
Ngó tới rồi
lại ngó lui, nhìn người rồi lại nhìn ta thầm ước phải chi Việt Nam ta
có một vị như Đức Hồng Y Trần Nhật Quân, ngài là người của Công đồng
Vatican II đó chớ, là người được sống tự do ở Hồng Kông nhiều năm trước
khi vùng đất này thuộc về Trung Quốc đó chớ, mà sao ngài vẫn đấu tranh
cho dầu ngài biết bị mang tiếng là “đối đầu” trong khi đó những vị sống
tại Hoa Lục lâu năm, không biết đến Công đồng Vatican II, không được nếm
mùi tự do lại hoàn toàn ngoan ngoãn “đối thoại” vâng lời và tuân hành ý
Nhà Nước, khác hẳn với một vị của ta, lúc nào cũng lên án miền Bắc là
“đối đầu” theo tinh thần Vatican I, chỉ có mình ngài là “đối thoại” theo
tinh thần Vatican II, mong sao ngài nhìn vào tấm gương Đức Hồng Y Trần
Nhật Quân một chút thôi thì Việt Nam đỡ khổ lắm!
![]() |
Đối thoại kiểu gì? |
Nói
thiệt có suy nghĩ một chút và trong thời đại “đối thoại” thay đối đầu,
ai mà không muốn đối thoại, nhứt là khi người đối thoại nắm quyền lực
luôn muốn chà đạp kẻ đối đầu thì kẻ đối đầu chỉ có nước bể đầu thôi. Cực
chẳng đã mới phải đối đầu, mới phải chịu tiếng quá khích, hay gây rối
chớ ai không muốn được tiếng là dễ thương, là nhẹ nhàng, là dùng đường
lối mềm dẻo mà thành công. Nhưng nhìn lại lịch sử, qua những kinh nghiệm
thực tế sao thấy “đối thoại” mà ngán ngẩm, hổng biết tui có bi quan hay
là thiên kiến không nghen, nhưng tui thấy hầu hết những người chủ
trương đối thoại về phía Nhà Nước đều âm mưu thủ đoạn gian dối lọc lừa,
còn về phía Giáo Hội đều ngây thơ, ảo tưởng và có tham vọng, hổng nói
bâng quơ đâu nghe, nói có sách mách có chứng đàng hoàng đó nghen.
Tui
hổng rành lắm về chính trị, nhưng nghe nói lại thì thấy những chiêu bài
của đảng cộng sản như “đối thoại”, “hợp tác” đều là lường gạt hết thảy.
Tòa Thánh đã thu lợi được gì từ Ospolitik của Đức Hồng Y Casaroli với
các nước Đông Âu hay là chỉ những lời hứa hẹn hão huyền và những thất
bại cay đắng.
Tại Việt Nam thì các
đảng phái chính trị đều có kinh nghiệm ê chề. Thời cách mạng còn phôi
thai, Việt Minh đã liên kết mọi đảng phái để tập hợp lực lượng đánh đuổi
ngoại xâm, dành độc lập. Thời đó các đảng phái đều nức lòng phấn khởi
tập họp lại chung sức chung lòng cho đến nỗi cả khối Công giáo cũng tích
cực tham gia như Đức Cha Tađêô Lê Hữu Từ nhận làm Cố vấn cho Chủ tịch
Hồ chí Minh khi ông này đến tận Đan viện Nho Quan để thỉnh cầu và Đức
Cha Hoàng Văn Đoàn đã mạnh mẽ lên tiếng ủng hộ cũng như nhiệt liệt ủng
hộ tuần lễ vàng, Đức Cha Phaolo Lê Đắc Trọng thời ấy còn là chủng sinh
đã hăng hái tham gia mít tinh mừng độc lập, cha Gioan Đỗ Tông, cầm cờ đi
đầu, và khi thấy đoàn chủng sinh đứng xa lễ đài, chủ tịch Hồ chí Minh
đã kêu gọi đoàn đến sát lễ đài hơn, còn các đảng phái thì khỏi nói, nào
là Phục Quốc, nào là Quốc Dân Đảng… tất cả đều về dưới cờ Việt Minh.
Nhưng
khi đảng đã nắm quyền rồi thì sao? Lập tức mặt thật phơi bày với các
cuộc thanh trừng đẫm máu đến nỗi Nguyễn Hải Thần và Nhất Linh phải cao
chạy xa bay, các Đức Cha Lê Hữu Từ và Hoàng Văn Đoàn rút lui và sau đó
vào Nam. Cứ nhìn vào các đảng phái do chính Nhà Nước này lập nên như Dân
Chủ thì thấy, chỉ một thời gian sau là chết ngỏm. Đó là một kinh nghiệm
về “hợp tác” và “đối thoại”. Khỏi cần nói tới những đảng phái vốn không
cùng lý tưởng với cộng sản, nhưng hãy nói ngay tới Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam vốn là con đẻ của đảng hết mình vì đảng, vậy mà sau ngày cách
mạng thành công họ đã được những gì, hãy hỏi các bậc kháng chiến lão
thành như Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Hộ… thì rõ.
Khi
đất nước còn bị phân chia hai miền Nam – Bắc, tui hổng rõ lắm về cuộc
đối thoại giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông cố vấn Ngô Đình Nhu và Chủ
tịch Hồ chí Minh, nhưng về Tổng thống cuối cùng thì hỏi ai có thể quên
cho được. Ông Dương Văn Minh được bầu lên cùng với ông Trần Văn Hương và
cộng sản bắn tiếng rằng chỉ đối thoại với ông Dương văn Minh mà thôi.
Ông Dương Văn Minh cũng tưởng rằng mình là người quan trọng có thể cứu
được đất nước khỏi đổ máu và miền Nam được giữ đúng vị trí trung lập như
hiệp định Paris qui định nên ông mới nói với ông Trần Văn Hương vốn là
người có uy tín và là thầy dạy ông : “Thầy đã hi sinh tới mức này, xin
thày hi sinh một bước nữa cho trọn, nhường cho tui làm Tổng Thống”. Cũng
tưởng rằng như thế là có lợi cho đất nước, ông Trần Văn Hương đã đồng
ý. Tới ngày 30/04/1975, ông Dương Văn Minh qua trung gian của một thày
chùa có liên lạc với cộng sản, trước đó chính vị thày chùa này cho biết
đảng chỉ đồng ý đối thoại với tướng Dương Văn Minh và hứa chắc chắn sẽ
làm trung gian đưa cách mạng tới đàm phán, nhưng khi Sài Gòn thất thủ,
vị thày chùa này nói với ông Dương Văn Minh rằng: “Tui hổng còn làm gì
được để giúp Tổng thống, Tổng thống hãy tự cứu mình!” tới nước đó, ông
Dương văn Minh chỉ còn biết than trời :”Dzậy là thày giết tui rồi!”. Khi
quân cách mạng tiến vào Dinh Độc Lập, ông Dương Văn Minh nói: “Tui đang
đợi anh em đến để làm thủ tục bàn giao” thì được quân cách mạng trả
lời: “Không có bàn giao gì hết, ông chỉ còn một việc là tuyên bố đầu
hàng vô điều kiện”. Đau đớn chưa kinh nghiệm “đối thoại” và “hợp tác”
với cộng sản. Hổng biết ông Tướng Hoa Lan này khi chết có để lại hồi ký
gì không, nhưng theo cách ông hành xử khi còn sống có lẽ ông đành ngậm
đắng nuốt cay giữ kinh nghiệm đau thương bị lừa dối này đem xuống âm phủ
luôn. Thiệt quá ê chề.
Ngoài đời thì
như vậy, còn trong đạo thì sao? Có những vị chỉ vì chưa có kinh nghiệm,
dễ tin nên bị lừa trong một thời gian rồi sau đó tỉnh ngộ như một vài
giám mục và linh mục, kể cả những người chỉ phấn khởi trong những ngày
mới dành được độc lập, sau đó phải ngậm ngùi chia tay màu cờ đỏ, có
những người phải mất một thời gian lâu hơn mới biết được sự thật như vài
linh mục có thế giá, đã có một thời bị lừa dối nên dưới chế độ đệ nhị
Cộng hòa đã quyết liệt phản đối ông Thiệu, vận động cải thiện chế độ lao
tù cho tù nhân cộng sản tại Côn Đảo, đã vào bưng gặp gỡ cách mạng,
trong thời gian còn kháng chiến, mạnh mẽ ủng hộ đảng với tạp chí Đứng
Dậy, Đồng Dao… mãi cho đến khi cách mạng thành công, báo Đứng Dậy được
tiếp tục một thời gian rồi bị đóng cửa vĩnh viễn, bấy giờ các vị mới
hoàn toàn thông hiểu việc “đối thoại và hợp tác với Nhà Nước” thực sự là
gì và phải có thái độ nào mới phù hợp với cộng sản.
Trong
hàng giám mục cũng có những vị chỉ phấn khởi trong những ngày đầu cách
mạng như Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền, đã mau chóng khích lệ giáo
dân sống đạo thời cách mạng bằng cuốn giáo lý “Tôi vui sống” rất tích
cực, nhưng chẳng bao lâu, ngài đã hoàn toàn thay đổi thái độ khi thấy
rằng chẳng thể ngây thơ và ảo tưởng mà đối thoại với đảng cộng sản được.
Có vị kia rất gần gũi với Nhà Nước nhưng từ khi biến cố Tòa Khâm Sứ nổ
ra thái độ của ngài có nhiều thay đổi, nói sự thật nhiều hơn. Chỉ còn
một số rất ít giám mục và linh mục xem ra kiên định trong đường lối “đối
thoại”và “đối thoại bằng mọi giá”. Các vị này chủ trương “đối thoại”
tuy ở nhiều cấp độ khác nhau và dưới nhiều sắc thái khác nhau và vô tình
đều đi tới một vài điểm chung là làm lợi cho cộng sản và làm hại cho
Giáo hội nhiều khi đi đến chỗ chống báng lại Tòa Thánh.
Đối
thoại sao được khi vì muốn “đối thoại” với đảng cộng sản mà hổng dám
nói một lời bênh vực vị Chủ Chăn của mình dù vị này vô tội? Người giáo
dân Sài Gòn phải cúi đầu xuống tủi nhục vì vết nhơ này (may mà hình như
cũng có một số nhỏ linh mục và giáo dân bênh vực vị chủ chăn đó). Đối
thoại sao được khi để cho các linh mục đảng viên lộng hành thao túng
trong giáo phận suốt nhiều thập niên? Đối thoại kiểu gì mà tham quyền cố
vị đi với Nhà Nước ngăn cản việc bổ nhiệm của Tòa Thánh?
Đối
thoại kiểu gì mà phải báo cáo mọi việc của HĐGM cho Nhà Nước, một nhân
viên cao cấp thuộc Ban Tôn Giáo tự hào khoe rằng tại hội nghị thường
niên, HĐGM làm gì chúng tôi đều biết, thậm chí vị nào phát biểu gì chúng
tôi đều rõ, vì thế những văn bản như thư chung của HĐGM, Nhà Nước đều
biết nội dung trước khi công bố nên đã nhiều lần can thiệp bắt sửa đổi
và vì biết trong hội nghị ai đã phát biểu gì nên có thái độ trả đũa như
không chấp thuận Đức Cha Phaolo Nguyễn Văn Hòa về Hà Nội. Là đối thoại
hay sao khi báo cáo danh sách ứng viên giám mục của cả Việt Nam cho Nhà
Nước trong khi đây là việc tuyệt mật của Tòa Thánh trực thuộc trực tiếp
vào Đức Thánh Cha? Một điều thấy rõ là từ khi những vị “đối thoại bằng
bất cứ giá nào” thôi đi họp thì hội nghị của HĐGM mới hết rò rỉ thông
tin.
Đối thoại kiểu gì mà phải đi
ngược đức tin của mình khi vào hùa với Nhà Nước chống việc phong thánh,
lên án cha mình là các thánh tử đạo? Đối thoại kiểu gì mà nghe theo chỉ
thị của Nhà Nước chống lại mẹ của mình là Đức Mẹ Lavang, trong khi giáo
dân toàn quốc nô nức kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra ở Lavang lại viết
bài công kích mẹ Lavang? Đối thoại kiểu gì mà phản bội người anh em của
mình khi vụ Tòa Khâm Sứ nổ ra, toa rập với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,
hòng bứng Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt ra khỏi Hà nội. Trong việc này
chúng tôi có hỏi Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt thì ngài chỉ mỉm cười
đáp: “Mọi sự ở trong thánh ý Chúa hết”.
Tại
sao các ngài lại chủ trương “đối thoại” và đi đến những việc làm không
lường được hậu quả như thế, sau một thời gian nhìn lại có thể thấy một
vài lý do, đó là do tham vọng, ảo tưởng và ngây thơ.
Đa
số những vị này đều có tham vọng làm được một kỳ tích. Từ khi xuất hiện
cho tới nay, cộng sản không hề đối thoại và nhượng bộ trong đối thoại,
chính vì thế cộng sản kích thích đối thoại, việc đối thoại với cộng sản
là không có thể, điều đó kích thích người ta tìm cách đối thoại, và
những người tự hào mình có khả năng, có trí thức tìm cách đối thoại với
cộng sản vì tự tin vào khả năng của mình và có tham vọng tạo nên kỷ tích
từ trước đến nay chưa ai làm được. Ngay cả Bộ Truyền Giáo mà Đức Hồng Y
Trần Nhật Quân đề cập tới cũng thế, muốn tạo nên kỳ tích trong thời đại
của mình, Giáo hội Trung Quốc gặp gian nan khốn khó, từ trước đến nay
Nhà Nước không chịu đối thoại, nay ta đối thoại được là thành công rồi,
và nếu thiết lập được bang giao thì đó là lịch sử. Có thể đây là một
tham vọng thánh thiện muốn phục vụ Giáo hội, muốn điều tốt cho Giáo hội,
nhưng tham vọng là tham vọng và bao giờ nó cũng chỉ là tham vọng với
đầy đủ nghĩa xấu của nó với những nết xấu đi kèm là kiêu căng tự mãn:
“Phải là người trí thức, có bản lãnh như ta mới đối thoại được”.
Đa
số đều có ảo tưởng là có thể đối thoại với cộng sản, ảo tưởng này có
thể do tự đề cao chính mình hoặc cũng có thể do cộng sản vẽ ra để tâng
bốc cho đối phương vào mê hồn trận cho dễ lợi dụng như trường hợp ông
tướng Dương văn Minh là cụ thể, ông đã nghĩ chỉ có mình có khả năng đối
thoại, đảng cộng sản chỉ chọn ông là người đối thoại, ông có ảo tưởng và
ảo tưởng đó được cộng sản bơm lên cho thành thứ bong bóng mầu sắc đẹp
đẽ nhưng cuối cùng nổ tung cuốn theo tất cả không chỉ sự nghiệp mà cả
danh dự và nhất là quyền lợi thiêng liêng của cả đất nước dân tộc. Với
các vị lãnh đạo trong nhà đạo cũng thế, cộng sản tâng bốc rằng chỉ có
các vị là đối thoại được, chỉ có các vị nói là chúng tôi nghe được, chỉ
có các vị là người yêu nước vì yêu xã hội chủ nghĩa, chỉ có các vị đem
lại lợi ích cho đất nước vì biết hi sinh quyền lợi của tôn giáo. Đức cha
Nguyễn Sơn Lâm lúc cuối đời đã thú nhận: Thời của chúng tôi, chúng tôi
đều nghĩ rằng mình có thể đi vào xã hội, tiếp cận với cộng sản, đối
thoại và thuyết phục được cộng sản để làm lợi ích cho Giáo hội, sau đó
tuy không nói ra nhưng thái độ của ngài cho thấy ngài đã hết ảo tưởng về
khả năng đó, vậy mà hiện nay vẫn còn người nuôi ảo tưởng đó.
Đa
số đều ngây thơ, vì ngây thơ nên mới có ảo tưởng, vì ngây thơ nên mới
bị cộng sản cho vào tròng, thật lạ lùng chính những người tự hào là
thông minh khôn khéo nhất, chính những bậc trí thức tài ba lỗi lạc nhất
lại là những người quá ngây thơ bị cộng sản cho vào bẫy, ngây thơ đưa
đến hậu quả kép ngược đời và tai hại, một đàng ngây thơ nên rất sợ Nhà
Nước, từ sợ làm Nhà Nước buồn lòng đến sợ Nhà Nước trừng phạt, trong khi
đó vì ngây thơ nên rất dễ tin những hứa hẹn của Nhà Nước, rất háo danh,
ham hố chức quyền, ham hố huân chương, chí ít là ham hố những lời nịnh
hót của Nhà Nước phong các vị đó lên hàng cứu tinh của đạo giáo.
Trách
nhiệm phần nào thuộc các quan chức cao cấp trong Giáo Hội, trong một
thế giới thiếu thông tin và bưng bít như thế giới cộng sản, các ngài quá
tin những gì người ta báo cáo, nhất là những báo cáo ngọt ngào bùi tai
cho rằng người này người kia có thể làm trung gian và những người
“trung” ít “gian” nhiều này đánh bóng tô hồng những kết quả do đối thoại
đem đến, như tại Trung Quốc hiện nay, các ngài đã làm gì với linh mục
Jeroom Heynrickx và những báo cáo của ông để phải nhận những nhục nhã do
những nhượng bộ đối với Trung quốc hôm nay. Một thái độ khác của các
ngài rất đáng cho ta sợ hãi đó là những người theo Nhà Nước chống Giáo
Hội thì vẫn bình an vô sự trong khi những người vì Giáo Hội mà chống Nhà
Nước thì cuối cùng bị bỏ rơi, kết cục đau buồn cô đơn, chẳng ai bênh
vực, trường hợp Đức Hồng Y Mindzenty của Hungary còn đó. Vậy thì cứ việc
theo Nhà Nước chống Giáo Hội, điều đó chỉ có lợi cho bản thân thôi, dại
gì bảo vệ công lý và sự thật làm gì cho mệt thân, bị Nhà Nước thù hằn
đã đành mà rồi cuối cùng bị chính anh em bỏ rơi, bạc đãi nữa.
Đến
đây tui hết muốn viết nữa, thấy bùi ngùi chua xót quá, khi trong đầu
quay cuồng câu hỏi: Giáo hội ta có còn đặt trọng tâm vào rao truyền và
bảo vệ chân lý bằng mọi giá kể cả chịu mất mạng sống của mình hay không?
Hay là bây giờ phải đối thoại bằng mọi giá kể cả phải hi sinh giáo lý
của mình, đức tin của mình, và nhân sự của mình? Ta đã trở thành thực
dụng rồi sao. Thưa Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, con rất yêu mến ngài
và con rất hân hạnh được cùng họ với ngài.
Trân Dũng Lạc
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=5854
No comments:
Post a Comment