Huy Đức -
Người dân ở Hà Nội và Sài Gòn đã lại xuống đường. Mặc dù mục tiêu của
những cuộc tuần hành sáng 12-6-2011 vẫn là Trung Quốc, chính quyền đã
cứng rắn hơn. Có lẽ, họ đã quên mất, mỗi khi đất nước có hiểm họa xâm
lăng thì mục tiêu của dân chúng là những kẻ đang rập rình ngoài bờ cõi.
Người dân vẫn còn nhớ, đất đai của tiền nhân thường hay bị mất mỗi khi
“ở trong tường vách, da thịt tàn nhau”.
Hơn
300 năm trước, các Chúa Nguyễn đã đưa người đến Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1816, Gia Long chính thức thiết lập chủ quyền Việt Nam đối với cả
hai quần đảo. Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, bản vẽ năm 1838 của Nhà Nguyễn
đã thể hiện hai quần đảo này với tên gọi là Hoàng Sa và Vạn Lý Trường
Sa.
Năm
1920, Chính quyền Pháp, với tư cách là nhà nước bảo hộ ở Đông Dương đã
ra tuyên bố khẳng định chủ quyền và từ đó người Pháp hiện diện ở đây
liên tục. Tháng 11-1946, khi người Pháp bắt đầu chiến tranh trở lại với
Việt Minh, chỉ có thể đưa quân kiểm soát cụm phía Tây Hoàng Sa, Tưởng
Giới Thạch đã cho đổ bộ lên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa và tháng 12-1946,
đổ bộ lên Itu Aba, thuộc Trường Sa. Sau khi bị Mao đuổi khỏi lục địa
Trung Hoa, năm 1950, quân Tưởng rút khỏi hai hòn đảo mà họ giữ gần 4 năm
trước đó.
Năm
1954, theo Hiệp định Geneve, Hoàng Sa ở phía Nam Vĩ tuyến 17 sẽ thuộc
về chính quyền miền Nam Việt Nam. Nhưng, tháng 4-1956, khi lực lượng Hải
Quân Việt Nam Cộng Hòa ra tiếp quản, hai đảo lớn nhất đã bị “Quân giải
phóng Trung Quốc” chiếm mất. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa trên thực tế,
cai quản liên tục bốn đảo chính: Pattle (Hoàng Sa); Robert (Cam Tuyền);
Duncan (Quang Hòa Đông) và Drummond (Duy Mộng). Riêng đảo Pattle, Việt
Nam còn có một đài khí tượng thuộc hệ thống quốc tế. Từ năm 1956, Việt
Nam Cộng hòa, về mặt pháp lý, vẫn khẳng định chủ quyền trên phần bị Bắc
Kinh chiếm đóng.
,br>
Tháng
4-1972, khi miền Bắc dồn lực trong một chiến dịch thảm khốc ở Quảng
Trị. Người Mỹ cần Bắc Kinh làm ngơ để họ dội bom ra vĩ tuyến 20. Ngày
4-4-1972, Kissinger đã phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại
sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để “trao một bức điện bằng lời”, nhắn
Trung Quốc: “Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng cách 12 dặm”.
Người Trung Quốc hiểu, nếu họ đánh Hoàng Sa, người Mỹ sẽ án binh bất
động. Từ ngày 16-1-1974, Trung Quốc bắt đầu cho tàu ép sát Hoàng Sa.
Theo Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: “Các chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội
của Hoa Kỳ ở rất gần các vị trí chiến hạm Việt Nam”. Nhưng, Hải quân
Việt Nam Cộng Hòa đã phải đơn độc chống lại Trung Quốc xâm lăng. Theo
tướng Thoại: “Hạm Đội Bảy của Mỹ đã không làm gì kể cứu vớt các đồng
minh lâm nạn”. Kể từ ngày 19-1-1974, phần còn lại của Hoàng Sa Việt Nam
bắt đầu bị Bắc Kinh chiếm đóng.
Tướng
Giáp nhận được tin mất Hoàng Sa khi ông đang điều trị bệnh sỏi mật ở
Liên Xô. Năm 1975, sau “chiến thắng Buôn Ma Thuột”, Tướng Giáp kiến nghị
Bộ Chính trị “tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo” mà miền Nam
đang chiếm giữ. Ngày 2-4-1975, Tướng Giáp trực tiếp chỉ thị cho Tướng Lê
Trọng Tấn lúc bấy giờ đang ở Đà Nẵng: “Tổ chức tiến công giải phóng các
đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa”. Trước đó, ngày 30-3, Quân ủy cũng
điện cho Võ Chí Công và Chu Huy Mân yêu cầu thực hiện. Chiều 4-4-1975,
Quân ủy điện tiếp cho Quân khu V: “Kịp thời đánh chiếm các hòn đảo vùng
Nam Hải, đặc biệt là các đảo Nam Sa. Việc này phải chuẩn bị gấp và bí
mật, chỉ để cán bộ có trách nhiệm biết”. Ngày 9-4-1975, Cục Quân báo có
tin quân đội Sài Gòn rút khỏi các đảo, Quân ủy gửi điện “tối khẩn” cho
Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Hữu Thái: “Các
anh cho kiểm tra và hành động kịp thời… Nếu để chậm, có thể quân nước
ngoài chiếm trước, vì hiện này một số nước ngoài đang có ý đồ xâm
chiếm”. Từ ngày 14-4-1975 đến ngày 28-4-1975, Quân Đội Nhân dân Việt Nam
đã tiếp quản tất cả những hòn đảo do quân đội Sài Gòn chiếm giữ.
Cho
dù, theo lệnh ngày 13-4-1975 của Tướng Giáp, Quân đội miền Bắc đã không
đụng vào các hòn đảo do Trung Quốc khi ấy đang chiếm giữ. Nhưng, ngày
5-5-1975, khi Đài Tiếng nói Việt Nam công bố, “Hải quân Việt Nam đã giải
phóng quần đảo Trường Sa”, một phóng viên Tân Hoa Xã tên là Ling Dequan
đang thường trú tại Hà Nội đã thấy “đắng chát ở trong miệng”. Ling
Dequan, sau đó, nói Nayan Chanda: “Tin Việt Nam chiếm các hòn đảo đến
như một cú shock vì trước đó họ đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc
trên những hòn đảo ấy”. Mân Lực, tác giả cuốn sách “Mười năm chiến tranh
Trung-Việt”, cũng gọi hành động tiếp quản Trường Sa của Hải Quân Việt
Nam là “ngang nhiên chiếm đóng 4 đảo trong quần đảo Nam Sa của Trung
Quốc”. Vì theo Mân Lực: “Từ năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng
đã thông báo cho Thủ tướng Chu Ân Lai, rõ ràng xác nhận hai quần đảo Tây
Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng hiện nay họ tiền hậu bất
nhất ngang nhiên tuyên truyền đây là lãnh thổ của họ, sửa đổi bản đồ vẽ
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ Việt Nam”.
Ngày
4-9-1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố: “Hải phận 12 hải lý
kể từ đất liền là của Hoa Lục”. Ngày 14-9-1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
gửi Chu Ân Lai công hàm mà đời sau có thể đọc được toàn văn trên báo
Nhân Dân số ra ngày 22-9-1958: “Thưa đồng chí Tổng lý/ Chúng tôi xin
trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính
phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung
Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy
và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng
hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời
chào trân trọng”.
Cho
dù, theo Mân Lực, Tuyên bố của Chu Ân Lai “có đính kèm bản đồ về đường
ranh giới lãnh hải rất rõ ràng (trong đó bao gồm cả hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa)”. Cho dù, theo ông Trần Việt Phương, người có 25 năm
làm thư ký riêng cho Phạm Văn Đồng: “Lúc bấy giờ quan hệ Việt-Trung đang
rất tốt. Về phía Việt Nam, đang có quan niệm ngây thơ về chủ nghĩa quốc
tế vô sản; quan niệm ngây thơ từ người cao nhất của Ta chứ không phải ở
cấp độ vừa. Về phía Trung Quốc hiểu ra sự ngây thơ đó và đã có ý đồ
không tốt. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam có trong máu hàng nghìn năm kinh
nghiệm với Trung Quốc để, cho dù có sự ‘ngây thơ quốc tế vô sản’ cũng
không đến mức có thể dẫn tới sự nhầm lẫn hoàn toàn”. “Công hàm 1958” là
tuyên bố của một đồng minh, được đưa ra khi Mỹ đưa Hạm đội 7 hoạt động
trên eo biển Đài Loan và đe dọa chủ quyền của “đồng minh” Trung Quốc.
Cho dù, “Công hàm 1958” tuyên bố những gì thì nó cũng hoàn toàn không có giá trị công nhận Hoàng Sa là của Bắc Kinh. Từ năm 1954 đến trước ngày 30-4-1975, theo Hiệp định Geneve được ký bởi các bên trong đó có Hà Nội và Bắc Kinh, thì Hoàng Sa và Trường Sa – ở thời điểm 1958 – không phải là phần thuộc về miền Bắc mà đang là lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam Cộng hòa, một quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc
Cho dù, “Công hàm 1958” tuyên bố những gì thì nó cũng hoàn toàn không có giá trị công nhận Hoàng Sa là của Bắc Kinh. Từ năm 1954 đến trước ngày 30-4-1975, theo Hiệp định Geneve được ký bởi các bên trong đó có Hà Nội và Bắc Kinh, thì Hoàng Sa và Trường Sa – ở thời điểm 1958 – không phải là phần thuộc về miền Bắc mà đang là lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam Cộng hòa, một quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc
.
Sở
dĩ những nhà văn, nhà báo như Ling Dequan, Mân Lực, bị shock khi nghe
tin Việt Nam lấy lại Trường Sa, theo nhà nghiên cứu Dương Danh Di, với
chính sách bưng bít thông tin, người dân Trung Quốc không hề biết Hoàng
Sa, Trường Sa là lãnh thổ mà Việt Nam đã có chủ quyền liên tục hàng trăm
năm, là phần lãnh thổ mà Chính quyền của họ mới “dùng vũ lực để cưỡng
đoạt” trong thế kỷ 20 như những tên xâm lược.
Báo
chí chính thống của Việt Nam, từ năm 1958, chưa bao giờ nhắc lại “Công
hàm” của Phạm Văn Đồng, chưa giải thích “nội hàm” của tuyên bố ấy. Chính
quyền, đã tới lúc nên tuyên bố về giới hạn pháp lý của Công hàm này,
nên thừa nhận bản hiệp định (Geneve) mà mình đã đặt bút ký vào theo đó,
Hoàng Sa và Trường Sa từ trước 30-4-1975 là phần lãnh thổ thuộc về Chính
quyền Sài Gòn, nên dẫu Hà Nội có đưa ra tuyên bố gì thì cũng phải bị
coi là “vô giá trị”. Đây không còn là chuyện “ăn-thua” với người anh em
miền Nam mà là “mất-còn” với ngoại xâm. Đây cũng là lúc mà người dân tạm
gác các bức xúc thường nhật để tập trung vào mối đe dọa đến từ phương
Bắc.
Kinh
nghiệm từ “Trận tử chiến Hoàng Sa” năm 1974, mọi hành động trên biển
đông là để giữ đảo chứ không phải để chứng minh lòng dũng cảm. Nhưng,
trước cùng một sự kiện, Hải quân và thường dân đôi khi vẫn có những sứ
mệnh khác nhau. Người dân không có trách nhiệm phải cân nhắc mối tương
quan sức mạnh giữa hai quốc gia. Người dân có khát vọng chứng minh: Một
dân tộc nhỏ hơn không có nghĩa là cam lòng sợ hãi.
Những
thanh niên, trí thức, thường dân hôm nay, 12-6-2011, biết chính quyền
đang phải chịu những sức ép nào và những sức ép ấy giờ đây lại dồn lên
vai họ. Nhưng, hàng ngàn người dân vẫn phải xuống đường. Họ không chỉ
đòi lại đoạn cáp thứ hai bị chính quyền hải tặc Trung Quốc cắt trong
vòng chỉ hơn một tuần. Họ muốn nói với người phương Bắc, cho dù lịch sử
có trải thêm mấy nghìn năm, cho dù bị lừa phỉnh bởi “tình láng giềng,
đồng chí”, người Việt Nam vẫn hiểu Trung Quốc là ai và bảo vệ chủ quyền
là ý chí không có gì lay chuyển được.
Không
phủ nhận những lý do dẫn đến nỗi sợ mơ hồ trong những ngày này. Nhưng,
cũng trong những ngày này, chính quyền có cơ hội không hề mơ hồ để đứng
bên cạnh nhân dân, đoàn kết mọi người Việt Nam, không chỉ để cho mục
tiêu chống ngoại xâm mà còn có thể cho mục tiêu “ổn định”.
Chảy nước mắt khi cảm thấy dân mình đơn độc.
No comments:
Post a Comment