
Nội
dung bài Thiện vẫn hơn Ác nhắc đến một cuộc nghiên cứu khoa học in trên
Tạp chí Nature năm 2008 trình bày kết quả một cuộc thí nghiệm của Giáo
Sư Martin Nowak ở Ðại Học Havard, kết luận rằng, trong đời sống loài
người, sau cùng ai ăn ở thiện vẫn “có lợi” hơn là những người sống với
cái ác. Con người hướng về điều thiện, đó là một bẩm tính có thể chứng
minh cho phương pháp khoa học được. Cũng giống như các loài chim thiên
di mỗi mùa Thu bay về phương Nam bao giờ cũng bay từng đàn chứ không con
chim nào bay riêng lẻ, loài người làm việc thiện vì đó là “sách lược
tối ưu” cho cả chủng loại. Trải qua hàng triệu, hàng tỷ năm, mỗi loài
sinh vật có những thói quen được tích tụ và truyền cho các thế hệ sau để
tự bảo toàn, trong loài người Sống Thiện là một “chọn lọc tự nhiên,” đã
trở thành di truyền.
Môn sinh học, khi nói đến “chọn lọc theo thiên nhiên” (natural selection)
thì người ta nghĩ tới những sinh vật ích kỷ giành lấy tài nguyên cho
chính mình, thắng thế với các đồng loại. Nhưng bây giờ thì các nhà
nghiên cứu lại chú ý đến những hệ thống sinh học được tổ chức trên quy
tắc cộng tác và vị tha, đặc biệt là trong xã hội loài người. Những cuộc
nghiên cứu tên đề tài này hiện nay rất phổ biến và có những khám phá rất
đáng chú ý. Từ phạm vi sinh học, người ta dùng cùng một phương pháp để
nghiên cứu về kinh tế, xã hội học, và đạo đức học.
Hai Giáo Sư
Claus Wedekind và Manfred Milinski ở Ðại Học Bern, đã làm một cuộc thí
nghiệm về tính thiện của con người, bản báo cáo của họ vào năm 2000 nay
đã trở thành một công trình “cổ điển.” Làm việc thiện tức là việc ích
lợi cho người khác, và thế nào mình cũng chịu tốn kém một chút nào đó.
Mục đích cuộc thí nghiệm của hai ông là xem tại sao có nhiều người thích
làm việc thiện dù không được đáp lại. Hai ông dùng một lý thuyết sinh
học là “đền đáp gián tiếp” (indirect reciprocity).
Bình
thường, ai làm việc tốt cho mình thì chúng ta báo đáp. Trong quan hệ
trực tiếp giữa hai cá nhân, hiện tượng vay trả, đáp ứng (reciprocity),
có đi có lại, là chuyện thường diễn ra và dễ hiểu. Nhưng chúng ta cũng
hay làm những việc tốt lành cho những người hoàn toàn hoàn toàn xa lạ;
cho những người mình chỉ gặp gỡ tình cờ và không nghĩ trong đời sẽ còn
gặp lại.
Tại sao người ta làm việc thiện “không cần đáp ứng” cho
người lạ như vậy? Các nhà xã hội học thử đoán nguyên do theo lối thuần
lý. Họ giả thiết là loài người ai cũng lo cho lợi ích của chính mình. Do
đó có một lý do khiến mọi người làm việc tốt cho người khác mà không
cần được đáp lại trực tiếp, là làm việc thiện sẽ tạo được tiếng tốt cho
mình; nhờ được tiếng tốt đó mà sẽ được người khác tin, rồi sẽ làm việc
tốt cho mình. Các nhà nghiên cứu gọi đây là hiện tượng “đền đáp gián
tiếp” (indirect reciprocity). Trong văn hóa Việt Nam chúng ta còn tin là
khi làm việc thiện thì sẽ tạo được phước đức, dù mình không được xã hội
đền đáp trong đời này thì đến đời con, đời cháu cũng sẽ được đền đáp
gián tiếp. Cả xã hội loài người có một guồng máy phân bố phước đức, có
thể coi như một thị trường cho chúng ta đầu tư phúc đức. Mỗi người sinh
ra đều nhận được một di sản Phúc Ðức do ông bà để lại, mình có thể được
hưởng và đóng góp thêm vào kho phước đức đó cho đời sau! Niềm tin đơn
giản đó giúp cả xã hội cùng tốt lành, có lẽ vì thế mà người Việt Nam cứ
giữ niềm tin đó suốt bao nhiêu thế hệ! Nói theo lối thuyết tiến hóa,
những thói quen nào có ích lợi cho cả chủng loại thường được lưu giữ
trong phong tục, tập quán, thấm nhuần trong nền văn hóa.

Nói
đến luật tiến hóa là người ta nghĩ đến quy tắc “cạnh tranh để sinh
tồn;” nhờ mỗi sinh vật cố gắng giành phần lợi ích về tay mình cho nên cả
xã hội được thúc đẩy tiến tới. Sống trải qua hàng triệu năm, những hành
vi, thái độ và tính toán mà một sinh vật tập được để tự bảo tồn sự sống
của mình, dần dần trở thành những thói quen tự nhiên. Những thói quen
nào giúp bảo vệ chủng loại sẽ được truyền qua nhiều thế hệ, dần dần được
coi là bản tính. Ngược lại, những hành vi, thái độ nào không có lợi cho
chủng loại thì sẽ không được truyền lại vì những sinh vật mang các thói
quen đó sẽ dần dần sẽ biến mất. Thí dụ khi quan sát một giống ong,
người ta thấy những con ong thợ khi đến hút mật hoa trên một loại cây
luôn luôn chọn hút các bông hoa từ dưới gốc cây rồi đi dần lên trên. Khi
khảo sát người ta thấy những bông hoa ở phía dưới thường chứa nhiều mật
hơn. Từ bản năng, các con ong đã biết lựa chọn một “giải pháp tối ưu!”
Mặt khác, khi một con ong bay tới, sà vào một bông hoa mà thấy có “dấu
chân” của một con ong khác đã tới thăm bông hoa đó rồi, thì rời bỏ cả
cái cây đó luôn, không thử dò tìm các bông hoa khác trên cùng một cây
nữa. Làm như vậy cũng là “lựa chọn tối ưu” vì về lâu về dài sẽ tiết kiệm
được nhiều thời giờ.
Chắc không phải những con ong thợ này đã
được huấn luyện trong tổ trước về “đường lối,” “chính sách,” và phương
pháp quyết định “giải pháp tối ưu” trước khi cho đi “làm công tác?” Thói
quen đó có thể giải thích bằng thuyết tiến hóa. Trong hàng tỷ năm cuộc
đời của loài ong, những con ong có thói quen tốt này thì được sống lâu
hơn, đông hơn, có cơ hội tồn tại và truyền giống; trải qua hàng tỷ thế
hệ ong, nghệ thuật tìm mật hoa này đã biến thành những đặc tính bẩm
sinh.
Trước đây khi nghiên cứu về diễn trình tiến hóa của các sinh
vật và của loài người, người ta chỉ giả thiết ai cũng có thói vị kỷ,
ganh đua, nhưng không mấy người chú ý đến vai trò của óc vị tha, của
lòng từ ái. Nói chung là khi nghiên cứu thuyết tiến hóa người ta thiên
về mặt duy lợi, vị kỷ mà không chú ý về Cái Thiện. Nếu đặt trọng tâm
trên sự cộng tác giữa các cá nhân trong một giống sinh vật, người ta chỉ
chú ý tới những hành động hy sinh của cá thể để bảo tồn giòng giống của
chủng loại; một thứ bản năng có tính sinh học. Trong khi đó, một điều
ai cũng phải thấy là tất cả các nền văn minh trong lịch sử đều đề cao
Cái Thiện, thúc đẩy sự cộng tác giữa mọi người và ngăn ngừa tánh ích kỷ
hại nhân.
Hai giáo sư người Thụy Sĩ Claus Wedekind and Manfred
Milinski đã bày ra một “trò chơi” nhờ các sinh viên tham dự vào một cuộc
thí nghiệm để tìm hiểu hiện tượng “đền đáp gián tiếp” có thật sự thể
hiện hay không. Họ được 80 sinh viên cộng tác, mỗi người ngồi trước máy
điện toán, coi như được phát một số đồng Franc tiền Thụy Sĩ. Họ có quyền
phát tiền cho một người bạn tham dự cuộc chơi. Mỗi lần mỗi sinh viên
lại cho tiền một người khác nhau, mỗi người chơi không biết ai là “đối
tác” của mình; trên màn ảnh máy vi tính chỉ biết là đối tác đó đã từng
phát tiền cho người khác bao nhiêu lần.
Kết quả cho thấy thuyết “đền đáp gián tiếp” (indirect reciprocity)
được thể hiện. Nếu thuyết đó không đúng, tức là các sinh viên quyết
định đem tặng tiền cho người khác một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, thì khi
trò chơi kết thúc, số tiền vốn của mọi người sẽ gần như bằng nhau.
Nhưng sau cùng, khi tổng kết xem mỗi người còn bao nhiêu tiền, người ta
thấy những sinh viên nào hay đem tiền cho người khác nhất cũng là những
sinh viên nhận được nhiều hơn các bạn khác.
Nhưng tất nhiên trong
nhân loại có những người vị tha hơn người khác, và ngược lại có người
thường chỉ nghĩ đến mình. Hành vi của họ khác nhau như thế nào khi biết
rằng những người có tiếng vị tha có thể được đền đáp?
Một cuộc nghiên cứu khác, công bố năm 2008 trên tạp chí Social Psychology Quarterly,
của hai Giáo Sư Brent Simpson và Robb Willer ở Mỹ, đã tìm hiểu kỹ hơn
về tác phong của con người trong hoàn cảnh có sự đền đáp gián tiếp.
Trong thí nghiệm này, người ta trắc nghiệm trước các đối tượng để xếp
loại những người có khuynh hướng vị kỷ trong một nhóm, nhóm kia là những
người được xếp loại vị tha. Khi tham dự cuộc chơi mà biết rằng các hành
động thiện trong tương lai có thể được đền đáp thì những người vị kỷ
phản ứng rất tích cực. Ngược lại, những người vốn tính vị tha thì dù
biết sau này có được đền đáp hay không, họ cũng không chịu ảnh hưởng.
Như vậy nghĩa là hành động hoàn toàn vị tha là có thật; nhưng nhân loại
không phải ai cũng vị tha. Thí nghiệm thêm lần nữa, hai tác giả thấy
rằng khi được chứng ai có hành động thiện, thì những người vị tha thường
“tưởng thưởng” cho những người thiện đó nhiều hơn những người có tính
vị kỷ qua việc đền đáp gián tiếp.
Tạp chí Games and Economic
Behavior tháng 11 năm 2009 đăng kết quả cuộc nghiên cứu của ba giáo sư ở
Âu Châu, họ chia các đối tượng nghiên cứu làm hai nhóm, một nửa thì mỗi
lần “làm việc thiện” đều được báo cho mọi người biết, một nửa thì hoàn
toàn không. Kết quả cho thấy trong xã hội quả thật có hiện tượng thuần
túy “đền đáp gián tiếp.” Nhưng bên cạnh đó cũng có những người làm điều
thiện vì tính toán hơn thiệt.
Nhiều quý vị nghe những câu chuyện
trên sẽ thấy là kết quả của những cuộc nghiên cứu mới kể thật ra không
có gì lạ. Nếu vậy thì rất đáng mừng. Không thấy gì mới lạ, nghĩa là
chúng ta không cần phải mất công bầy ra các cuộc nghiên cứu (hàng ngàn
cuộc nghiên cứu đã thực hiện) chỉ để biết một điều mà ai cũng đã tin là
đúng từ lâu rồi: “Thiện tâm ở tại lòng ta.”
Ngô Nhân Dụng
No comments:
Post a Comment