Thái
độ dửng dưng là thái độ khá thông thường của những người cho rằng chính
trị dành cho những kẻ có ”tham vọng” thì lăng xã vào, còn đối với tôi ,
nó xa vời, ” không ăn nhậu” gì.
Đó là thái độ thông thường, được anh Michael viết thư cho chúng tôi cách đây không lâu để nói lên tâm thức của đồng bào bên nhà:
“Giới trẻ (từ 25 tuổi trở xuống) không biết gì về quốc gia và cộng sản, mà họ chỉ đi học hay thụ hưởng.
Từ 40 tuổi trở xuống chỉ lo kiếm sống nuôi gia đình, ít màng đến chuyện chính trị chính em”
Thật
ra những vấn đề chính trị, nhứt là những đường hướng và quyết định
chính trị, nhiều khi “ăn nhậu” khá sát với đời sống thường nhật và cả
tương lai của chúng ta và con cháu chúng ta.
Quyết
định tăng giá xăng dầu, cắt giảm phụ cấp gia đình, tăng lãi xuất ngân
hàng, đánh thuế nặng vào hàng nhập cảng để bảo vệ sản phẩm nội điạ, hối
xuất của đồng bạc VN đối với việc cung cấp ngoại tệ cho việc nhập cảng
dụng cụ và nguyên liệu khác với hối xuất để nhập cảng sản phẩm tiêu
thụ…là những quyết định chính trị đụng chạm khá trực tiếp đến túi tiền
của chúng ta.
Đó
là chưa kể đến những quyết định quan trọng liên quan đến mạng sống hàng
triệu người: nên đặt ưu tiên giao thương với Hoa Kỳ hay Trung Cộng, nên
thương thuyết hay tuyên chiến với Cam bốt, nên khai thác nguyên tữ năng
hay đấp đập thủy điện lực?
Còn nữa:
“Tất
cả mọi người đều được dựng nên bình đẳng như nhau.Tất cả đều được
ĐấngTạo Hoá ban cho một số quyền bất khả nhượng. Trong các quyền nầy,
quyền được bảo toàn mạng sống, quyền tự do tìm kiếm hạnh phúc là những
quyền thượng đẳng” ( Tiền Đề Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776).
“Các
Đại Diện đồng thanh tuyên bố rằng các quyền con người do Thiên phú, bất
khả nhượng và cao quý” ( Tiền Đề Tuyên Ngôn Nhân quyền và Quyền Công
Dân Cách Mạng Pháp quốc 1789) .
hay
” Đảng CS Sô Viết…xác định nền tảng cho thể chế xã hội và chính trị
Công Hoà Liên Bang Sô Viết, thiết định các quyền, tự do và bổn phận của
người dân…” ( Tiền Đề Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết).
Đó là những đường hướng chính trị.
Cũng vậy:
“Nhân
phẩm con người bất khả xâm phạm.Bổn phận của mọi quyền lực Quốc Gia là
kính trọng và bảo vệ nhân phẩm đó” ( Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 Cộng
Hoà Liên Bang Đức)
”
Bổn phận của Quốc Gia là xóa bỏ di những chướng ngại vật về phương
diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại vật vì giới hạn thực sự tự
do và bình đẳng của người dân, ngăn cản không cho phép họ phát triển
toàn vẹn con nguời của mình và tham gia thiết thực vào tổ chức chính trị
, kinh tế, xã hội của xứ sở ” ( Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Đó
là những lời tuyên bố chính trị khác có liên quan dến việc con người
được tôn trọng và được Quốc Gia cung cấp cho các đìều kiện thích ứng để
cho mình có được một cuộc sống xứng đáng “người cho ra người”.
Còn nữa:
”
Người công nhân được quyền thù lao xứng đáng , tương xứng với số lượng
và phẩm chất công việc mình làm. Dù sao đi nữa, lương bổng cũng đủ để
bảo đảm cho mình và gia đình mình một cuộc sống tự do và khan trang” (
Điều 36, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
“Người
làm việc có quyền được tiên liệu và bảo đảm để có đủ phương tiện thích
hợp, đáp ứng lại các nhu cầu đời sống trong trường hợp bị tai nạn, bệnh
tật, tàn phe, già nua, thất nghiệp ngoài ý muốn” ( Điều 38, đoạn 2,
id.) .
“Người
phụ nữ công nhân cũng có đủ mọi quyền và việc làm như nam công nhân,
cũng được thù lao như nam công nhân. Các điều kiện làm việc phải được
thiết định thế nào để người phụ nữ công nhân có thể chu toàn bổn phận
thiết yếu của mình trong gia đình,phải bảo đảm cho người mẹ và trẻ thơ
bằng một sự bảo trợ đặc biệt và thích hợp…” ( Điều 37, đoạn 1, id.).
Đó
là những lời tuyên bố chính trị khác, không xa lạ gì với những nhu cầu
cuộc sống thường nhật của chúng ta, nếu chúng ta muốn có một cuộc sống
“khan trang” , văn minh, xứng đáng với nhân phẩm con người , “người cho
ra người”.
Chúng
tôi còn có thể liệt kê thêm hàng trăm câu tuyên bố ” chính trị ” tương
tợ, liên quan thiết thực với đời sống chúng ta không khó khăn gì. Chỉ
cần trích ra từ các văn bản Hiến Pháp, nhứt là các Hiến Pháp của các
Quốc Gia dân chủ và nhân bản Tây Âu. Bởi vì Hiến Pháp là văn bản ” Mẹ
Đẻ” của đường lối chính trị Quốc Gia.
Thái
độ tiêu cực kế đến là coi chính trị như một cái gì dơ bẩn, xấu xa, bởi
lẽ những người làm chính trị hay đảng phái chính trị thường dùng thủ
đoạn bất chính,”mục đích biện chứng cho phương tiện”( Macchiavelli), để
đạt cho bằng được mục tiêu và cố nắm giữ quyền bính bằng mọi giá, dù có
phải thủ tiêu bao nhiêu người và hành xử lợi ích cho bè đảng, không đếm
xỉa gì đến công ích, loại trừ đối phương bằng thủ đoạn và nếu cần cả
bằng vũ lực, tội tù, tra tấn, thủ tiêu, không đếm xỉa gì đến luật pháp
luân lý.
Qua những suy tư và trích dẩn trên, chúng ta đã có ít nhiều khái niệm về chính trị.
I – Chính trị là gì?
Để có một cái nhìn đúng đắn hơn với chính trị, thiết nghĩ chúng ta nên tìm hiểu chính trị qua những tư tưởng nguyên thủy của nó.
Từ ngữ Chính trị mà chúng ta có cùng ý nghĩa với danh từ Politique( Pháp ngữ), Politica(La ngữ và Ý ngữ), Policy(Anh ngữ).
Tất
cả những danh từ Chính trị trong các ngôn ngữ vừa kể đều phát xuất từ
danh từ Polis của Hy lạp, có ý nghĩa là Thành phố hay Thị xã.
Thị
xã Hy Lạp trong thời thượng cổ, nhứt là thời Cộng Hoà Athène được tổ
chức như những tiểu quốc gia tự lập, trong đó mọi người được phân chia
công tác tùy khả năng, từ gát cổng, quét đường đến tổ chức phòng vệ, sản
xuất thủ công nghệ, tổ chức văn hoá nghệ thuật.
Từ
ý nghĩa tổ chức phân chia công việc mà mọi người đều tham gia góp phần
sao cho đời sống chung của Thị xã được ăn khớp nhịp nhàng đó, nảy ra
những phương thức áp dụng vào Quốc Gia, làm sao tổ chức hữu hiệu hơn,
hoạt động hoàn hảo hơn, để mưu ích cho đời sống của từng cá nhân và lợi
ích chung cho đời sống trong cộng đồng, đó là những tư tưởng khởi thủy
của chính trị.
Do
đó, Chính trị (politique,politica policy) không có gí khác hơn là
những phương thức tổ chức Thị xã ( Polis) sao cho đời sống cộng đồng
được trôi chảy, nhằm mưu ích cho mổi cá nhân cũng như cho cuộc sống
chung của cộng đồng.
Đến thời Đế Quốc Roma bành trướng qua Hy Lạp, người La-tinh thu nhập cách tổ chức trên của Hy Lạp cho cuộc sống Thị Xã của họ.
Thị xã, trong ngôn ngữ La tinh là Civis. Người sống trong thị xã được gọi là Civilis, là người có cuộc sông văn minh.
Bởi
vì trong tâm thức người La Tinh chỉ có những người sống trong Thị xã
(Civis), mới là người có cuộc sống tổ chức Văn minh (Civilis), còn ai
không sống trong cuộc sống hội nhập có tổ chức, không thể nào có đòi
sống tiến bộ cho ra hồn, là người có cuộc sống Bán Khai Mọi Rợ
(Barbarus):người có râu ria xồm xàm như quân Hung Nô, sống trong các
Làng Mạc Hẻo Lánh(Pagus).
Qua những tư tưởng Polis, Civis, Civilis, Barbarus, Pagus trên, chúng ta có thể rút ra một vài tư tưởng sau đây:
Chính
trị hiểu theo nghĩa Polis là những phương thức tổ chức Quốc Gia, nhằm
đem lại lợi ích cho cuộc sống chung cộng đồng, mà cũng nhằm phục vụ cho
từng người dân sống trong Quốc Gia, bởi lẽ, Quốc Gia hay dân tộc là
những danh từ trừu tượng, được thể hiện trên thực tế bằng đời sống của
từng người công dân một.
Dĩ
nhiên, trong một tập thể chính trị có tổ chức như Quốc Gia, nơi quy tựu
chung sống của hàng triệu người, sẽ có nhiều phương thức tổ chức thích
ứng cho cuộc sống chung và cũng liên quan đến cuộc sống riêng rẻ của
từng người, nên công việc chọn lựa thể thức nào thích hợp nhứt sẽ hàm
chứa việc người dân có quyền đứng ra quyết định để lựa chọn, người dân
có chủ quyền lựa chọn để quyết định phương thức tốt đẹp nhứt để tổ chức
Quốc Gia hay Dân chủ ( Demokratía).
Dân
Chủ theo nguyên ngữ Hy Lạp là Demokratía ( Demos, dân chúng; Krátos,
quyền hành: quyền hành là của dân chúng hay dân chúng là chủ nhân của
quyền hành, có quyền định đoạt đường lối để tổ chức Quốc Gia hay Chính
Hướng, đường lối Chính Trị).
Những
ai muốn đứng ra lãnh đạo Quốc Gia có nhiệm vụ đề ra những phương thức
tổ chức ( hay ” Đường lối lãnh đạo Quốc Gia” hoặc ” Chương trình chính
trị”, nói theo ngôn từ của chúng ta), để người dân phán đoán và lựa
chọn.
Những
thủ đoạn, lường lọc, mỵ dân, khủng bố, cấu kết , bè phái để đoạt lấy và
khăng khăng giữ lấy quyền bính tiêu diệt đối phương là những hành vi
băng hoại chính trị (dégénération) , chớ không phải chính trị hiểu theo
nguyên ngữ và tư tưởng cao đẹp khởi thủy của nó.
2)
Ngưới Hy lạp, nhứt là người La tinh, cho rằng, người sống ngoài Thị xã (
Polis hay Civis) là những người man rợ, bán khai, bởi lẽ đời sống không
có tổ chức để người nầy hổ trợ người khác, sáng kiến của người nầy bổ
túc làm lợi ích cho ngươi khác, đời sống không thể nào có tiến bộ:”nhân
vô thập toàn ” là vậy.
Tư
tưởng đó vẫn còn có giá trị hiện đại đối với chúng ta. Chúng ta muốn
trở thành văn minh, chúng ta muốn đất nước chúng ta tiến bộ, chúng ta
phải ở trong Thị xã ( Polis hay Civis): chúng ta phải tham dự chính trị.
Trong một Quốc Gia, tham gia chính trị có nghĩa là
- bầu cử,
- ứng cử để chuyển đạt ý kiến của người dân trong Quốc Hội,
- để hành xử quyền của người dân giao phó cho trong Chính Phủ,
-
mà cũng có nghĩa là tham gia vào các tổ chức, đảng phái để nói lên
tiếng nói, ảnh hưởng , đặt điều kiện với các tổ chức quyền lực Quốc Gia
trong các quyết định chính trị, nếu chúng ta không muốn những ai cầm
quyền đưa ra các quyết định áp đặt lên đầu lên cổ chúng ta và người đồng
hương chúng ta.
-
Và sau cùng là cũng có thể đứng ra đảm nhiệm hành xử quyền lực Quốc
Gia, đem tài năng hiểu biết của mình để làm lợi ích cho chính mình và
cho đồng bào mình.
Như
vậy ý nghĩa của việc tổ chức Thị xã( Polis) là những phương thức điều
hành để phân công, mỗi người một việc, tùy khả năng và tuỳ nhu cầu của
Thị xã, nhằm sao cho công việc của Thị xã được ăn khớp, nhịp nhàng, hữu
hiệu.
Nói cách khác, những phương thức đó hay “đường lối chính trị” phải nhằm phục vụ công ích.
Bởi
đó, dùng chính trị để trục lợi cho cá nhân, phe nhóm, để ” phục vụ
Đảng” là đi ra ngoài tư tưởng nguyên thủy cao cả của việc tổ chức chính
trị.
II – Tham vọng chính trị
Một
số khá lớn dư luận quần chúng, mỗi khi thấy ai đứng ra tổ chức hội
đoàn, sinh hoạt họp hàng với người khác, cho rằng ” thằng cha đó có tham
vọng chính trị”.
Dưới đây chúng ta thử xét ý nghĩa đứng đắn của câu nói trên.
Cái
lạ của thái độ phần đông chúng ta là gán ” thằng cha đó tham vọng chính
trị ” cho những ai có khuynh hướng hoạt động chính trị, còn ” tham
vọng” ở những lãnh vực khác thì không thấy mấy ai chửi bới.Ví dụ không
ai chửi bới một sinh viên cắp sách vào đại học :”thằng cha đó có tham
vọng kỹ sư, con mẹ đó có tham vọng bác sĩ, bọn đó có tham vọng làm thú
y, luật sư, giáo chức…”.
Thái
độ trên của chúng ta có lẽ thoát thai từ quan niệm sai lầm về chính trị
như là một môi trường bẩn thỉu , thủ đoạn, bất chính chớ không phải từ
quan niệm Polis, Civis: phương thức tổ chức để điều hành hoạt động quốc
gia, mưu ích cho cuộc sống cộng đồng quốc gia và cho từng cá nhân mổi
công dân trong cộng đồng.
Nếu
chúng ta có cái nhìn đứng đắn về chính trị theo tư tưởng Polis, Civis,
tổ chức chính trị để phục vụ công ích, thì câu nói “thằng cha đó có tham
vọng chính trị” sẽ không có ý nghĩa chê trách gì , ngoài ra hơn là
“dốt, bất tài, vậy mà cũng tham vọng chính trị”.
Trong
chiều hướng đó, câu phê phán của chúng ta nhằm đòi hỏi cũng như khuyến
khích những ai muốn lãnh lấy trách nhiệm đối với đời sống hàng bao nhiêu
triệu đồng bào phải là những người có đức độ và kiến thức.
Người
tay ngang không thể bốc đồng làm bác sĩ chữa bệnh, làm kỹ sư , kiến
trúc sư thiết kế đồ án xây cất. Vậy thì tại sao người làm chính trị,
cầm trong tay vận mệnh của bao nhiêu triệu đồng bào trong tay lại có
thể là tên ” tay ngang nhào vào chính trị”:
“Người làm thầy thuốc mà sai lầm, là giết hại mạng người,
Người làm tướng mà sai lầm, tiêu diệt cả đoàn quân,
Người làm chính trị mà sai lầm, đại hoại cả đất nước,
Người làm tư tưởng mà sai lầm, tiêu diệt không biết bao nhiêu thế hệ”
(Khổng Tử ?)
Một
trích dẩn khác: “Nhiều học thuyết chính trị cảnh cáo chúng ta đừng lầm
tưởng giữa những mơ ước đối với chính trị và những gì chính trị thể
hiện trong thực tại…Những kết quả của chính trị và kinh tế không phải là
những gì chúng ta mơ tưởng phải có, mà là những gì chúng ta đã đặt nền
tảng thực hiện trước để có kết quả…” ( G. Sartori, Elementi di teoria
politica, Il Mulino, Bologna 1975, 179).
Viết tới những dòng nầy, người viết hồi tưởng lại miền Nam trước 1975.
Chúng
ta không nghi ngờ gì đến tài thao lược binh bị của những người lãnh đạo
Quốc Gia lúc đó. Nhưng liệu những tướng tá cầm quyền thời đó có kiến
thức chính trị tương xứng để lãnh đạo quốc gia trước cơn sóng gió của
thời cuộc không? Biết đâu vận mệnh đất nước đã không ở trong một hoàn
cảnh khác, nếu những vị lãnh đạo lúc đó có khả năng thực sự cho trách
nhiệm.
Đặt câu hỏi để chúng ta cùng suy nghĩ.
Qua
những gì vừa trình bày, nếu người làm chính trị có kiến thức, đạo đức
và mục đích đem chương trình chính trị để phục vụ công ích bằng những
phương tiện hợp pháp và chính đáng, thì câu nói “thằng cha đó có tham
vọng chính trị “sẽ trở thành vô nghĩa, nếu không phải phát sinh từ những
hậu ý bất chính nào đó.
III – Chính trị và lương tâm Ki Tô hữu.
”Người
công giáo có khả năng về chính trị không nên thối thoát trong việc đảm
nhận những chức vụ công cộng, bởi vì họ có thể góp phần một cách hữu
hiệu vào việc quản trị công ích…” (Apostolicam Actuositatem, 14)
Hoặc:
” Người Kitô hữu phải hợp tác với tất cả những người khác trong việc tổ
chức đúng đắn những lãnh vực kinh tế, xã hội…” ( Ad Gentes Divinitus,
12).
Còn
nữa:” Người Kitô hữu có bổn phận nặng nề, phải hợp tác với tất cả những
nười khác trong việc xây dựng một thế giới xứng đáng với địa vị con
người hơn” ( Gaudium et Spes, 35)
Ba
văn kiện mà chúng tôi vừa trích dẩn ( và còn nhiều văn kiện khác của
Công Đồng Vatican II, cũng như những Thông Điệp mới đây của Đức đương
kim Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II: Sollecitudo Rei Socialis, Christi
Fideles Laici, Centesimus Annus), qua những từ ngữ
”
không nên thối thoát”,” phải hợp tác”,” có bổn phận nặng nề” đặt người
tín hữu Chúa Kitô trước chính trị, không như trước một trò chơi giải
trí, một hobby, mà là trước lương tâm trách nhiệm.
Từ
ngữ “Tham vọng chính trị ” đối với người tín hữu Chúa Kitô không những
phát biểu một tư tưởng lổi thời, không cần phải đặt ra theo ý nghĩa
nguyên thủy cao cả của tư tưởng Polis,Civis chúng ta đã thấy ở trên cũng
như theo ý thức trách nhiệm trong những văn kiện của Giáo Hội vừa đề
cập.
Dĩ
nhiên Giáo Hội không xác định mức độ đến đâu mỗi tín hữu phải tham dự
vào chính trị. Điều đó tùy thuộc khả năng, hoàn cảnh và lương tâm của
từng người.
Câu
hỏi được đặt ra có ý nghĩa hơn , có lẽ là câu phát biểu thái độ ngược
lại với “tham vọng chính trị”. Đó là ” dửng dưng đối với chính trị”,
“đứng ra ngoài chính trị, để ai làm gì mặc ai”.
Để
trả lời cho lương tâm người tín hữu Chúa Kitô trong trường hợp nầy,
Chúa Giêsu kể cho chúng ta dụ ngôn “Người Samaritano”: người Samaritanio
dừng lại băng bó vết thương và cỏng người bị cướp đánh giở sống giở
chết bên vệ đường về quán trọ để chăm sóc, trong khi đó thì vị thông
thái luật cũng như thầy tư tế thấy kẻ xấu số, lách sang rồi bỏ đi luôn .
Nếu
chúng ta quy tóm Mười Giới Răn của giáo lý Thiên Chúa Giáo lại chỉ còn
Hai Giới Răn: kính Chúa và yêu người, chúng ta sẽ thấy được lời tuyên án
nặng nề của Thánh Gioan đối với những ai không có lòng đối với người
anh em đồng loại: “Ai không yêu thương anh em là người mình thấy được,
làm sao có thể kính yêu Thiên Chúa, Đấng mà mình không thấy” ( 1 Jn 4,
20)
Nói
cách khác, ai không thương yêu anh em, thì cũng không thể kính yêu
Thiên Chúa, không còn phải là người tín hữu Chúa Kitô. Người không kính
yêu Thiên Chúa, mà cũng chẳng tha thiết gì đến anh em, là người vừa vô
đạo vừa bất nhân, không có gì tốt đẹp cho cuộc sống đời sau của mình.
Một
trong những điểm nổi bậc của Công Đồng Vatican II là làm cho chúng ta ý
thức đến thái độ thiếu trách nhiệm trong việc “lách sang rồi bỏ đi
luôn” (Lc.10,30-36). Trong kinh Cáo Mình trước Công Đồng Vatican II
chúng ta đọc thấy câu:
“…lòng động, lòng lo, miệng nói, mình làm. Lổi tại tôi, lổi tại tôi, lổi tại tôi mọi đàng…”.
Trong khi đó thì kinh Cáo Mình hiện tại, sau Công Đồng Vatican II cho chúng ta:
”
..tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những
điều thiếu sót ( omissio). Lổi tại tôi, lổi tại tôi, lổi tại tôi mọi
đàng…”
So
sánh hai kinh Cáo Mình, chúng ta thấy Công Đồng Vatican II làm cho
chúng ta ý thức đến điều đáng lý chúng ta phải làm, nhưng chúng ta đã
“tự ý bỏ qua”( omissio, trong La ngữ có nghĩa là tự ý bỏ qua, mặc dầu
mình ý thức đó là bổn phận, chớ không phải chỉ thiếu sót vì thờ ơ, quên
lãng), tạo ra việc chúng ta thiếu trách nhiệm đối với Chúa và đối với
anh em, vì không thương yêu anh em , như lời khiển trách của Thánh Gioan
( 1 Gv. 4,20s).
Điều
” tự ý bỏ qua, không hành động , không can thiệp vào việc mà đáng lý
chúng ta phải làm “( chớ không phải ” thiếu sót “) đó là một hành vi
lỗi phạm một trong hai Giới Răn của Chúa, là tội, chớ không phải là
hobby, muốn làm hay không cũng được.
Ngoài
ra những văn kiện của Giáo Hội thúc đẩy chúng ta ý thức đến việc dấn
thân chính trị, cộng tác với anh em khác, công giáo hay không cũng vậy,
để xây dựng một xã hội tương xứng hơn với địa vị con người, lương tâm Ki
Tô giáo đòi buộc chúng ta “không được tự ý bỏ qua” ( omissio) trách
nhiệm chính trị, khi đức bác ái đối với anh em, đối với Quốc Gia Dân
Tộc, đòi buộc chúng ta phải hiện diện.
Giả
sử chúng ta có khả năng, có chương trình pháùt triển chính trị, xã
hội, kinh tế hữu hiệu, hợp lý và khả thi, làm cho dân tộc chúng ta có
đời sống ” người cho ra người ” hơn, nhưng vì lý do nào đó chúng ta
“không tham vọng chính trị” , trốn tránh trách nhiệm, để mất cơ hội, để
kẻ khác kém tài năng hơn lãnh đạo làm cho đât nước cơ cực, dân chúng ngu
dốt, lầm than.
Thái
độ “vô trách nhiệm, tự ý bỏ qua”( omissio) đó, chúng ta phải trả lời
trước mặt Chúa, trong lời khiển trách của Thánh Gioan ( 1Gv.4,20s) .
Để
kết thức, chúng tôi xin mượn lời Đức Giáo Hoàng Pio XI nói về chính
trị: “Ngoài đức bác ái tôn giáo ra, không có đức bác ái nào lớn hơn đức
bác ái chính trị, vì chính trị liên quan mật thiết đến đời sống con
người ” ( Pio XI, Discorso FUCI 1927, Osservatore Romano, 3)
Và
Đức Phaolồ VI mời gọi giáo dân: ” …việc dấn thân chính trị là một
phương thức cần thiết…mặc dầu không phải là duy nhất, để người tín hữu
giáo dân thực thi đức bác ái phục vụ người khác…” ( Paolo VI, Octogesima
Adveniens, 46).
GS. Nguyễn Học Tập
http://www.vietthuc.org/2011/04/21/tham-v%E1%BB%8Dng-chinh-tr%E1%BB%8B/
No comments:
Post a Comment