Thùy Linh - Không
phủ nhận nền văn minh Trung hoa cũng là một trong ba nền văn minh sớm
nhất của nhân loại, xuất hiện cách đây chừng 3000 năm. Người Trung hoa
đã sáng chế ra nhiều những phát minh cống hiến cho con người: họ biết
đến hệ số thập phân; phân số, quan hệ của 3 cạnh trong một tam giác
vuông…Họ vẽ được bản đồ của 800 vì sao; làm ra lịch can-chi; sáng tạo ra
súng, la bàn, nghề in…Và tuyệt vời là châm cứu và đông y mà ngày nay
người Việt vẫn rất ưa thích dùng chữa bệnh…Nhân loại chưa bao giờ quên
điều đó.
Nhưng
chưa bao giờ đất nước này tạo cho tôi một cảm hứng, xúc động hay gì gì
đó lay động tâm hồn, tình cảm của tôi? Không phải đến lúc này khi họ giở
trò tiểu nhân trên biển Đông. Tôi cũng đã đến Trung quốc 3 lần trước
đây, nhưng chả lần nào đi về mà thấy lưu luyến, kể cả chuyến hành hương
viếng thăm mấy ngôi chùa cổ? Sao vậy nhỉ? Tất cả những gì tôi sắp liệt
kê dưới đây hoàn toàn cá nhân nên đừng ai cố thuyết phục tôi là đúng hay
sai. Tình cảm, suy nghĩ tự nhiên, không vụ lợi, vậy thôi.
Tôi
không thích và rất ít xem phim lịch sử Trung quốc. Tôi không học lịch
sử bằng cách đó. Vì sao? Cứ xem thì thấy đất nước được TQ được mở rộng
và viết nên trang sử của dân tộc mình từ những cuộc nội chiến tương tàn,
xâm chiếm, tự mãn, tàn ác với kẻ yếu, hèn nhát với kẻ mạnh. Tôi không
muốn chứng kiến cái vẻ tự mãn của các nhân vật lịch sử luôn coi mình là
trung tâm của vũ trụ và được phép tàn sát các dân tộc khác tràn ngập
trên màn ảnh. Người Trung Quốc cổ đại gọi các tộc lạc hậu ở phía nam là
Man, ở phía đông là Di, ở phía tây là Nhung và ở phía bắc là Địch. Còn
họ là quốc gia văn minh ở giữa nên được gọi là Trung Hoa hay Trung Quốc.
Họ tát bôm bốp vào mặt mình để chứng tỏ sự trung thành, nhưng sẵn sàng
trở mặt khi người ta vừa quay lưng. Cái đó đầy trên phim ảnh, tôi chả
nói điêu. Còn nữa, trên phim đầy rẫy những thủ đoạn tàn độc nơi triều
chính, cách con người trả thù nhau mà nhiều người ngộ nhận là những bài
học về cách đối nhân xử thế nơi chính trường hay trong cuộc sống. Những
loại phim đó không bao giờ mang lại mĩ cảm cho khán giả mà chỉ giúp họ
thêm lọc lõi, thủ đoạn đối phó ở ngoài đời.
Những
cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng của TQ thời cổ đại như Tam quốc chí,
Thủy hử đều viết về các cuộc chiến tranh giành quyền lực với vô vàn thủ
đoạn và dậy con người nuôi chí báo thù theo kiểu “oán phải trả” và
“quân tử trả thù mười năm chưa muộn”…Tiếc là lại làm say mê bao người
đọc ở Việt nam. Tính gây hấn và mưu mô nhiều không sao kể xiết ngấm vào
tâm hồn người đọc lúc nào không hay. Tôi không khuyến khích các cháu tôi
đọc những thứ này khi còn bé.
Vào
năm 211 TCN được coi là mốc TQ bắt đầu thống nhất, trở thành một đế chế
rộng lớn do công của Tần Thủy Hoàng. Bắt đầu thời điểm này nền văn minh
TQ được xác lập với ý thức hệ tư tưởng dựa trên Khổng giáo. Nhà Tần tận
dụng học thuyết của Pháp gia (là một nhánh của Nho gia) để đặt trọng
tâm vào sự tôn trọng tuyệt đối hệ thống pháp luật và quyền lực tuyệt đối
của hoàng đế. Nhà Tần dùng những biện pháp tàn bạo để dẹp yên chống
đối, thậm chí gồm cả việc đốt sách, chôn nho. Kết quả thật bạo tàn,
nhưng những sáng tạo của phái Pháp gia nhà Tần đã được các triều đình
Trung Hoa sau đó áp dụng. Cùng thời điểm này ở Ấn độ có vua Ashoka. Sau
thời gian chinh chiến 9 năm, đã nhận ra sự vô nghĩa, tàn ác làm máu đổ
quá nhiều nên quay đầu sám hối, lãnh đạo nước Ma kiệt đà bằng giáo lí từ
bi của Đức Phật. Ông đã làm rạng danh trang sử cổ đại của Ấn độ. Dân
chủ không bao giờ là vấn đề đối với người Trung Quốc như nó đã từng có ở
các nền văn minh khác vào khoảng năm 200 TCN, đến giờ càng không…Đối
với Hán Cao Tổ (Lưu Bang), triều đình tốt là triều đình có thể duy trì
sự phục tùng đầy đủ của quan lại và dân chúng. “Cậy” có nguồn gốc nông
dân, Lưu Bang tỏ thái độ khinh thị trí thức bằng cách đái vào trong mũ
của một trí thức trong triều. Kinh chưa?
Năm
108 TCN vì muốn kiểm soát vùng đông bắc, Hán Vũ Đế chinh phục cả phía
bắc lẫn phía nam. Về phía nam, theo quân đội là những người di cư Trung
Quốc. Sau những trận chiến lớn, đội quân của Vũ Đế chinh phục phía bắc
Việt nam, một vùng mà người Trung Quốc gọi là Annam hay “miền nam yên
ổn”. Dân Trung Quốc kéo đến đây, một số đóng đô ở gần vùng núi miền
trung Việt Nam. Chính người Việt Nam dạy người Trung Quốc dùng trâu,
dùng cày kim loại và các công cụ khác(*), cách trồng lúa nước. Trung
Quốc đã xoá bỏ chữ viết người Việt, mang đến chữ viết của mình(*). Tuy
nhiên về tiếng nói, người Trung Quốc không thể đồng hóa được người Việt
Nam. Và cứ thế rất nhiều thế kỉ sau, giữa VN và TQ đã xảy ra những cuộc
thư hùng và lần nào VN cũng chiến thắng. Nhiều lắm, chả kể hết được
đâu…Đến giờ vẫn chưa thôi tham vọng đó.
Tôi
vẫn không thuyết phục mình được rằng TQ có các nhà triết học và nền
triết học, kể cả Khổng Tử lừng danh mà TQ tự hào. Họ chỉ có các nhà tư
tưởng chính trị, đạo đức. Khó có thể coi thuyết Âm-dương, Ngũ hành, Bát
quái lại là triết học. Chỉ để bói toán là hợp nhất. Còn lấy đó để giải
thích sự biến động của xã hội, lịch sử thì thấy mịt mờ tăng tít, dễ đưa
vào mê trận chẳng biết lối ra, dễ tẩu hỏa, tư biện, giảo ngôn…Vậy mà
trước đó, xa hơn cả nền văn minh Hoàng hà, trước cả thời Đức Phật đến
hàng ngàn năm thì Ấn độ đã có Mamabharata và Ramayana, sau đó là Áo
nghĩa thư, những tác phẩm tuyệt vời không chỉ dành cho người Ấn giáo mà
còn chứa đựng những tư tưởng triết học sâu sa. Tiếp sau đó, những chân
lí Giác ngộ của Đức Phật làm phong phú thêm kho tàng minh triết của đất
nước hiền hòa này…
Một
thứ người TQ cất công xây dựng thành một thành tố của văn hóa mà người
tây chả mấy quan trọng là ẩm thực, để lấy đó làm tự hào. Vua chúa thời
xưa bao giờ cũng có trên bàn ăn mấy chục đến hàng trăm món ăn sơn hào
hải vị. Tôi có xem phim về cuộc chiến tranh nha phiến thì phải…Việc nhà
Thanh đầu hàng năm 1842 đánh dấu một tai họa mang tính quyết định và
nhục nhã của Trung Quốc khi buộc phải chấp nhận thua trận và thừa nhận
các yêu cầu của Anh, chấp nhận buôn bán với họ, đồng ý mức thuế quan
“đúng mức và ổn định”, mở cửa các cảng ở Quảng châu, Hạ môn, Phúc châu,
Ninh ba và Thượng hải cho các thương nhân nước ngoài. Họ trao cho người
Anh bất kỳ sự nhượng bộ nào mà Trung Quốc đã từng trao cho các cường
quốc khác. Trung Quốc chấp nhận trả cho Anh Quốc một khoản bồi thường
20.000.000 đô la bạc và nhượng đảo Hồng Kông cho Anh. Cuộc chiến tranh
nha phiến lần 2 lại là một thất bại nặng nề khác của Trung Quốc. Người
Anh ngỗ ngược yêu cầu tất cả các tài liệu chính thức của Trung Quốc phải
viết bằng tiếng Anh và cho phép các tàu chiến Anh được đi lại không hạn
chế trên các sông ngòi Trung Quốc. Nhưng tôi nhớ nhất một chi tiết
trong phim mà quên tiệt cả phim. Số là trong một bữa tiệc chiêu đãi sứ
giả Anh, nhà vua TQ chê bai miếng bít tết của người Anh sống sít như của
kẻ man di. Hãy nhìn mâm cao cỗ đầy của họ để chớ mà coi thường. Sứ giả
Anh cả cười mà rằng, trong lúc cả TQ tập trung trí tuệ để làm ra các món
ăn thì họ dùng thời gian và trí thông minh chế tạo tàu chiến, súng ống,
những thứ đã giúp người Anh chiến thắng TQ…Nẫu chưa? Còn người Ấn độ
thì chưa bao giờ nặng nhẹ miếng ăn. Ăn chay với những món đơn giản, sống
khổ hạnh, khiêm cung, không chìm đắm trong lạc dục vật chất là lẽ sống
của họ.
Tôi
chưa bao giờ “yêu” và đánh giá cao Khổng Tử cùng thuyết Nho gia do cụ
sáng lập. Dù cụ có sống lại tôi vẫn nói như vậy mà không mong cụ tha
thứ. Nho học chưa bao giờ là tôn giáo, càng chưa bao giờ là triết học.
Đó chỉ là những tư tưởng, học thuyết về đạo đức, chính trị. Ông sinh ra
muộn hơn Đức Phật ít năm, coi như hai người là cùng thời đại. Nhưng Đức
Phật đã chứng ngộ Chân lý mà đến giờ vẫn thích hợp với thời hiện đại,
không cần thay đổi, chỉnh sửa lại. Nho giáo không thể có vị trí đó.
Tôi không thích Nho giáo vì lẽ:
-Khổng Tử chủ trương cai trị quốc gia bằng Đức trị.
Lí lụân về đức của ông nghe rất hay nhưng chả biết là làm cách nào để
con người có đức? Chỉ nói là phải có nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Rồi mỗi
thứ trong “Ngũ thường” đó lại là những luận lí hình thức, sáo rỗng. Ông
kêu gọi làm người phải có đức mà nhân là gốc. Người cầm quyền phải lấy
đức mà trị dân…Nói thế ai cũng nói được. Nhưng nâng lên thành “i-dờ-mờ”
(ism) thì chỉ có Khổng Tử. Không thuyết phục. Còn Đức Phật nói về việc
này giản dị mà nhiều kiếp chắc chưa tu nổi: con người nên dẹp bỏ
tham-sân-si để trước hết sống được an lạc. Muốn dẹp bỏ thì hãy để tâm
lắng xuống. Muốn tâm lắng xuống thì nên thiền định. Thiền định của Đức
Phật là 16 hơi thở. Có cả đích đến lẫn con đường để bạn tự đi…Tâm bình
thì thế giới bình. Giản dị như hơi thở.
-Nho giáo chấp nhận ý tưởng về số phận, hoặc “mệnh”, gọi là Thiên mệnh.
Nhà vua là Thiên tử. Vua nhà Chu là Vũ Vương đã viện dẫn khái niệm
Thiên mệnh để hợp pháp hóa vai trò cai trị của mình, một khái niệm đã
ảnh hưởng đến mọi triều đại kế tiếp. Thảo nào dân đen cứ bị đè đầu cưỡi
cổ cho đến lúc này mà cấm được phản đối? Có ai đi cãi với ông trời bao
giờ…Còn Đức Phật bác bỏ thần thánh, thượng đế, bác bỏ người này cao hơn
người kia. Bác bỏ có một thượng đế nào đó sinh ra và chi phối vạn vật,
nhất là con người. Ngài đặt con người vào trung tâm của mối quan tâm.
-Còn con người nên chấp nhận Định mệnh.
Với Nho giáo, định mệnh đóng vai trò rất quan trọng. Trong khi Phật
giáo xem các biến cố xảy ra trong kiếp người là tạo tác của nghiệp cá
nhân hay cộng nghiệp của tập thể, thì Nho giáo xem các biến cố ấy được
quyết định bởi định mệnh, chứ không là kết quả của tình trạng có hay
không có đạo đức. Đức Phật đề cao sự tự chủ cuộc sống của con người. Hai
chủ thuyết như đêm và ngày, quá dễ thấy cái nào dở, cái nào hay…
-Nhà Nho thì nhất định phải lập danh – Chính danh. Khổng nói: “khi
người quân tử xưng danh, danh ấy phải xứng đáng với phận của mình;
người quân tử rất dè dặt trong lời nói, không tùy tiện nói theo ý thích
của mình”. Có khác gì khuyên chớ nên nói thật? Lại nữa: “Người quân tử sợ ba điều: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân”.
Thế thì với người bình thường, quân tử có thể cư xử sao cũng được ư?
Dường như các chuẩn mực dùng để thẩm định hành động của cá nhân không
dựa vào việc tạo hay không tạo phúc lợi xã hội…Càng tự tôn chính danh,
con người càng chìm sâu vào bản ngã, không bao giờ hồn nhiên, tự tại,
chân thật như khi thực tập Vô ngã mà Đức Phật đã chỉ ra. Theo Khổng Tử,
quân tử “chẳng lo không có địa vị, chỉ lo sao không đủ tài đức để
được địa vị đó. Chẳng lo không ai biết tới, chỉ mong làm thế nào đáng
cho người đời biết tới”. Đến đây thì chán không muốn hầu chuyện cụ nữa…
-Xem cái Lễ (bao
gồm quyền hành của người trị nước và cách tiết chế hành vi của người
dân) của Khổng Tử nhé…Lễ được diễn tả trong năm vòng quan hệ của người
đời, được tượng hình bằng năm vòng tròn vây bọc: quân thần (vua tôi);
phụ tử (cha con); phu phụ (vợ chồng); huynh đệ (anh em); bằng hữu (bầu
bạn). Ngoài Ngũ luân, Khổng Tử còn phân biệt dân chúng bậc trung thành
hai hạng khác nhau: người quân tử và kẻ tiểu nhân. Ðó là sự phân biệt
không chỉ liên quan tới địa vị xã hội mà còn bởi ý tưởng cho rằng có
những người này phải sống theo các định chuẩn đạo đức cao hơn những kẻ
kia. Còn Đức Phật xóa bỏ mọi định kiến giai cấp, coi con người đều bình
đẳng. Ai cũng có Phật tính. Đức Phật là Phật đã thành, còn chúng sinh là
Phật sẽ thành…Khổng nói miên man về Lễ, Phật giáo chỉ đúc kết Từ - Bi –
Hỉ - Xả và lấy đó mà cư xử, đối đãi với bất cứ ai, khỏi cần phân biệt
cao thấp, địa vị.
-Nho
giáo hạ thấp vai trò của đàn bà và coi thường tính dục (ở bề mặt). Với
Nho giáo, tình dục có giá trị ứng dụng duy nhất là sinh con đẻ cái, đặc
biệt con trai để nối dõi tông đường, làm vẻ vang dòng họ và cúng giỗ ông
bà tổ tiên cha mẹ mà Nho giáo đặc biệt đề cao. Đủ thứ qui định cho nam
nữ để tránh “thụ thụ bất thân” với việc hạ thấp người đàn bà. Nhưng ai
cũng biết, vua chúa TQ thì ăn chơi tàn bạo thế nào biết rồi. Đám hoàng
hậu, mỹ nữ, cung phi loạn luân ra sao cũng kể nhiều ở các phim lịch sử
rồi…Có lẽ hiếm có đất nước nào lại nhiều mỹ nữ “quái chiêu” nổi tiếng
trong lịch sử như ở TQ: mối tình hoang dâm giữa Triệu Cơ và Lao Ái. Đát
Kỷ bất hòa với thân thuộc của vua là Tỷ Can, bắt ông này phải moi tim ra
cho bà xem. Bà này bị coi là yêu cơ. Hạ Cơ thì sử sách thuật lại là có
thuật “hoàn tân” sau khi ăn nằm với ai và còn có cả bí quyết “hấp tinh đại pháp”.
Võ Tắc Thiên là hoàng hậu duy nhất của lịch sử TQ thì tàn ác thôi rồi.
Vì ác nên dù Khổng giáo cấm đàn bà làm việc bên ngoài mà bà ta vẫn thu
quyền bính về tay mình. Bao Tự thì chỉ thích nghe xé lụa và đốt lửa để
mua vui khiến tan nhà nát cửa…Sau này thì có Từ Hy Thái Hậu và thời hiện
đại thì có Giang Thanh. Đều kinh khiếp hãi cả. Vậy thì những qui định
Nho giáo kia thực chất là vô giá trị, nó chỉ áp dụng khi người ta cần,
nhất là giới cai trị. Còn thì người ta giả dối và tìm cách che dấu…Thế
mà thời Đức Phật còn tại thế, Ấn độ đã có hàng ngàn nữ tu xuất gia theo
Ngài sống đời phạm hạnh. Bên tăng có 10 vị đại đệ tử của Đức Phật thì
bên ni cũng có như vậy. Có tác phẩm “Trưởng lão tăng kệ” thì bên ni cũng có “Trưởng lão ni kệ” còn đến ngày nay.
-Ai cần Nho giáo? Nho giáo trọng lễ giáo, đề xướng “quân quân thần thần”, tức ai nấy nên tôn ti trật tự, chớ “vượt rào”, nên giới cai trị thích và cần Nho giáo nhất. Khổng Tử nói rằng: “Vua lấy lễ sai khiến bề tôi, bề tôi lấy lòng trung để thờ vua”.
Thế thì ông quan cai trị nào mà chẳng thích? Còn lấy lễ để sai khiến
như thế nào thì chịu?…Có sao cứ đổ là Thiên tử nên phải tuân theo Thiên
mệnh là xong…
…ect (nhiều quá không thể kể hết)
Văn
minh Trung hoa như đứa trẻ vừa mở mắt chào đời thì đã được nuôi nấng
bằng dòng sữa của Nho học nên mọi tính nết sai trái như giả dối, ích kỉ,
độc ác, chuyên quyền, mù quáng, tự phụ, ngụy biện, gây hấn, tranh
đua…từ đó lộ diện và phát triển. Tiếc cho tư tưởng của Mặc Tử (coi như
cùng thời với Khổng Tử) đã không chen chân vào được xã hội này. Biết đâu
nhờ thế TQ phát triển sẽ theo một hướng khác tốt hơn? Vì Mặc Tử tiệm
cận gần hơn với quan điểm Phật giáo hiền hòa. Ðối với người theo Mặc
gia, cái thiện cao nhất là hiến thân cho mọi người. Họ biện hộ lối sống
kham khổ và hoàn toàn chống đối chiến tranh cùng mọi hình thức gây hấn.
Tuy sẵn sàng liều chết bảo vệ thành trì, chống lại kẻ xâm lăng, nhưng
họ kiên quyết không chấp nhận bất cứ hành động xâm lấn nào. May mà Phật
giáo đã du nhập vào TQ (tuy muộn hơn VN) nhưng đã góp phần làm tan loãng
chút ít “dòng sữa” đặc quánh Khổng giáo đã kết thành cặn, bám chắc
trong suy nghĩ và hành xử của người TQ từ bao đời.
Cuối cùng tôi thử điểm lại một số hành động vô cùng “quái dị” và “độc chiêu” của người TQ từ cổ chí kim xem sao:
-Đốt sách, chôn nho của Tần Thủy Hoàng…
-Đái vào mũ của người trí thức trong triều của Lưu Bang…
-Đàn bà có tục bó chân để gợi tình đời Tống…Bàn chân bé đến quái dị.
-Để “show hàng” với Trịêu Cơ, Lã Bất Vi sai Lao Ái sỏ dương vật của lỗ bánh xe để chạy…
…ect…(dài rồi không kể nữa)
-Sau này có cải cách ruộng đất, giết rất nhiều những nông dân làm ăn giỏi mà họ gọi là địa chủ.
-Đại cách mạng văn hóa: tiêu diệt trí thức ; xóa bỏ truyền thống…
-Bắt và dịêt chim sẻ…
-Cả nước làm gang thép…
-Xui Khơ me đỏ diệt chủng trên quê hương họ. Mới đây đám này bị đưa ra xét xử. Chả thấy người khởi xướng là TQ nói gì nhỉ?
-Thích
cao giọng dạy người yếu thế hơn mình “một bài học” khi họ còn chưa
thoát khỏi vô minh và nhiều sự lầm lẫn do ảnh hưởng quá lâu của Nho
giáo.
-Sang
VN làm ăn nhưng lại cư xử như đang ở cánh đồng riêng của mình…Nhậu nhẹt
say sưa rồi đứng trước cửa nhà người ta đái bậy, hò hét chả coi ai ra
gì, dân nói lại thì chửi (ở Ninh Bình vừa qua); đánh nhau với ở dân bản
địa (Thanh hóa); thuê công nhân VN nhưng thích là nện...
-Ý
quên...Dùng cả đội có quân trang bị súng và xe tăng bắn vào đoàn biểu
tình ôn hòa của sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989 khiến
nhiều người thiệt mạng. Không biết những oan hồn ngày ấy nay đã siêu
thoát chưa?
...ect...Còn nhiều lắm, viết mỏi tay cũng chưa hết...Chán rùi...
Haizzz...Thế là thế nào? Tôi không hiểu? Ai hiểu nói giùm…
No comments:
Post a Comment