Nguyễn Hưng Quốc - Rõ ràng là chính quyền Việt Nam không muốn có chiến tranh với Trung
Quốc. Điều đó rất dễ hiểu và cũng rất dễ được đồng tình. Chính quyền
Việt Nam thậm chí cũng không muốn công khai và trực tiếp đương đầu với
Trung Quốc một cách bất bạo động. Điều đó cũng có thể hiểu được dù không
phải ai cũng đồng tình. Nhưng riêng việc Việt Nam vẫn tiếp tục xem
Trung Quốc là một đồng minh và là một đồng chí thì không thể nào giải
thích được.
Không
thể giải thích được vì nó hoàn toàn trái ngược hẳn với thực tế. Trung
Quốc rõ ràng không xem Việt Nam là một người bạn. Họ không tin Việt Nam;
không kính trọng Việt Nam, thậm chí, không hề tôn trọng chủ quyền của
Việt Nam. Bất kể họ nói gì đi nữa thì trên thực tế, bằng những hành động
cụ thể, rất thô bạo và trắng trợn, họ luôn luôn tìm cách uy hiếp và xâm
lấn Việt Nam. Xâm lấn từng chút, từng chút trên các cột mốc biên giới
giữa hai nước. Xâm lấn Hoàng Sa xong lại xâm lấn tiếp Trường Sa. Xâm lấn
vùng biển Việt Nam bằng con đường lưỡi bò đầy ngang ngược. Chưa hết. Họ
còn cấm ngư dân Việt Nam đánh cá ngay trên vùng biển Việt Nam: ai tiếp
tục đánh cá thì họ tịch thu hải sản, bắt bớ rồi đòi tiền chuộc, thậm
chí, đánh đắm cả thuyền để mặc ngư dân chết đuối trên biển. Họ còn ngang
nhiên đi sâu vào hải phận Việt Nam cắt cáp của tàu thăm dò dầu khí của
Việt Nam.
Chắc
chắn những hành vi uy hiếp và xâm phạm của Trung Quốc không hề dừng lại
ở đó. Bất cứ ai theo dõi chính trị một chút cũng đều biết không dễ gì
Trung Quốc từ bỏ tham vọng thôn tính Biển Đông, và nếu cần, thôn tính cả
Việt Nam để mở đường cho các cuộc bành trướng về kinh tế lẫn về chính
trị của họ hầu trở thành cường quốc số một của thế giới, cạnh tranh với
uy thế độc tôn của Mỹ hiện nay.
Không
những trái với thực tế, quyết định tiếp tục xem Trung Quốc là đồng minh
và đồng chí cũng không thể giải thích được vì nó nguy hiểm.
Có mấy nguy hiểm chính:
Thứ
nhất, nó chứng tỏ chính quyền không nhạy bén và cũng không can đảm
trước những thay đổi trong tình hình chính trị thế giới cũng như trong
quan hệ song phương giữa hai nước. Chính quyền có thể lý luận là họ
không muốn trầm trọng hóa mối quan hệ đã có chiều gay cấn giữa Việt Nam
và Trung Quốc. Đồng ý. Nhưng không muốn trầm trọng hóa không có nghĩa là
vẫn tiếp tục lải nhải nói những điều không có thật, hơn nữa, cái điều
không có thật ấy lại xuất phát từ, và chỉ nhắm làm lợi cho, Trung Quốc,
với cái gọi là 16 “chữ vàng” do Giang Trạch Dân đưa ra vào năm 2000: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Việc làm ấy chỉ khiến cho dân chúng nghĩ là chính quyền đã, đang và vẫn tiếp tục bị Trung Quốc lừa gạt. Nhà văn Tạ Duy Anh, trong một cuộc phỏng vấn mới
đây, nhận xét một cách chính xác: "Chúng ta tự dối lòng mình quá lâu
bằng những ảo tưởng về lòng tốt của những người cùng chung một ý thức
hệ! Trung Quốc trước sau là một đế quốc Đại Hán! Chủ nghĩa xã hội chỉ là
phương tiện tạm thời hữu hiệu cho mục tiêu không thay đổi của họ. Chúng
ta phải thấy rõ điều đó. Đáng lẽ chúng ta phải đưa vấn đề Hoàng Sa ra
toà án quốc tế từ lâu. Khi họ ru chúng ta bằng 16 chữ vàng, thì họ lén
lút thực hiện 16 chữ đen: “Kiên trì rình rập, phá hoại mọi mặt, gặm nhấm
từng phần, vừa cướp vừa la”. Đừng lầm lẫn giữa tình hữu nghị và chủ
quyền quốc gia, nhất là khi tình hữu nghị đó chỉ là giả vờ từ phía Trung
Quốc."
Thứ
hai, việc né tránh thực tế và ngủ vùi trong ảo tưởng cũ kỹ về mối quan
hệ đồng minh và đồng chí như thế chỉ làm cho mọi người, từ chính quyền
đến dân chúng, mất cảnh giác trước các tham vọng bành trướng và âm mưu
đen tối của Trung Quốc. Cứ nhìn lại những gì đã xảy ra lâu nay ở Việt
Nam cũng đủ thấy: trong khi mâu thuẫn giữa hai nước càng ngày càng tăng,
chính quyền Việt Nam vẫn an tâm giao hẳn trang web thương mại bằng
tiếng Việt cho Trung Quốc tha hồ tuyên truyền; vẫn gọi việc tuần tiễu
của hải quân Trung Quốc trên Biển Đông là để bảo vệ “tổ quốc” và “lãnh
thổ’ của họ; vẫn đưa các phim lịch sử nhân lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long sang Trung Quốc thực hiện và dù bị phản đối, vẫn có ý định chiếu
trên đài truyền hình Việt Nam; vẫn cho Trung Quốc khai thác bauxite ở
Tây nguyên và thuê dài hạn nhiều khu rừng đầu nguồn và có vị trí chiến
lược quan trọng của Việt Nam; vẫn làm ngơ trước việc Trung Quốc thao
túng nền kinh tế Việt Nam, kể cả việc mang bạc giả tràn vào Việt Nam,
v.v...
Nguyên
nhân của tất cả những chuyện đáng tiếc và đáng buồn như vậy có thể xuất
phát từ nhiều nguyên nhân: sự ngu dốt hay sự tham nhũng; nhưng có lẽ
nguyên nhân trực tiếp chính là vì thiếu cảnh giác. Mà dân chúng cũng như
cán bộ không thể cảnh giác khi mọi người cứ tiếp tục bị ru ngủ bởi cái
huyền thoại đồng minh và đồng chí như vậy. Họ mất cảnh giác vì chính phủ
không hề có một chính sách rõ ràng.
Bởi
vậy, tôi nghĩ đã đến lúc chính quyền Việt Nam nên nói thẳng và nói thật
là Trung Quốc không còn là đồng chí và đồng minh, đừng nói đến chuyện
đồng minh chiến lược, của Việt Nam.
Một
số người sẽ cãi: Nói vậy là gây chiến với Trung Quốc, là dẫn Việt Nam
đi vào con đường chiến tranh. Nhưng đó chỉ là ngụy biện. Là hù dọa một
cách dốt nát và hèn nhát. Trên thế giới, không phải không còn là đồng
chí hay đồng minh thì nhất thiết phải là kẻ thù sinh tử của nhau. Mối
quan hệ giữa hai quốc gia vô cùng đa dạng. Điều chỉnh mối quan hệ ấy lại
cho đúng thực tế là điều mà mọi quốc gia sáng suốt đều làm.
Không có lý do gì để Việt Nam không làm được.
No comments:
Post a Comment