Ông Nguyễn Quí Đức cho rằng muốn hòa giải với người thì trước hết phải hòa giải với chính mình.
Tóm lược
- Nguyễn Quí Đức sinh tại Đà Lạt, tốt nghiệp đại học ngành truyền thông tại San Francisco.
Tóm lược
- Nguyễn Quí Đức sinh tại Đà Lạt, tốt nghiệp đại học ngành truyền thông tại San Francisco.
-
Ông là tác giả cuốn hồi ký Where the Ashes Are (Addison-Wesley, 1994),
đồng chủ biên hai tuyển tập Vietnam: A Travelers’ Literary Companion
(Whereabouts Press) và Once Upon A Dream (Andrew & McMeel).
-
Ông là dịch giả cuốn Behind the Red Mist (Hồ Anh Thái) và The Time Tree
(Hữu Thỉnh), giải chung kết Dịch thuật năm 2003 của Hiệp hội Phê bình
Văn học tiểu bang California.
-
Các truyện và thơ ông dịch của nhiều nhà văn, thơ trong và ngoài nước
như Phùng Nguyễn, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Nguyễn Bá Trạc, Mai
Kim Ngọc, Trịnh Công Sơn… được đăng tải trên nhiều tạp chí và tuyển tập
văn nghệ như Zyzzyva, Manoa Journal, Watermark…
-
Các sáng tác của ông đã được đăng tải trên Hợp Lưu, Văn, Văn Học, Under
Western Eyes, Vestiges of War, Manoa Journal, Salamander…
(Theo: Talawas)
Nhà
văn Nguyễn Quí Đức là người đã giúp rất nhiều nhà văn Việt Nam chuyển
ngữ và giới thiệu các tác phẩm của mình ra thế giới bên ngoài. Mặc dù đi
nhiều, viết nhiều nhưng ông xuất bản rất ít. Ông đã sang Mỹ sinh sống
từ sau năm 1975. Trước đó, cha ông, một công chức miền Nam, đã bị bắt
trong cuộc tấn công tết Mậu Thân 1968 và bị giam tù 12 năm. Năm 1989,
ông trở về Việt Nam lần đầu tiên và tới năm 2006 thì về ở hẳn để mở quán
cà phê Tadioto trên phố Triệu Việt Vương, Hà Nội.
Bay
Vút: Thưa ông, dưới góc nhìn của một người lưu vong sau khi trở về Việt
Nam, ông nhìn vấn đề ‘mâu thuẫn dân tộc’ như thế nào?
Nguyễn
Quí Đức: “Còn tùy là nói chuyện với ai và ở thế hệ nào. Mỗi thế hệ có
sự khác nhau về tầm nhìn, sự hiểu biết về câu chuyện. Có thế hệ bị ảnh
hưởng bởi cuộc sống thời chiến, bị va chạm với những hình ảnh và âm
thanh họ nghe và thấy được nên họ có suy nghĩ khác. Nếu như đang sống
trong thời chiến, một người thấy phi cơ ném bom xuống làng mình thì chắc
chắn tư duy người này sẽ bị ảnh hưởng”.
“Thế
hệ lớn lên sau này không phải sống trong hoàn cảnh chiến tranh nên họ
có cái nhìn bình tĩnh và mềm mỏng hơn. Bây giờ, rất ít người tò mò về
quá khứ, về chiến tranh vì người ta cũng mệt khi nghe chuyện này. Hậu
chiến, đời sống cơm áo, gạo tiền, là đủ mệt rồi. Thế nhưng những người
lưu vong sau 30/4 vẫn cảm thấy vương vấn về chuyện ấy, bởi vì nó vẫn
chưa được nói ra một cách thỏa đáng”.
“Thoạt
đầu những người sang Úc, Pháp, hay Mỹ cách đây mấy chục năm chưa có một
chỗ đứng vững vàng nên họ cần một cái định nghĩa: ‘Tôi là ai’. Lúc đó,
để trả lời câu hỏi này thì đấy chính là cái quá khứ của chiến tranh,
những mất mát, những tranh đấu mà họ đã từng trải qua. Và họ cho rằng
đấy là điều quan trọng nhất trong con người của họ. Vì ra nước ngoài họ
là một con người khác, phải sống cuộc sống và tiếp thu một nền văn hóa
khác. Họ mất hẳn quá khứ đồng thời họ cũng bị bứng khỏi cái gốc rễ cội
nguồn”.
“Sau
này, khi họ tạo dựng được cuộc sống, tiếp nhận được nhiều thông tin thì
câu chuyện nó cũng có khác đi. Khi những người trực tiếp tham chiến già
đi, đến gần cái tuổi gần đất xa trời thì họ suy nghĩ khác. Cái quan
trọng đối với họ bây giờ là về lại nơi họ đã sinh ra, lớn lên. Một số
muốn trở về để chết trên mảnh đất quê hương”.
“Mâu
thuẫn khó khăn nhất của Việt kiều là ở trong nước vẫn không công nhận
cái thể chế miền Nam là một chính phủ. Chính quyền hiện nay có thể không
còn gọi họ là “ngụy” nữa nhưng đồng thời cũng không gọi là ‘chính phủ
miền Nam’. Thật ra, những người này vẫn có những thể chế, những niềm tin
và lý tưởng, chứ họ không phải là những người chạy theo Mỹ, để bị gọi
là ‘phản quốc’”.
“Có
nhiều người miền Bắc nói với tôi rằng người lính Việt Nam Cộng hòa
(VNCH) là những người phản bội tổ quốc. Khi nghe như vậy tôi cũng không
biết giải thích gì với họ. Do đó, cũng khó mà nói chuyện. Những người
trẻ tuổi hơn thì nói họ mệt chiến tranh lắm rồi, họ muốn ô tô, vật chất
và của cải, họ muốn tương lai. Đấy là sự khác biệt rất lớn: những người
nước ngoài về thì muốn tìm quá khứ, nguồn gốc, còn người ở trong nước
thì muốn hướng tới tương lai giàu có, vinh quang”.
Bay
Vút: Hòa bình lập lại, có thể thấy số phận những người lính VNCH rất cơ
cực và phải nói là bi đát. Nhưng cho tới tận thời điểm này, tình hình
cũng vẫn vậy, nhất là về mặt tinh thần. Mỗi năm vào các dịp kỷ niệm
chiến thắng này kia, có lẽ họ sẽ rất buồn khi xem tivi hay đọc những bài
báo viết về dịp 30/4?
Nguyễn
Quí Đức: “Tôi nhìn nhận chuyện này ở một phạm vi rộng hơn và ở dưới góc
độ văn hóa. Nếu tôi là người chiến thắng và nếu tôi là người tự trọng,
tôi tự biết tôi là ai thì tôi chẳng cần phải chê bai người khác, hạ bệ
người khác để tôi được hay ho hơn. Cái tâm lý miệt thị một người khác
chính là cái tâm lý muốn tự đề cao mình lên, trong khi bản chất của sự
việc thì chẳng cần phải thế”.
Bay
Vút: Có cảm giác phía bên này vẫn coi phía bên kia là những đứa con
“hư” của dân tộc nhưng các cụ ta có câu “con hư thì vẫn là con của mẹ”.
Có lẽ chúng ta cần có cái nhìn nhân ái và bao dung hơn nữa, ông có thấy
vậy không?
Nguyễn
Quí Đức: “Tất nhiên là có. Chúng ta cần có thời gian để sự việc tự nó
lắng xuống và qua đi, để có sự độ lượng. Bất cứ chính quyền nào cũng
vậy, để bảo vệ chỗ đứng của mình, thì phải tự đề cao mình lên và đặt ra
cái chỗ đứng thấp kém cho một người khác. Nhưng nếu họ vững tâm hơn, và
nếu họ có cái lý chính đáng thì họ sẽ không cần cái đấy nữa”.
“Còn
với người dân hằng ngày thì cái nỗi đau của ông bộ đội miền Bắc cũng
giống nỗi đau của người mẹ miền Nam mất con. Chúng ta đã quên rằng đấy
là nỗi đau chung. Về vấn đề này nói theo tinh thần nhà Phật hay Thiên
Chúa Giáo thì bao giờ cũng cần cái sự độ lượng, mà độ lượng thì bây giờ
đúng là cái xa xỉ. Tôi nghĩ phải mất thêm một thời gian nữa thì chuyện
này mới có thể êm xuôi”.
Bay
Vút: Bài học từ Đông Đức và Tây Đức năm 1989 khi bức tường Berlin sụp
đổ, người dân hai miền đã ôm chầm lấy nhau và họ coi nhau là người Đức
chứ không còn Đông hay Tây. Tuy nhiên, một số chính trị gia Tây Đức lại
không coi như vậy mà vẫn có những quan ngại và định kiến về phía bên
kia. Do vậy, tiến trình hòa giải dân tộc đã bị chậm mất một, hai thế hệ.
Việt Nam dường như cũng đã mắc phải sai lầm đó, và chúng ta đã chậm mấy
thế hệ và liệu còn phải chậm mấy thế hệ nữa thưa ông?
Nguyễn
Quí Đức: “Đấy là điều đáng tiếc. Theo tôi thấy thì Việt Nam đã chậm mất
hai thế hệ và có lẽ tình trạng này sẽ còn kéo dài thêm. Có một số dấu
hiệu đang thay đổi, và tôi nghĩ đến một lúc nào đó vấn đề hòa giải sẽ tự
mất đi. Bây giờ thế hệ trẻ trong nước ít người quan tâm đến chiến tranh
hay mâu thuẫn, còn thế hệ người Việt trẻ ở nước ngoài thì vì được sống
trong một môi trường giáo dục, văn hóa khác nên họ cũng không quan tâm
đến nó. Những người lính già rồi cũng sẽ chết đi. Khi già thì họ sẽ có
cái nhìn trầm tĩnh hơn. Những bức xúc đau khổ về những người cần hòa
giải sẽ được nhìn nhận bình tĩnh hơn”.
“Tôi
chỉ mong nhà nước tự tin hơn, can đảm hơn để chấp nhận mọi thứ. Bây giờ
Việt kiều về đây giúp tài chính, kỹ thuật. Nhưng cùng lúc đó ông ấy lại
mang về những niềm tin, ý tưởng về dân chủ của cái xã hội khác. Đất
nước có đủ niềm tin cho người ta có tiếng nói hay không? Do đó rất dễ
hiểu là những người Việt kiều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa là những
người không được nhà nước tin tưởng nhiều lắm”.
“Như
tôi đây, khi trở về nước tôi đâu có xin visa làm báo chí được. Do đó
vấn đề ở đây là mình yêu đất nước nhưng đất nước có yêu mình không. Thế
nhưng tôi không vì thế mà chống đối. Tôi về tạo dựng công ăn việc làm
với quán café này, mang một cái thái độ ứng xử với mọi người khác nhau.
Nhưng sau một thời gian sống ở đây thì tôi cảm thấy con người không còn
cái tinh thần cộng đồng như trước nữa. Mọi người mệt nhọc quá. Họ chỉ
muốn vật chất, giành giật nhau, chạy xe lỡ va quệt là đánh nhau”.
“Tuy
nhiên, tôi lại thấy có những mâu thuẫn khác phát sinh. Ví dụ những
người trẻ bây giờ được đi ra ngoài du học, tiếp nhận những ý tưởng mới
và khi trở lại họ có được áp dụng và chấp nhận hay không? Đó lại là một
chuyện khác. Đấy không còn là khác biệt vì chiến tranh, mà đấy là vấn đề
liên quan tới tư tưởng của thể chế”.
“Lấy
bài học từ chiến tranh, tôi cho rằng với những người như thế thì khi họ
về nước họ có làm được gì hay không, có áp dụng được gì hay không. Hay
là vì sống trong một môi trường đầy cạm bẫy như ở Việt Nam thì họ có trở
nên ‘hư hỏng’ hay không. Tôi gặp những người ở độ tuổi 30 sau khi đi
học ở nước ngoài về bị bất đắc chí, họ chán nản. Ở tuổi 30 họ chẳng còn
cái lý tưởng nào để sống và làm việc. Một số ít thì lập nghiệp chính
bằng sự quen biết, tiền bạc”.
Bay
Vút: Quá khứ là một điều không dễ gì quên, đặc biệt với bối cảnh chiến
tranh ở Việt Nam giữa hai miền Nam-Bắc. Nhưng khi hòa bình lập lại, điều
quan trọng là cách những người còn sống hành xử với nhau thế nào với
nhau, đối xử ra sao với những người đã khuất. Theo ông, thế nào là cách
hành xử có văn minh và hòa hợp với nhau nhất?
Nguyễn
Quí Đức: “Tôi nghĩ cách hành xử văn minh nhất chính là im lặng. Tôi đặt
ngược câu hỏi lại là nếu người miền Nam thắng cuộc thì người miền Nam
viết sử như thế nào về người miền Bắc? Có tắm máu, có độ lượng, có thù
hằn ai không? Tôi nghĩ là sẽ có, tệ hại hơn hay không thì chưa biết”.
“Ngày
trước tôi đi làm phóng sự về một lính Mỹ giết một người lính Việt cộng ở
Thái Bình. Về sau người này tìm lại được hài cốt và mang trả lại cho
gia đình người đã khuất. Trên đường đi làm phóng sự, khi tôi ngồi trên
xe thì có ông lính người Bắc nói thao thao bất tuyệt về người lính miền
Nam và cho rằng lính miền Nam rất man rợ, độc ác. Tôi ngồi nghe và lặng
im chẳng nói gì vì chẳng biết nói gì lúc này cả. Về sau có người về kể
lại với cái ông lính người Bắc ấy câu chuyện về gia đình tôi. Sau khi
nghe ra, ông ấy gửi lời nhắn mời tôi về nói chuyện với thái độ rất nhã
nhặn và hài hòa”.
“Mỗi
năm không biết bao nhiêu chương trình trên các đài truyền hình nói về
các trận chiến này, trận chiến kia. Các chương trình vẫn đều nói cùng
một giọng điệu, vẫn một kiểu nói rằng con người miền Nam là con người
xấu xa, tàn ác… Tại sao người trong nước là người thắng cuộc, thường dễ
tha thứ cho người ta hơn, tại sao không làm được điều ấy?”.
“Như
bố tôi đi tù 12 năm, giờ tôi hận thù thì cũng chẳng đòi được 12 năm ấy.
Cái gì qua rồi thì đã qua rồi. Đòi hỏi hòa giải nằm ở chính mình trước,
đường hai chiều bắt đầu từ một chiều”.
Nguồn: bayvut
No comments:
Post a Comment