bày rõ ràng chi tiết hơn về các mặt
sinh họat của Tôn giáo trên bình diện địa lý trải rộng khắp mọi vùng của
thế giới nhân sinh, cũng như trên phương diện quy mô những vấn đề hệ
trọng có liên hệ mật thiết đến sự sống còn của tòan thể các dân tộc hiện
đang sinh sống trên hành tinh trái đất này.
Để
độc giả dễ bề theo dõi câu chuyện, tôi xin được nhắc lại một cách hết
sức vắn tắt về vài ba điều cốt yếu đã được đề cập đến trong các bài
trước thuộc về chủ đề Xã hội Dân sự, mà có liên quan chặt chẽ đến sinh
họat của càc tổ chức thuộc bất kỳ niềm tin tôn giáo nào. Tiếp theo, ta
sẽ nêu ra những đường hướng phát triển sinh họat tôn giáo trong bối cảnh
chung của xã hội đang trên đà tòan cầu hóa hiện nay vào đầu thế kỷ XXI.
A – Tôn giáo phát triển cùng nhịp với Xã hội Dân sự.
1
– Trước hết, tôn giáo là một thành phần quan trọng nằm trong khu vực Xã
hội Dân sự, với tính chất “phi chính phủ“ (non- governmental NGO) và
“bất vụ lợi” (non-profit), tức là nằm ngòai khu vực chính quyền Nhà
nước, mà cũng khác biệt với khu vực Thị trường của các công ty xí nghiệp
là những cơ sở kinh doanh chỉ nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận (for
profit). Bình thường XHDS, cũng như Thị trường kinh doanh sinh họat
trong khuôn khổ của một quốc gia, và chịu sự chi phối của luật pháp
trong quốc gia đó. Trong nhiều quốc gia hiện nay, điển hình như ở Mỹ, ở
Ấn độ, thì đã có đến hàng triệu những tổ chức NGO và nhiều triệu những
nhóm nhỏ (small groups) mà lại có những họat động tại nhiều nơi trên
trường quốc tế, chứ không phải chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ bé của
riêng nước mình. Lại nữa, nhiều tổ chức nhỏ như Phong trào Bảo vệ Môi
sinh (Green Peace), tổ chức Minh bạch Quốc tê (Transparency
International), Ân xá Quốc tế (Amnesty International) v.v…, thì lại có
họat động trên phạm vi tòan cầu, mặc dầu ngân sách và nhân sự của họ rất
là eo hẹp hạn chế.
2 – Nhưng với sự
phát triển của những công ty đa quốc gia (multi-national corporations),
những định chế kinh tế tài chính đồ sộ như Ngân Hàng Thế giới (World
Bank WB), Quỹ Tiền tệ Thế giới (International Monetary Funds IMF)…, thì
trên thế giới ngày nay đang trổi lên một thực thể kinh tế đồ sộ được
gọi là nền kinh tế tòan cầu (the Global Economy).
Rồi
đến tổ chức Liên Hiệp Quốc tuy chưa phải là một thứ “Chính phủ Tòan
cầu” với thẩm quyền bao trùm trên mọi quốc gia thành viên, thì đó cũng
là một Diễn Đàn, một Cơ cấu chính trị có tính cách tòan cầu nhằm giải
quyết những tranh chấp mâu thuẫn giữa các quốc gia, cũng như tăng cường
sự hợp tác phát triển và tình liên đới huynh đệ giữa mọi thành viên
trong cộng đồng quốc tế.
Và cũng
trong chiều hướng phát triển tương tự như thế, mà ta có thể nói rằng
hiện đang có một thực thể văn hóa xã hội bao quát trong thế giới hiện
đại được gọi là “Xã hội Dân sự Tòan cầu” (the Global Civil Society).
3
– Nhờ sự giao thông di chuyển mau lẹ, cũng như thông tin liên lạc dễ
dàng, và nhất là phong trào di dân từ nước này qua nước khác mỗi ngày
một thêm phát triển, các tôn giáo đã thiết lập được cả một hệ thống
những tổ chức họat động riêng biệt của mình vượt ra ngòai mọi biên giới
quốc gia, qua các nhà dòng thừa sai hay do các cơ sở văn hóa xã hội, từ
thiện nhân đạo. Hiện tượng phổ biến này không phải là đặc trưng duy nhất
xưa nay của Thiên chúa giáo từ các quốc gia Âu Mỹ, mà còn được thấy
trong mọi tôn giáo, cụ thể như với phong trào phát triển Hồi giáo rất
mạnh mẽ khắp nơi từ hơn nửa thế kỷ nay, hoặc sự phổ biến tại các nước Âu
Mỹ của các trung tâm về thiền học xuất phát từ Á châu, của đạo Hindu
xuất phát từ tiểu lục địa Ấn độ, của đạo Bahai’ xuất phát từ Ba Tư v.v…
Thành
ra tình trạng đa dạng và đa nguyên về Tôn giáo (religious
diversity/pluralism) mỗi ngày càng thêm khởi sắc tại nhiều quốc gia tiến
bộ trên thế giới ngày nay. Và hậu quả là nhân lọai đang có một tinh
thần bao dung về phương diện tôn giáo (religious tolerance) được cổ võ
khích lệ ở mức độ cao nhất trong lịch sử các dân tộc từ xưa tới nay. Đó
quả là một bước tiến bộ rất đáng lạc quan cho lòai người sau bao nhiêu
thế kỷ tranh chấp đẫm máu tàn bạo vì lý do mâu thuẫn tôn giáo
.
B – Tôn giáo ngày nay lại có thêm nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phục vụ con người và xã hội.
1
– Một số nhân vật điển hình nổi bật vì những họat động từ thiện nhân
đạo và tranh đấu bảo vệ nhân phẩm và nhân quyền, cũng như góp phần vào
công cuộc xây dựng hòa bình trên thế giới.
Trước
khi phân tích về cơ cấu tổ chức và lề lối điều hành của các chương
trình hành động xã hội dựa vào niềm tin tôn giáo ( Faith-based Social
Action Program), ta có thể liệt kê ra một số nhân vật tôn giáo xuất
chúng với những họat động được cả thế giới biết đến và cảm phục, cụ thể
như sau đây :
a/ Mục sư Albert
Schweitzer với bệnh viện chăm sóc cho người nghèo túng ở vùng rừng rậm
trong xứ Gabon ở Phi châu. Ông sinh trưởng tại vùng Alsace, mà vừa là
nhà thần học, nhạc sĩ và bác sĩ y khoa, ông có liên hệ bà con với thân
mẫu của triết gia Jean Paul Sartre. Sự hy sinh kiên trì của ông trong
việc chăm sóc cho các bệnh nhân ở Phi châu đã được thế giới đánh giá rất
cao, và ông đã được cấp phát giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 1952.
b/
Nữ tu Teresa ở Calcutta, thường được gọi là Mẹ Teresa (Mother Teresa)
là người xứ Albania mà qua phục vụ những người khốn cùng nhất trong khu
vực Calcutta thuộc tiểu lục địa Ấn độ. Cả thế giới khâm phục sự hy sinh
của bà cũng như của các chị em nữ tu Bác ái do bà điều khiển để tận tình
chăm sóc cho những người tuyệt vọng vì bệnh họan, đói khát cận kề với
cái chết. Chính cái cung cách chăm lo trìu mến chân thành như thế đối
với lớp người cùng đinh mạt hạng trong xã hội Ấn độ đã làm cho tòan thế
giới cảm kích mến chuộng và Chánh phủ Na Uy đã cấp phát cho Mẹ Teresa
giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 1979, và chánh phủ Ấn độ cũng đã cấp
phát quy chế công dân danh dự cho bà.
c/
Giám mục Desmond Tutu tại Nam Phi là một trong những người nổi tiếng
trên thế giới vì đã tận lực tranh đấu chống nạn kỳ thị chủng tộc
Apartheid ở Nam Phi và ông đã được vinh danh với giải thưởng Nobel Hòa
bình vào năm 1984, cùng với nhiều giải thưởng cao quý khác trên thế
giới. Ông cũng được Tổng thống Nelson Mandela mời chủ tọa Ủy Ban Sự Thật
và Hòa Giải ở Nam Phi vào cuối thập niên 1990, nhằm hàn gắn những hận
thù sâu đậm nặng nề giữa các sắc dân da trắng và da màu do chế độ kỳ thị
tàn ác lâu đời Apartheid gây ra.
d/
Mục sư Martin Luther King ở Mỹ là một kiện tướng lãnh đạo phong trào
tranh đấu dân quyền của lớp người da màu chống lại nạn kỳ thị tàn bạo,
dày xéo nhân phẩm lâu đời đối với người Mỹ gốc Phi châu tại các tiểu
bang thuộc khu vực miền Nam. Việc tranh đấu bất bạo động mà rất mực kiên
quyết của ông đã được tòan thể người da màu hưởng ứng, và gây được sự
ngưỡng mộ và thiện cảm của khắp thế giới, ông được tôn vinh với giải
thưởng Nobel Hòa bình năm 1964. Nhưng tiếc thay, vào năm 1968, ông lại
bị một kẻ cuồng tín sát hại.
e/ Mục
sư Rick Warren tại Saddleback Valley Community Church trong Quận Cam,
California được tạp chí Time xếp vào danh sách “15 nhà lãnh đạo thế giới
đáng kể nhất trong năm 2004”. Ông là tác giả của cuốn sách bestseller,
bán được trên 30 triệu cuốn trong vòng có 6 – 7 năm. Cộng đòan tín hữu
xung quanh ông hiện đã lên đến con số trên 25,000 người, được xếp hàng
thứ 8 trong số trên 1,200 Megachurch (Đại giáo đòan) tại Mỹ. Megachurch
này đặc biệt đang góp phần cộng tác với chánh phủ và nhân dân Rwanda
trong việc thực hiện một chương trình xây dựng và phát triển kinh tế xã
hội và nhân đạo rất lớn lao tại xứ sở này ở Phi châu là nơi đã xảy ra vụ
tàn sát diệt chủng ghê rợn vào năm 1994. Megachurch này cũng tham gia
hết sức tích cực vào việc chăm sóc cho hàng chục triệu nạn nhân bệnh
HIV/AIDS ở Phi châu nữa.
f/ Ông
Inamullah Khan là vị sáng lập và Tổng thư ký Hội nghị Hồi giáo Thế giới
(The World Muslim Congress) tại Karachi, Pakistan. Ông dành trọn cuộc
đời để xây dựng hòa bình giữa người Muslim, Thiên chúa giáo và Do thái
giáo. Đặc biệt, ông còn đóng vai trò chủ yếu trong việc giàn xếp chấm
dứt cuộc chiến tranh giữa Iran và Irak hồi đầu thập niên 1980. Năm 1987,
ông được cấp phát Giải thưởng Hòa bình Niwano của Nhật bản. Và năm
1988, ông còn được lãnh Giải thưởng Templeton ở Anh quốc vì những đóng
góp cho sự Tiến bộ về Tôn giáo, giải thưởng này có giá trị hiện kim là
1,000,000 đồng bảng Anh, còn cao hơn giải Nobel Hòa bình nữa. Ông qua
đời vào năm 1997 ở tuổi 85, trước sự thương tiếc của biết bao nhiêu
người.
g/ Đức Dalai Lama, vị lãnh đạo
tinh thần và chính trị của Tây tạng cũng đã được trao tặng giải Hòa
bình Nobel năm 1989, vì luôn cổ võ giải pháp hòa bình dựa trên sự khoan
dung và tương kính lẫn nhau nhằm bảo tòan truyền thống lịch sử và văn
hóa của dân tộc Tây tạng. Vị lãnh đạo này kiên quyết chống đối việc sử
dụng bạo lực trong cuộc tranh đấu nhằm giải phóng cho xứ sở của ông.
Ngài được người dân Tây tạng tôn kính như là Vị Phật sống vậy.
2 – Chương trình Hành động Xả hội dựa vào Niềm Tin.
Nói
chung, thì tôn giáo nào cũng có ba lọai sinh họat chính yếu, đại để là :
Giảng đạo- Giáo lý-Nghi lễ (Ministry), Phục vụ Xã hội (Service) và Xây
dựng Hòa bình (Peacebuilding).
Vì lý
do kỹ thuật quản lý điều hành, các nhiệm vụ này được phân bố cho các cơ
sở khác nhau, cụ thể như cơ quan Catholic Relief Services (CRS = Cứu trợ
Công giáo) thì dù do Giáo Hội Công giáo Mỹ thành lập, nhưng họat động
lại tách biệt khỏi hệ thống mục vụ của giáo quyền. Cơ quan World Vision
(WV) cũng vậy, đó là một tổ chức họat động rất mạnh mẽ cùng khắp thế
giới, nhưng cũng không trực tiếp thống thuộc vào một thẩm quyền của một
Giáo hội Tin lành nào.
a/ Sau một quá
trình họat động lâu dài, các tổ chức từ thiện nhân đạo này đã rút tỉa
được nhiều kinh nghiệm quý báu, để mở rộng phạm vi họat động ra nhiều
lọai dịch vụ phong phú nhằm đáp ứng được nhu cầu mỗi ngày thêm phức tạp
của người dân với sự khác biệt rõ rệt về truyền thống văn hóa xã hội,
cũng như tôn giáo tại các châu lục khác nhau.
Khởi
đầu, đó chỉ là một chương trình cứu trợ khẩn cấp để cấp phát thực phẩm,
quần áo, thuốc men cho các nạn nhân thiên tai vì động đất, bão lụt hay
do chiến tranh gây ra. Nhưng lần hồi, thì các tổ chức lớn như World
Vision, Catholic Relief Services… lại đã có sáng kiến thực hiện những dự
án có tính cách phát triển về kinh tế kỹ thuật (economic and technical
development projects) nhằm giúp người dân có thể tự túc mưu sinh một
cách lâu bền được, mà không phải cứ ngửa tay đi xin viện trợ, xin của bố
thí mãi. Muốn làm được như vậy, các tổ chức này phải tìm cách “liên
kết” (in partnership) với các đối tác ở từng địa phương, cũng như với
các cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc như UNESCO, UNICEF, UNHCR,
WHO, ILO ( Cơ quan Văn hóa, Cứu trợ Nhi đồng, Cao Ủy Tỵ nạn, Tổ chức Y
tế, Văn phòng Lao Động) v.v…
b/ Một vài con số thống kê minh họa.
*
Vào năm 2007, ngân sách của World Vision là 2.6 tỉ mỹ kim, với tổng số
nhân viên là 40,000 người, mà trên 90% là người địa phương các quốc gia
sở tại và họat động sát cánh với người dân tại trên 100 quốc gia trong
cuộc tranh đấu chống lại nạn đói, sự nghèo túng, nạn bất công xã hội…
Riêng tại Ấn độ, WV đã có kinh nghiệm làm việc ở đây từ trên 50 năm dàn
trải khắp 26 tiểu bang của quốc gia rất đông dân này. WV còn có sáng
kiến hướng dẫn cho giới nông dân ở các nước Á châu, Phi châu, châu Mỹ
Latinh mở những nông trại nhỏ với những kỹ thuật đơn giản để cho họ và
gia đình có thể tự túc được (small farms for self-reliance).
*
Vào năm 2010, ngân sách của CRS là trên 900 triệu mỹ kim với tổng số
nhân viên là trên 5,000 người và cũng họat động tại 90 quốc gia. CRS
cũng đã chi ra 190 triệu mỹ kim để cứu trợ các nạn nhân nạn Sóng thần
Tsunami ơ Indonesia năm 2004. CRS cũng dự trù cung ứng 200 triệu mỹ kim
trong 5 năm cho các nạn nhân nạn động đất ở Haiti năm 2010.
Ngòai
ra CRS lại còn thường xuyên tổ chức các khóa hội thảo quốc tế về Xây
dựng Hòa bình tại các cơ sở chuyên môn như Mindanao Peace Institute ở
Philippines, tại Joan B Kroc Institute for International Peace Studies
tại Đại học Notre Dame ở Indiana Hoa kỳ.
c/ Họat động cứu trợ của Hồi giáo và Phật giáo.
*
Từ 40 – 50 năm gần đây, với sự tăng giá của dầu hỏa, nên nhiều quốc gia
Hồi giáo ổ vùng Trung Đông đã trở nên giàu có, và họ đã rộng rãi đóng
góp vào việc từ thiện xã hội tại nhiều nới, nhất là đối với các đồng đạo
của họ mà gặp khó khăn vì thiên tai hay do bị độc tài áp bức như ở Liên
Xô thời đó. Tại nhiều nước như Ả rập Seoud chẳng hạn, chính quyền đã
giúp thiết lập một cơ quan cứu trợ Hồi giáo lấy tên là “International
Islamic Relief Organisation” (IIRO). Vào năm 1984, một tổ chức độc lập
được thành lập và lấy tên là “Islamic Relief Worldwide” (IRW). Tổ chức
IRW này được nhận vào làm thành viên của Hội Đồng Kinh tế Xã hội của
Liên Hiệp Quốc, và liên kết họat động với Hội Hồng Thập tự Quốc tế và
Hội Lưỡi Liềm Đỏ (Red Crescent) và cùng chung sức với 15 thành viên
liên kết khác nữa. Ngân sách của IRW vào năm 2009 được ghi là có trên
100 triệu mỹ kim.
* Về phía Phật
giáo, thì chưa có những tổ chức từ thiện nào có quy mô lớn lao có thể so
sánh với các tổ chức WV, CRS, IRW nói trên. Nhưng từ xưa, tại các chùa ở
miền quê hẻo lánh, thì các Phật tử ở địa phương vẫn thường xuyên tổ
chức việc cứu đói, cứu nạn nhân thiên tai bão lụt v.v… Gần đây báo chí
có đưa tin một số chùa ở Thái Lan đã thâu nhận và săn sóc cho những
người bị bệnh HIV/AIDS mà bị gia đình hay xã hội ruồng bỏ. Trên
Internet, ta có thể tìm thấy thông tin về một cơ quan lấy tên là
Buddhist Global Relief (BGR) mới được thành lập 4-5 năm nay, và có
chương trình họat động tai Kenya, Niger, Sri Lanka, India, Cambodia,
Haiti, Mỹ và Việt nam. Ngân sách của BGR năm 2009 được ghi là có trên
111,000 mỹ kim.
Cũng cần ghi thêm về
Quỹ Từ Tế ( Tzu Chi Foundation – the Buddhist Compassion Relief) do Sư
Bà Cheng Yen ở Đài Loan thiết lập từ năm 1966 nhằm góp phần vào các
chương trình phát triển cộng đồng, đặc biệt về y tế, giáo dục và nhân
bản ở Đài Loan và trên nhiều quốc gia khác. Hiện nay Quỹ đã quy tụ được
10 triệu thiện nguyện viên và yểm trợ viên tại 50 quốc gia và điều hành
các chương trình cứu trợ tại trên 70 nước khắp thế giới. Tháng 4 năm
2011, tuần báo Time đã xếp tên tuổi của Sư Bà Cheng Yen vào danh sách “
100 Nhân vật có Ảnh hưởng nhất trên thế giới”.
C – Để tóm lược lại.
Qua sự trình bày sơ lược trên đây, ta có thể tạm thời rút ra được một vài ghi nhận khái quát như sau :
1
– Vì giàu lòng từ bi bác ái, nên tôn giáo nào cũng dễ dàng kêu gọi các
tín đồ của mình tham gia tích cực vào công việc từ thiện nhân đạo để cứu
trợ người đồng lọai đang gặp cảnh khó khăn ngặt nghèo do thiên tai hay
do chiến tranh tàn phá. Khi dấn thân nhập cuộc để thực hiện những công
tác này, các tôn giáo đã đóng vai trò “làm đối tác” đối với chính quyền
nhà nước trong sự nghiệp phục vụ quần chúng nhân dân, như đã trình bày ở
bài 1 trong lọat bài này (counterpart).
2
– Nhưng lần hồi các tôn giáo đã mở rộng thêm phạm vi họat động nhân đạo
sang các lãnh vực khác như phát triển kinh tế xã hội, tìm mọi cách để
bảo vệ các nạn nhân của nạn buôn người, của nạn bất công đàn áp bóc lột,
nạn độc tài chà đạp nhân phẩm và nhân quyền của các công dân… Ngòai ra,
các tôn giáo còn đi xa hơn nữa trong lãnh vực “Làm trung gian để giàn
xếp những mâu thuẫn tranh chấp ở các địa phương”, cùng tìm cách góp phần
vào công việc “Xây dựng Hòa bình trên Thế giới” nữa. Để có thể thực
hiện viên mãn được những công việc khó khăn phức tạp này, các tôn giáo
đã bắt đầu biết cách liên kết rộng rãi với giới hàn lâm đại học
(academia),với các tổ chức NGO khác, và cả với các cơ quan chuyên môn
của Liên Hiệp Quốc nữa. Làm như thế, các tôn giáo đã đóng được “vai trò
làm Đối trọng đối với các chính quyền nhà nước” (counterbalance) trong ý
hướng bảo vệ Công lý và Hòa bình cho con người trong xã hội ngày nay
vậy.
3 – Nhờ sự cộng tác chân thành
và sự liên kết bền chặt với nhiều thành phần có niềm tin tôn giáo khác
nhau, qua những công tác cụ thể, thiết thực nhằm phục vụ đồng lọai kém
may mắn trong suốt một thời gian lâu dài như vậy, mà các tôn giáo đã tạo
ra được sự thông cảm, bao dung và tương kính lẫn nhau giữa các khối
đông đảo quần chúng tín đồ của mỗi tôn giáo, để cùng chung sức góp phần
bảo đảm xây dựng được một cuộc sống an lành, hòa nhã và nhân ái cho mọi
người trong xã hội ngày nay.
Dĩ nhiên
là vẫn còn một số thành phần cực đoan quá khích trong hàng ngũ các tín
đồ, nhưng đó chỉ là một thiểu số rất nhỏ bé mà thôi, ta không nên quá bi
quan với tình trạng tiêu cực nhỏ nhoi này. Đại bộ phận các tín đồ vẫn
còn giữ được truyền thống đạo hạnh, lương hảo và luôn sẵn sàng liên đới
chia sẻ với nỗi bất hạnh khốn khổ của người đồng lọai.
Đó mới đích thực là niềm hy vọng chứa chan cho nhân lọai chúng ta vào đầu thế kỷ XXI ngày nay vậy./
(Trong
các bài kế tiếp, chúng tôi sẽ xin trình bày chi tiết cụ thể hơn về tình
hình sinh họat xã hội của các tôn giáo ở các địa phương, đặc biệt là ở
Phi châu, Á châu và châu Mỹ Latinh, cũng như tại các quốc gia cựu-công
sản ở Đông Âu nữa. Xin mời quý bạn đọc nhớ đón xem.)
California, Tiết Vu Lan năm Tân Mão 2011
© Đòan Thanh Liêm
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment