Vũ Ái Quốc - “...Nói thẳng ra, muốn có “văn hóa dương tính” ở nước ta hiện nay thì trước tiên Đảng phải cởi trói cho cừu, đưa cừu trở lại thành người trước, sau đó rồi mới dùng giáo dục làm động lực xây dựng...”
“Việt Nam vẫn là nước nghèo”. Đó là lời tự thú của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người đứng đầu chính phủ Việt Nam tại Hội nghị thường niên ADB lần thứ 44, diễn ra ngày 5/5/2011 ở Hà Nội. Chắc chắn, đó không phải là luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động và cũng chắc chắn không phải là “Báo cáo không khách quan dựa trên thông tin không đầy đủ, sai sự thật” của một cá nhân, tổ chức nào đó thiếu thiện chí với Việt Nam.
Những câu hỏi đặt ra sau lời tự thú của thủ tướng nẩy sinh trong tôi:
1.Vì sao sau gần 60 năm đi lên CNXH, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, nước vẫn chưa thấy được “Thiên đường” như hứa hẹn của Đảng. Không thấy được “Thiên đường” mà lại thấy một đất nước Việt Nam sau 36 năm hòa bình đến nay vẫn còn nghèo.Vì sao?. Trách nhiệm này thuộc về ai ?
2.Làm thế nào để nước ta thoát nghèo trở thành nước phát triển? Bắt đầu từ đâu? Đặt ra câu hỏi nhưng tôi không dám đi tìm câu trả lời, vì nghĩ rằng đó là việc của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, điều hành đất nước, không phải việc làm của một dân thường như tôi.
Gần đây, khi đọc bài: Đặng Lê Nguyên Vũ – Kẻ “vĩ cuồng” (xem phần phụ lục) của tác giả Lưu Trọng Văn, một bài viết đã cung cấp nhiều thông tin giá trị. Nếu đúng như bài viết thì Vũ đúng là một nhân tài. Không những có tài, Vũ còn là người có tâm, có tầm, có khát vọng lớn, cao cả, cháy bỏng và đã làm được nhiều việc lớn, rất lớn cho đất nước. Những người như Vũ rất hiếm rất cần được xã hội bảo vệ như lời kêu gọi của tác giả.
Ngoài thông tin quý báu tôi thu nhận được ở trên, tôi còn bắt gặp ở bài viết các các câu hỏi và có cả phần lý giải các câu hỏi tương tự nói trên của tôi. Bởi vậy, tôi đã chăm chú đọc đi đọc lại. Cả bài viết rất hay, riêng phần lý giải các câu hỏi tương tự những câu hỏi tôi đặt ra cho mình thì tôi cảm thấy chưa thuyết phục lắm. Đây là điều tôi quan tâm và kỳ vọng nên tôi rất lấy làm tiếc. Vì cảm thấy chưa thuyết phục lắm nên tôi cũng đã cố đi tìm lấy câu trả lời riêng cho bản thân, hy vọng thỏa đáng hơn nhưng không biết có đúng không?. Xin mạnh dạn nêu lên đây để trao đổi, chia xẻ cùng những ai quan tâm. (Xin bạn đọc lưu ý là chỉ phần lý giải các câu hỏi tương tự những câu hỏi của tôi sau đây chưa thuyết phục lắm đối với tôi mà thôi.)
Theo tác giả, khi đi tìm nguyên nhân kìm hãm sự phát triển dân tộc ta, Vũ cho rằng: “Cái neo kìm hãm dân tộc là nền “văn hóa âm tính”. Chỉ mau chóng cải sửa nền “văn hóa âm tính” ấy, chuyển qua nền “văn hóa dương tính” hừng hực niềm đam mê sáng tạo và khát vọng thì đất nước mới phát triển hùng mạnh được…”. Bởi vậy, “Vũ vận động truyền thông, vận động các học giả, trí thức cổ vũ cho cuộc đổi mới trong giáo dục, lấy “giáo dục động lực” làm chủ thể”.
Nói như vậy, tôi hiểu rằng: nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của đất nước là do nền “văn hóa âm tính”. Nền “ văn hóa âm tính” là do giáo dục mà có, nên muốn đất nước phát triển hùng mạnh thì phải đổi mới giáo dục, lấy “giáo dục động lực” làm chủ thể.
Còn theo tôi: Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của một đất nước XHCN nói chung và của nước ta nói riêng là do đường lối không đúng, không tuân theo quy luật khách quan mà mang tính chủ quan độc đoán, không có tính khoa học. Đường lối không đúng thì không thể về đến đích sớm được, thậm chí không bao giờ về đến đích. Trách nhiệm hiển nhiên thuộc về người vạch đường, chỉ lối. Muốn đất nước phát triển hùng mạnh thì điều kiện tiên quyết là thay đổi đường lối chính trị. Giải pháp trên của Vũ chỉ đúng với điều kiện khi đất nước đó đã có đường lối chính trị đúng.
Thực tế đã chứng minh điều đó
Trước tiên, là thực tế về đất nước Triều Tiên. Trước Đại chiến Thế giới lần thứ II kết thúc năm 1945, Bắc Hàn và Nam Hàn là một quốc gia, có cùng điều kiện tự nhiên lịch sử phát triển, cùng nền chính trị, văn hóa, kinh tế, chủng tộc, vị trí địa lí… . Sau năm 1945, đất nước Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền Bắc Hàn và Nam Hàn, đi theo hai con đường chính trị khác nhau, Bắc Hàn đi lên CNXH, Nam Hàn đi lên TBCN. Sau hơn 60 năm, từ một xuất phát điểm như nhau, chỉ khác nhau ở đường lối, Bắc Hàn và Nam Hàn đã trở thành hai quốc gia hoàn toàn khác nhau, đối lập nhau, gần như ở 2 thái cực. Bắc Hàn hiện đang đứng bên bờ vực của nghèo đói, lạc hậu, tụt hậu, sống thoi thóp trông chờ vào sự cứu trợ, giới cầm quyền lấy dân làm con tin, ôm bom nguyên tử để tống tiền các quốc gia giàu có, văn minh trên thế giới. Trong khi đó Nam Hàn trở thành nước phát triển, giàu mạnh, văn minh, người dân của họ được làm người. Ngoài việc lo cho dân nước mình một cuộc sống no ấm họ còn là bạn hàng thường xuyên cứu trợ cho Bắc Hàn. Nếu xoay xở, vay mượn, thế chấp kiếm đủ số tiền để có được một suất đi “xuất khẩu lao động” ở Bắc Hàn hay Nam Hàn, bạn sẽ chọn đi làm thuê nước nào?
Qua thí dụ trên trên ta thấy ngay: Đường lối, thể chế chính trị đóng vai trò quyết định sự của phát triển của một quốc gia. Các yếu tố khác như kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật và cả con người…đều chịu sự điều chỉnh của đường lối chính trị và do đường lối chính trị quyết định. Các yếu tố khác chỉ đóng vai trò hết sức quan trọng, nằm trong mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại với yếu tố đường lối chính trị. Thay đổi đường lối chính trị sẽ làm thay đổi tất cả, nhưng thay đổi một vài yếu tố trên chỉ cải thiện được một vài tình huống nhỏ lẻ, là giải pháp tình thế tạm thời, mang tính chắp vá, sửa chữa. Sửa chữa được chỗ này lại hỏng chổ khác không bao giờ hết, nó giống như việc sửa đường, thì hỏng đường điện, sửa đường điện thì hỏng đường ống nước như đã và đang diễn ra từ bao nhiêu năm nay ở các thành phố trên phạm vi cả nước.
Đi lên CNXH là đi lên đói nghèo, đi xuống lạc hậu đã được nhân loại kiểm định bằng thực tế chứ không phải chỉ trong lý thuyết. Hệ thống các nước CNXH trên thế giới gồm 14 nước, hình thành và phát triển từ năm 1945, đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước đã đồng loạt đột ngôt tự sụp đổ, mà không do “lực lượng thù địch nào phá hoại” và cũng không phải “do thiên tai”. Không giàu thì không mạnh, nghèo thì hèn, nghèo hèn quá mức thì tự đổ là tất yếu. Nếu có sức mạnh thật sự nhờ “năng suất lao động hơn hẳn, của cải, vật chất tuôn ra dào dạt, người dân làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu…” như tuyên truyền, quảng cáo thì CNXH sẽ nhanh chóng chiến thắng CNTB trong “cuộc đấu tranh ai thắng ai giữa 2 con đường đi lên CNXH và TBCN”. Phe sụp đổ phải là phe CNTB giẫy chết mới đúng chứ? Thật là trớ trêu và nghịch lý!
Sau khi hệ thống CNXH sụp đổ, trên thế giới còn lại bốn nước vẫn kiên định với con đường đi lên CNXH là Trung Quốc, Bắc Hàn, Cu Ba và Việt Nam. Sau hơn 60 năm trung thành CNXH cả bốn nước này hiện nay ra sao?. Việt Nam vừa tự thú vẫn là nước nghèo, Cu Ba cũng vừa mới tự nhận đất nước đang trong tình trạng cấp cứu, Bắc Hàn cả đất nước như một trại tập trung, Trung Quốc tuy là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới nhưng dân số là 1,3 tỷ người chiếm gần một phần năm dân số thế giới. “Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, thu nhập đầu người (GDP per capita) của Trung Quốc trong năm 2010 là 4.382 USD, so với của Mỹ là 47.284 USD”. Để có được thu nhập bình quân tính theo đầu người như nước Mỹ hiện nay, theo một nhà báo nổi tiếng Lê Diễn Đức thì phải mất một vạn mùa quýt nữa. Bao giờ cho đến “Thiên đường”?.
Từ thực tế trên, một lần nữa cần khẳng định rằng: Đi lên CNXH là đi lên đói nghèo, đi xuống lạc hậu. Đưa đất nước đi lên CNXH là đưa đất nước đến Nghèo – Hèn – Tụt hậu. Không bao giờ đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Là một người dân bình thường như tôi cũng hiểu được thực tế hiển nhiên đó. Không lý gì mà các nhà tân trang, làm mới đường lối, các nhà cầm quyền điều hành đất nước và cả các học giả, các nhà nghiên cứu, tham mưu ở các vụ, viện, các nhà xưng tụng chuyên nghiệp v. v… cho đến hôm nay lại không biết? Biết nhưng vì Ngai vàng đầy quyền lực và bổng lộc, vì tham vọng ích kỷ bản thân và gia tộc, phe nhóm, chúng tìm mọi cách che đậy, bưng bít, ngụy biện để lừa bịp nhân dân. Họ thẳng tay đàn áp, bắt bớ, tống giam những người trung thực vô tội, chỉ vì dám nói lên sự thật bất lợi cho việc lừa bịp của họ, để tiếp tục giành quyền quyết định đường đi cho đất nước mà vốn là quyền của dân. Bắt nhân dân, bắt đất nước phải đi tiếp tục đi theo con đường dẫn đến bờ vực của nghèo – hèn mà họ muốn, để chúng được tiếp tục được ngồi trên Ngai vàng. Những việc làm của chúng là tội ác tày trời. Tội ác của chúng là “Tội ác cố tình chống lại nhân dân, làm lụn bại đất nước, chống lại văn minh”. Nhân dân, nhân loại, lịch sử sẽ không để cho họ làm mưa, làm gió lâu nữa, thực tế gần đây diễn ra trong nước và trên thế giới đã cho thấy điều đó
Vì sao lại phải kiên định đi lên CNXH? Theo suy nghĩ của tôi, khi vạch ra con đường cho cách mạng Việt Nam, Đảng và Cụ Hồ ở thời điểm đó cũng có thể hy vọng một tương lai tốt đẹp cho dân, cho nước. Không ai nghĩ sẽ có kết cục tồi tệ như ngày hôm nay. Nếu biết có kết cục như ngày hôm nay hoặc sống đến ngày hôm nay, tôi nghĩ Cụ và những đảng viên yêu nước chân chính tham gia lựa chọn đường đi cho đất nước thời đó, cũng sẽ kiên quyết vứt bỏ con đường đi lên đói nghèo đầy xương máu và nước mắt này. Ngày nay, thực tế đã khẳng định con đường đó là sai lầm rành rành, ngay cả tại cái nôi sinh ra CNXH thì CNXH cũng không còn nữa.Vậy mà, ở một nước theo đuôi cộng sản như nước ta, những người thuộc lớp hậu sinh ngày nay, họ không có đóng góp gì đáng kể cho đất nước, những kẻ đã cướp thành quả cách mạng, lợi dụng uy tín, danh dự của Cụ và các bậc tiền bối lại ra sức ngụy biện, lừa dân tung hô khẩu hiệu “Kiên trì, trung thành với con đường đi lên CNXH mà Đảng và Bác đã lựa chọn” mà lẽ ra trong bối cảnh hiện nay, khi đường lối cũ bộc lộ sai lầm nghiêm trọng, họ không có khả năng đề ra được đường lối mới phù hợp cho dân tộc thì họ phải trưng cầu dân ý. Đã có nhiều nhà cách mạng lão thành, những danh tướng lừng lẫy có công lớn với cách mạng với Đảng, nhiều nhân sĩ trí thức yêu nước chân chính muốn đóng góp ý kiến có lợi cho dân cho nước, lên tiếng can ngăn những việc làm hại dân, hại nước, nhưng họ phớt lờ. Bởi những lời góp ý vì dân, vì nước đó lại đi ngược lại với mục tiêu, quyền lợi cá nhân to lớn của họ.
Thực tế là thế, vậy mà bao nhiêu năm nay Đảng vẫn xơi xơi kể công với dân, với nước. Thiết nghĩ cũng nên làm sáng tỏ thêm công lao trời biển của Đảng trong mấy chục năm Đảng giành quyền làm người dẫn lối, đưa đường.
Gần 60 theo Đảng đi lên CNXH, người dân phải thắt lưng buộc bụng, phải hy sinh biết bao xương máu trong 2 cuộc kháng chiến “thần thánh”, để chỉ được tham gia những ngày ra trận vui như “trẩy hội”? để có được cuộc đời là cả “mùa xuân tươi tràn ánh sáng” như ngày hôm nay?. Nhờ có Đảng người dân mới được làm chủ, mà được làm chủ cả tập thể cơ đấy. Chỉ trong chế độ XHCH tốt đẹp này con người mới có được quyền làm chủ chưa từng có trong nhân loại là con được Đảng, chính quyền bảo vệ, bắt chỉ vào mặt cha đấu tố điêu theo “ý Đảng” trước dân làng. Nhờ có Đảng người dân nước ta mới có quyền tự hào với lý lịch 3 đời là bần cố nông, mà con cháu các nhà cầm quyền ngày nay như con cháu các ông Mạnh, ông Dũng, ông Trọng… làm sao mà dám mơ tới vinh hạnh này!. Con cháu các ông này may lắm thì kiếm được chút cơ hội phiêu bạt sang Pháp, sang Mỹ du học tự túc hoặc du học miễn phí là cùng. Chúng nó làm sao mà có được cơ hội học tập tử tế và được “Sống trên chính đất nước của mình”.
Sau này, chắc chắn chúng nó không thể “thấu hiểu từng niềm vui, nỗi buồn, từng thành công, khổ cực của con người” nên không thể “hiểu phần nào thực tại đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ” của đất nước. Chắc chắn không thể không có những sự “Ngộ nhận” đáng tiếc khi so sánh CNXH với CNTB. Sau cảnh báo của nhà báo nổi tiếng Qúy Thanh, chắc chắn sẽ có quan chức nếu thực sự trung thành với Đảng, phải tìm mọi cách đưa con, cháu của chúng về nước càng sớm càng tốt? Cũng nhờ có Đảng mới có ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam 30/4/75, người dân miền Nam mới được mới được thưởng thức những món đặc sản của chế độ CNXH mang lại là Bo bo và Rau muống hằng ngày mà trước giải phóng họ không mấy khi biết đến. Cũng nhờ được giải phóng mới có hàng triệu người dân miền Nam có cơ hội vượt biển, vượt biên bỏ của chạy lấy người, để đến ngày hôm nay họ mới có được vinh hạnh trở thành “Việt kiều yêu nước”. Được Đảng và chính phủ ra sức mời chào, tiếp đón như những ông hoàng khi và chỉ khi nhìn thấy túi tiền xủng xỉnh của họ. Các nước láng giềng xung quanh trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới không có Đảng nên làm gì có được những hạnh phúc nói trên, làm gì được vinh hạnh làm dân của một nước nghèo cho đến tận ngày hôm nay như con dân nước Việt.
Chưa hết, nói như giáo sư Ngô Bảo Châu khi trả lời phóng viên báo chí “Bám theo lề là việc làm của con cừu, không phải việc làm của con người tự do”. Đây là câu nói vô cùng thâm thúy và đầy bản lĩnh của một trí thức uyên bác đẳng cấp quốc tế. Nói như giáo sư, thử hỏi ở Việt Nam hiện nay có được bao nhiêu người, tỉ lệ bao nhiêu phần trăm người không bám theo lề?. Chưa có một điều tra về vấn đề này, nhưng qua thông báo kết quả của “Ngày hội non sông” mới đây, kết quả đi bầu cử, kết quả trúng cử con số lên đến trên 9.9…%, thành công tốt đẹp. Điều đó, cũng suy ra được tỉ lệ người bám theo lề và phải bám theo lề trên cả nước hiện nay không dưới 80%. Như vậy, phần lớn người dân của đất nước này đã thành cừu mất rồi còn gì? Đó không phải là công lao to lớn của Đảng hay sao? Sao chưa thấy Đảng kể công?. Thử hỏi trên thế giới đã có bầy cừu nào lại có được “văn hóa dương tính” “hừng hực niềm đam mê sáng tạo và khát vọng” mà hy vọng nhờ sự đổi mới giáo dục?.
“Những anh hùng làm nên niềm tự hào, làm nên sức mạnh dân tộc mình, như nước Nhật có Toyota, Sony, nước Hàn có Sam Sung, LG, Hoa Kỳ có Microsoft vv…” mà Vũ mơ ước, được sinh ra và được nuôi dưỡng từ những bầy cừu chắc? Nói thẳng ra, muốn có “văn hóa dương tính” ở nước ta hiện nay thì trước tiên Đảng phải cởi trói cho cừu, đưa cừu trở lại thành người trước, sau đó rồi mới dùng giáo dục làm động lực xây dựng một nền “văn hóa dương tính” thì mới đúng quy luật.
Để thấy rõ hơn vấn đề và cũng là để tạm kết thúc phần này, tôi xin nêu ra tình huống giả định: Nếu ngày ấy không có Đảng. Đất nước của chúng ta sẽ ra sao? Nếu không có ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam 30/4/75. Hai miền Nam – Bắc nước ta sẽ ra sao? Mỗi người trong chúng ta có quyền tưởng tượng và tìm ra câu trả lời cho mình. Xin cảm ơn Qúy vị đã giành thời gian đọc bài viết đầu tiên trong đời này của tôi.
Đi lên CNXH là đi xuống đói nghèo, lạc hậu
Trong phần đầu bài viết, bằng thực tế tôi đã chứng minh: “Đi lên CNXH là đi xuống đói nghèo, lạc hậu”. Vậy, tại sao “Đi lên CNXH là đi xuống đói nghèo, lạc hậu? Phần này chúng ta cùng tìm hiểu nguyên nhân.
Trước tiên, chúng ta cần nhận diện đúng, chính xác CNXH là gì? Bởi có nhận diện đúng, chính xác chúng ta mới có những phân tích, đánh giá, kết luận chính xác được.
Sinh ra và lớn lên trong lòng chế độ XHCN, được học tập, giáo dục khá đầy đủ các cấp học dưới mái trường XHCN, tôi nhận thấy có hai chế độ XHCN đó là: Một chế độ XHCN đã và đang tồn tại trong đời sống thực tế, tôi gọi là chế độ XHCN Thật mà sau đây tôi gọi là chế độ XHCN và một chế độ XHCN trong sách vở, trong văn bản nghị quyết, trên băng rôn, trong tuyên tuyên truyền, trong học thuyết Mác – Lê, chưa có, chưa xuất hiện và không bao giờ xuất hiện trên thực tế cuộc sống, tôi gọi là chế độ XHCN Ảo. Hai chế độ XHCN này hoàn toàn khác nhau về bản chất, về trình độ phát triển. Chế độ XHCN thực chất là một chế độ Phong kiến kiểu mới, là hình thái kinh tế chính trị mới do các nhà “Cộng sản giả danh sáng tạo” ra để thâu tóm quyền lực. Đó là chế độ chuyển tiếp không đáng có, không giống ai, giữa chế độ PHONG KIẾN và chế độ TƯ BẢN, mà nhiều người gọi là “Cái hình thái quái thai nhân tạo của xã hội loài người”. Theo cách nói của các nhà “Cộng sản” thì có thể nói: Đó là thời kỳ quá độ từ chế độ Phong kiến tiến lên Tư Bản Chủ Nghĩa. Còn chế độ XHCN Ảo là một chế độ trong tư duy, trên lý luận, là thời kỳ quá độ từ chế độ Tư bảnlên chế độ Cộng Sản (mà chế độ Cộng Sản cũng là chế độ Ảo nốt).
Bản chất phong kiến của chế độ XHCN thể hiện ở các điểm sau:
Nếu trong chế độ phong kiến, Vua tuyên bố với con dân: Đất nước là của Trời, Trời “trao” cho Thiên tử – Con Trời là Vua thay Trời toàn quyền cai quản, cai trị thì trong chế độ XHCN, Đảng khẳng định: “Đảng ta là Đảng cầm quyền duy nhất” nghĩa là đất nước, chính quyền là của Đảng. Đảng và lãnh tụ của Đảng cũng được thần thánh hóa, huyền thoại hóa giống như Trời. Đảng giao cho con của Đảng là Tổng bí thư như ở Bắc Hàn, Cu Ba hoặc giao cho một nhóm con của Đảng là Bộ chính trị như ở Trung Cộng, Việt Nam ngồi trên hiến pháp, pháp luật, toàn quyền điều hành, cai trị đất nước.
Theo lập luận của Đảng, chính quyền, đất nước là của Đảng vì: Chính quyền này có được là do Đảng “Tài tình” mới tổ chức dân đi cướp được. Sau khi cướp được chính quyền, Đảng tiếp tục tổ chức chỉ đạo dân tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, quốc hữu hóa đất đai, cướp ruộng đất, đồn điền, hầm mỏ, tài nguyên…cướp tài sản, nhà máy, công xưởng… cướp tất, cướp trọn vẹn đất nước. Người dân nghe theo lời Đảng, sau khi cướp được toàn bộ đất nước cho Đảng, dân không còn đất sống, phải sống trên đất của Đảng, cũng giống như muông thú, động thực vật trên đất của Đảng, dân nghiễm nhiên trở thành là tài sản thuộc sở hữu của Đảng.
Như vậy, ban đầu dân là những chủ thể được Đảng sai đi cướp với lời hứa sẽ được làm chủ đất nước, làm chủ bản thân, được sống trong “Thiên đàng”… Cuối cùng, khi không còn gì để cướp, đến lượt mình, dân tự biến thành tài sản sở hữu của Đảng một cách hiển nhiên mà Đảng không cần cướp!. Bởi vậy, Đảng cho dân được sống thế nào là quyền của Đảng. Mọi con dân sống trên đất của Đảng phải luôn luôn ghi nhớ: “Đời đời biết ơn Đảng” phải “Sống, học tập, làm theo ý Đảng”, muốn làm gì phải làm đơn xin phép Nhà nước của Đảng theo cơ chế “Xin – Cho”.
Dân nghe theo lời Đảng, đi cướp chính quyền về cho Đảng, để Đảng leo lên ngồi lên “Ngai vàng”. Còn con dân, thoát được kiếp nô lệ của chế độ phong kiến cũ lại tự chui vào tròng nô lệ mới của chế độ phong kiến mới của Đảng. Đó là sự sang tên đổi chủ, thân phận nô lệ vẫn là nô lệ chẳng hơn gì. Vậy mà, con dân phải: “Đời đời biết ơn Đảng”!. Thật trớ trêu và cay đắng, một quả lừa ngoạn mục. Đảng ta quá tài tình, Đảng ta quá vĩ đại!
Sống trên đất của Đảng, con dân phải đóng thuế cho Đảng thông qua Nhà nước của Đảng,tiền thuế thu được là của Đảng. Đảng muốn dùng làm gì, cho ai là quyền của Đảng, con dân không được phép biết. Quốc hội, Nhà nước, các tổ chức chính trị, nghề nghiệp, xã hội…đều do một tay Đảng lập theo phương thức: “Đảng cử – dân bầu” theo ý Đảng, dân không cần nghĩ ngợi. Bầu bán xong, Đảng nắm lấy hết, bỏ tiền của Đảng ra nuôi tất, đương nhiên Đảng các tổ chức phải làm việc cho Đảng, phải tuyệt đối trung thành làm theo ý Đảng. Hoàn tòan không phải như một số người có mang tư tưởng “Dân chủ theo kiểu phương Tây” đem áp đặt cho chế độ XHCN, quan niệm rằng: Tiền thuế là của dân, dân đóng thuế nuôi Quốc hội, Nhà nước của dân nên Quốc hội, Nhà nước phải bảo vệ dân như ở trong chế độ Tư bản “Giẫy chết”. Xin đừng nhầm lẫn chết người như vậy mà nói sai, nói lẫn lộn, nói linh tinh, Đảng cho đi tù như chơi. Ai làm sai, nói sai ý Đảng sẽ bị xử lý kỷ luật. Nếu nói, suy nghĩ sai khác với ý Đảng, sẽ có bản án của Bộ chính trị ban xuống, giao cho quan tòa đọc cho nghe trước tòa án rồi đem tống giam, không cần tranh biện, không cần đến luật pháp luật, công lý, quốc thể, quốc tế gì hết, hoàn tòan giống như “Chiếu” Vua ban trong chế độ phong kiến.
Cả đất nước trong chế độ XHCN là một nông trại, công xưởng, một trại tập trung lớn của Đảng. Mọi con dân bị tước đoạt quyền làm chủ bản thân, quyền làm chủ đất đai, họ được tiếp tục sống kiếp nô lệ mới trong “THIÊN ĐÀNG ” của Đảng. Muốn có làm việc, muốn làm gì, muốn xin chính quyền xác nhận một giấy tờ gì con dân phải làm đơn xin xỏ, nhờ cậy, chạy chọt, hối lộ mới được. Trong chế độ XHCN, muốn sống mọi người tìm cách ngoi lên bằng cách phục tùng, lấy lòng và tìm cách ca ngợi Đảng. Điển hình là một trí thức lớn XHCN, cha là học giả nổi tiếng, bị Đảng cố tình vu oan, giết hại mà vẫn hết lòng ca ngợi Đảng với những lời ca để đời, vắt ra từ con tim, khối óc: “Đảng đã cho ta sáng mắt, sáng lòng” “Đảng đã cho ta một mùa xuân …ngập tràn ánh sáng…”… . Không biết ở dưới suối vàng, người cha có nghe thấy những lời ca này không?. Nếu nghe được chắc ông phải thám phục cách dạy dỗ “Tài tình” của Đảng và “Đời đời biết ơn Đảng” lắm. Vì nếu không có Đảng là nguồn cảm hứng vô tận, nếu không có “Ánh sáng ngập tràn của Đảng” soi sáng tâm hồn, khối óc cho con ông thì con ông không thể nào trở thành một “Thiên tài sáng tác tụng ca” xuất sắc đến vậy. Bên cạnh niềm vui to lớn, tôi nghĩ chắc ông cũng có một nỗi lo lớn là: Nếu Triều đại Cộng sản sụp đổ, những “Tác phẩm đỉnh cao” của con ông hôm nay sẽ biến ngay thành “Rác phẩm”. Những “Rác phẩm” mà con ông đã sáng tạo trong cả cuộc đời là để hóa thánh cho Đảng, ca ngợi sự lừa dối, tiếp tay cho việc đưa dân tộc đến bờ vực của đau thương, mất mát, nghèo nàn lạc hậu và nguy cơ mất nước vào tay “Anh bạn vàng” Trung Cộng như hôm nay, hiển nhiên phải bỏ vào sọt rác. Sự nghiệp của những kẻ “Trí nô” là thế, chắc ông là người hiểu hơn ai hết.
Chế độ XHCN là đất sống dành riêng cho cho những kẻ ngu dốt, hợm hĩnh, xu nịnh, gian giảo, nhiều âm mưu, lắm thủ đoạn. Kẻ thù của Đảng, của CNXH cũng là kẻ thù của bọn xu nịnh, bất tài, gian manh, độc tài tham nhũng là: VĂN MINH – TỰ DO – DÂN CHỦ. Chính vì vậy, ngay từ khi cướp được chính quyền, Đảng đã phát động “Cải cách ruộng đất”, “Cải tạo tư sản” với chủ trương được quán triệt: “Trí – Phú – Địa – Hào đào tận gốc, trốc tận rễ”, trong đó Trí thức là đối tượng, là kẻ thù số một phải tận diệt “Đào tận gốc, trốc tận rễ” theo kiểu “Tru di tam tộc” trong chế độ phong kiến đối với trọng tội phản bội Triều đình. Bởi trí thức là tầng lớp ưu tú trong xã hội, họ hiểu biết, có nhân cách, có chính kiến, hướng thiện là đối tượng nguy hiểm số một có thể làm bại lộ, gây ra nguy cơ cho việc thực hiện mưu đồ đen tối, lừa dân của Đảng. Tiếp theo là vụ Văn nhân Giai phẩm, một cuộc “Cải cách ruộng đất trên lĩnh vực Văn hóa – Tư tưởng”, đánh trực diện vào Trí thức tiêu biểu khi họ đòi hỏi quyền lợi chính đáng là quyền tự do ngôn luận. Việc làm của Đảng vừa để tiêu diệt, vừa để răn đe đội ngũ trí thức. Hàng loạt nhà trí thức hàng đầu CÓ CÔNG – CÓ TÂM – CÓ TẦM như: Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Dương Đức Hiền, Từ Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trương Tửu, Phùng Quán…đều bị vu oan, đưa ra cho lũ vô liêm sĩ đấu tố, hãm hại… rồi đem tống giam không cần xét xử. Tầng lớp trí thức còn lại bị chặn cổ họng, nắm lấy dạ dày bằng chính sách tem phiếu giao cho các nhân viên thương nghiệp, lương thực vô văn hóa ban phát cho mỗi tháng được từ 2 đến 5 lạng thịt nếu được Đảng cho phép ở trong biên chế. Đảng sẵn sàng chụp mũ tầng lớp trí thức tội phản động, tư tưởng tiểu tư sản, khủng bố tinh thần, đe dọa đến mạng sống, sinh mạng chính trị của họ bằng luật rừng, rồi “Trói” họ lại, biến thành họ thành công cụ của Đảng, bắt họ phải làm theo nhiệm vụ là: Sáng tác khẩu hiệu tung hô, ngợi ca, hóa thánh cho đảng
Nhiều trí thức lớn người Việt ở trong và ngoài nước, theo tiếng gọi của Đảng đi theo cách mạng từ những đầu khó khăn, khi cách mạng thành công, họ lần lượt bị thanh trừng, bị vu oan hãm hại, bị vô hiệu hóa phải tìm đường thoát thân nếu không thì cũng bị “Trói chặt” hoặc bị gạt ra ngoài lề xã hội. Đại tướng Võ Nguyên Giáp một danh tướng trí thức, người làm nên một “Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, một Đại thần của chế độ XHCN, tuyệt đối trung thành với Đảng. Vậy mà, sau khi hoàn thành nhiệm vụ giành được trọn vẹn đất nước, Đảng đã gạt ra rìa và làm nhục bằng cách bố trí Đại tướng sang làm công tác SINH ĐẺ CÓ KẾ HOẠCH. Một việc làm mà theo cách nói của giáo sư Ngô Bảo Châu có thể nói: “Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, chắc cũng khó mà có việc làm nào hơn việc làm này”.
Những năm gần đây, tiếp tục kiên trì với con đường đã chọn, hàng loạt trí thức thực sự, có tâm có tầm, được đào tạo bài bản, họ là “Nguyên khí quốc gia” đã bị Đảng sách nhiễu bôi nhọ, vu oan, chà đạp, rồi tống giam không thương tiếc như: Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung… và gần đây là Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ với vụ án nổi tiếng “Hai bao cao su đã qua sử dụng” làm chấn động địa cầu. Sắp tới đây có lẽ đến lượt các trí thức lớn thực sự như: Nhà văn Nguyên Ngọc, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Giáo sư Huệ Chi, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, Giáo sư Ngô Đức Thọ…Tất cả các trí thức trên chỉ có mỗi tội duy nhất là: Yêu nước - Dám nói sự thật.
Song song với việc tiệt diệt Trí thức chân chính, Đảng gấp rút mở các trường lớp bổ túc văn hóa, các lớp chuyên tu, tuyển chọn những thành phần “Vừa hồng, vừa chuyên” tuyệt đối nghe theo Đảng, không biết đến phải trái là gì. Gấp rút đào tạo họ mà thực chất là hợp thức hóa để trao cho họ một bằng cấp, một học vị, học hàm… Những bằng cấp, học vị, học hàm của Đảng trao vừa là phần thưởng về sự trung thành, về thành tích cống hiến cho Đảng, vừa là công cụ mà Đảng cần giao cho họ để họ trở thành “Hồng vệ binh” đắc lực bảo vệ Đảng. Trong thời gian ngắn Đảng đã xây dựng được một đội quân Trí thức XHCN hùng hậu, giáo sư, tiến sĩ nhan nhãn, bằng cấp giáo sư, tiến sĩ đủ kiểu búa xua. Đội ngũ trí thức XHXCN phần lớn là Trí nô làm theo ý Đảng, tầng lớp“Bán miệng nuôi …thân”. Nguyễn Khải, đệ nhất văn chương của nền văn học XHCN, người được vinh danh với giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, cuối đời đã viết trong hồi ký “Đi tìm cái tôi đã mất” đã cay đắng thú nhận cuộc đời “Trí nô”, tôi tớ của mình đã tự nhận ra sự nghiệp văn chương mà ông để lại là “Mớ tạp nham”. Đúng là RÁC PHẨM.
Chế độ XHCN là một chế độ đầy rẫy bất công và nghịch lý. Người đứng đầu, đại diện cho giai cấp vô sản khi đã nắm được mọi quyền lực và tài sản của quốc gia, của một cơ quan, công ty, xí nghiệp… thì tự coi là của mình, chúng đưa thân con cháu họ hàng, thân quen vào những vị trí then chốt, tìm mọi cách kéo bè kéo cánh. Khi sắp về hưu tìm cách bán lại chức quyền cho người trả giá cao nhất nếu không có người nối nghiệp. Chúng có còn những người vô sản nữa không? Chúng sẽ bảo vệ quyền lợi cho ai, cho băng nhóm, bè cánh của chúng hay cho dân? Chúng nói với dân rằng: Chúng là đầy tớ, là công bộc của dân. Trên thế giới từ cổ chí kim chưa hề có loại đầy tớ như trong chế độ XHCH là: Đầy tớ lại đứng trên đầu chủ, bóc lột chủ, tước hết mọi tài sản của chủ, tước đoạt quyền làm người của chủ. Đầy tớ nói: Nhà nước này là của dân, do dân, vì dân, dân biết, dân bàn, dân kiểm tra…nhưng trên thực tế thì dân muốn làm gì cũng phải viết đơn xin đầy tớ, phải “Đời đời biết ơn đầy tớ”. Thật là mỉa mai!. Đầy tớ còn luôn rao giảng: “Đấu tranh giữa các mặt đối lập là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội”. Vậy mà, trong thực tế thì đầy tớ tìm mọi phương cách duy trì sự độc quyền cho đầy tớ trong mọi lĩnh vực, tiêu diệt đấu tranh, cạnh tranh, chống đa nguyên, đa đảng. Nhưng có lẽ nghịch lý nhất, bất công nhất trong XHCN là những kẻ vô văn hóa, ngu dốt, phá hoại, lừa lọc lại là những kẻ dạy và bóc lột người tài, người giỏi. Những kẻ bất tài, ngu dốt, phá hoại như cha con Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng… mà ngày nào cũng lên ti vi rao giảng, chỉ đạo đất nước!!!.
Cả chế độ XHCN vận hành theo cơ chế lừa dối, mọi người thi nhau lừa dối, nói dối. Báo cáo láo, thành tích dổm, sáng kiến kinh nghiệm dổm, đề tài khoa học đểu tuôn ra dào dạt, năm sau nhiều hơn năm trước. Họp hành, hội thảo, hội nghị…triền miên, là diễn đàn để các “Thùng rỗng” thi nhau phét lác. Ai phét lác giỏi, ai báo cáo láo hay, ai “Kêu to” sẽ được được thăng tiến, có thêm chức, thêm quyền. Khi có thêm chức thêm quyền lại ăn cướp, vơ vét được nhiều tiền bạc, đất đai, tài nguyên nhiều lại trở thành kẻ thành đạt được xã hội vinh danh. Một xã hội tôn vinh những kẻ ăn cướp, lừa lọc, bọn ăn cướp, để chúng ngồi trên đỉnh cao quyền lực, đứng lên diễn đàn rao giảng đạo lý, đạo đức, lòng nhân ái, lòng yêu nước thương dân… là một xã hội đảo lộn, đốn mạt, không dừng lại ở nghịch lý nữa.
Những kẻ nắm quyền lực tối cao trong XHCN là ai? Là những kẻ thiến heo, hoạn lợn, công nhân trồng rừng, chích thuốc vớ vẩn, những kẻ to mồm, lẻo mép trong các phong trào Đoàn, phong trào quần chúng… Chúng điều hành cả một đất nước theo ý chỉ độc đoán của chúng, bất chấp quy luật, bất chấp đạo lý, đi ngược với văn minh, hủy diệt nguồn lực, hủy diệt động lực phát triển xã hội, hủy diệt “Nguyên khí quốc gia”, xã hội đầy rẫy bất công, đầy rẫy nghịch lý. Bởi vậy, đi lên CNXH là đi xuống đói nghèo, lạc hậu là tất yếu.
Hơn 66 năm, từ ngày Đảng cướp được chính quyền, Đảng đã bắt cả dân tộc phải đi theo con đường mà Đảng đã lựa chọn một cách quyết liệt, mà thực chất là đi theo sự dẫn dắt của quan thầy cộng sản: Nga – Tàu. Với sự lựa chọn của Đảng đã biến nước ta thành chiến trường, nơi diễn ra cuộc đụng đầu thảm khốc nhất trong lịch sử giữa 2 phe CNXH và CNTB. Tự hào về điều đó, Đảng kheo khoang với các nước cùng hoàn cảnh trên thế giới không có được niềm tự hào lớn như Việt Nam là: “Một dân tộc nhỏ mà đánh thắng hai đế quốc to”. Đi theo con đường Đảng chọn, Đảng đã đưa đất nước, nhân dân ta phải trải qua những hy sinh vô cùng to lớn về người, về của. Sau chiến tranh đất nước đắm chìm trong sự trả thù, hận thù dân tộc, những cuộc bắt bớ, xua đuổi, cướp bóc, tàn phá, làm cho hàng triệu gia đình ly tán, dân chúng sóng trong nghèo đói, lạc hậu. Trách nhiệm này thuộc về Đảng cộng sản, đứng đầu là những tên cộng sản cầm đầu đã: Ôm chân Trung Cộng, rước Trung cộng về làm quân sư, làm mặt rô uy hiếp giầy xéo nhân dân, cướp đất cha ông để lại.
Chế độ XHCN Ảo là gì? Tại sao lại phải có chế độ XHCN Ảo?
Để che đậy bản chất phong kiến độc tài của chế độ XHCN Thật, những tên bạo chúa đàn anh như Lênin, Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành và những tên bạo chúa đàn em ở các nước XHCN đã giả danh “Cộng Sản”, đã lấy mô hình của phương thức sản xuất Cộng Sản, một phương thức sản xuất có trình độ phát triển cao hơn, ưu việt hơn phương thức sản xuất TƯ BẢN trong học thuyết của Các Mác, do Mác tưởng tượng ra, rồi thêm bớt, nhào nặn, tô vẽ làm nên tấm phông màn đem trùm lên chế độ XHCN Thật để lừa bịp dân, lừa bịp nhân loại. Trên thực tế chúng ra sức xây dựng chế độ phong kiến kiểu mới bằng mọi giá, nhưng khi tuyên truyền, quảng cáo chúng trưng ra XHCN ẢO để khoe khoang, bịp bợm, lấp liếm. Vì vậy, người ta đã đúc kết rằng: “Cộng sản nói một đằng làm một nẻo” hoặc nói như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: “ Đừng tin những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”. Nói một cách nôm na, dân dã thì chế độ XHCN là chế độ: “Treo đầu dê – Bán thịt chó”.
Như vậy, những kẻ tự xưng là Cộng sản thực chất là những tên Bạo chúa độc tài, khát máu, khát quyền lực, chúng là những tên Cộng Sản giả danh, chúng đã dùng học thuyết của Mác làm bình phong cho việc xây dựng chế độ phong kiến độc tài, để chúng ngồi lên Ngai vàng nắm quyền cai trị đất nước, cùng nhau ăn cướp chia phần. Nhà nước mà chúng dựng lên là nhà nước của những tên bạo chúa và đám lưu manh, cùng hội cùng thuyền. Với bản chất lưu manh, hung hãn lọc lừa, với đầu óc độc tài ngông cuồng, ích kỷ, với bản năng cầm thú, với chủ thuyết “Bạo lực – Chuyên chính vô sản – Súng đạn đẻ ra chính quyền – Đào tận gốc trốc tạn rễ kết hợp với sự xảo trá”, những tên thủ lĩnh cộng sản giả danh trên thế giới từ trước đến nay chưa bao giờ có ý định và cũng không bao giờ có khả năng để xây dựng được một chế độ Cộng sản như trong học thuyết của Các Mác. Học thuyết khoa học của Mác đã bị những tên bạo chúa và đám lưu manh ăn cắp, cắt xén, tô vẽ lợi dụng. Chính Mác cũng là người vô tình phải mang tiếng oan với nhân loại vì bị bọnCộng sản giả danh nói: Làm theo học thuyết của Mác, đã dẫn nhân loại đến thảm họa đau thương, mất mát trong mấy chục năm qua.
Theo quy luật phát triển, chế độ phong kiến cũ, phong kiến mới, chế độ độc tài đều là những chế độ đầy rẫy bất công, đầy rẫy nghịch lý, thua xa chế độ Tư Bản về năng suất lao động, về lực lượng sản xuất, về tính ưu việt của quan hệ sản xuất, về quyền con người… chắc chắn phải tự sụp đổ như các nước Đông Âu, hoặc sẽ bị nhân dân và nhân loại tiến bộ trên thế giới lật đổ như ở các nước Trung Đông, Bắc Phi gần đây. Các nước Cộng sản giả danh còn lại như Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn, Cu Ba cũng không ngoài quy luật tất yếu đó.
Mục tiêu chung mang tính phổ quát của nhân loại trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay là: “Nhân Quyền – Dân chủ - Văn Minh”. Mục tiêu chung đó không còn là vấn đề riêng của một quốc gia độc lập nào. Ngày nay, ai cũng hiểu ngay cả con đẻ, bố mẹ cũng không có quyền áp đặt, đối xử thô bạo. Vậy mà bọn cai trị ở các nước cộng sản tự coi đất nước là của chúng, của Đảng của chúng, con dân là tài sản của chúng. Chúng tự cho chúng có quyền định đoạt, ban phát cuộc sống cho dân, muốn hành xử với dân kiểu nào cũng được, bất chấp đạo lý, bất chấp pháp luật do chúng đề ra, bất chấp luật pháp Quốc tế mà chúng hăng hái ký kết, cam kết. Ta vẫn thường nghe chúng tuyên bố không ai có quyền “Can thiệp vào công việc nội bộ” độc tài, độc đoán trong đất nước của chúng cướp được. Những kẻ to mồm luôn lu loa: “Không được can thiệp vào công việc nội bộ” là những kẻ độc tài, phát ngôn của Bộ ngoại giao ước nào cũng lu loa như thế là một chế độ độc tài. Chế độ độc tài tất yếu sẽ bị tiêu diệt khỏi đời sống nhân loại.
Vũ Ái QuốcTác giả gởi bài đến Thông Luận
Phụ Lục:
Đặng Lê Nguyên Vũ – Kẻ “vĩ cuồng” (Lưu Trọng Văn)
Vũ luôn từ chối các cuộc vui chơi, thậm chí hầu như không bao giờ đi du lịch, vì Vũ luôn than quỹ thời gian ít quá. Vậy mà lần ấy Vũ rủ tôi lên Sapa. Dọc đường thấy cảnh dân chúng còn nghèo nàn, Vũ ứa nước mắt, nói: “Đất đai trù phú vậy, sao lại nghèo? Phải quy hoạch lại, phải có tầm nhìn khác đi, phải đưa công nghệ mới vào thì mới giầu được”. Lên Sapa, rảo mấy vòng, len lỏi vào mấy ngõ ngách, tới cả một số bản người H’mông, 3 giờ sáng hôm sau Vũ dựng tôi dậy chỉ để nhìn đỉnh Fanxipan, rồi kéo tôi lên xe về lại Hà Nội. Sau này tôi mới biết ý định của Vũ lên Sapa, chẳng qua chỉ để xem vị trí của người dân tộc ở Sapa thế nào. Vũ nói: “Họ như kẻ ngoài rìa ở khu du lịch này. Sau này xây dựng “Thiên đường cà phê” em muốn đồng bào dân tộc với không gian văn hóa đặc sắc của họ phải là chủ thể, vì họ chính là hồn, là vía của vùng đất đó”. Tôi hỏi: “Thế Vũ ngắm đỉnh Fanxipan làm gì?”. Vũ nói: “Em muốn nhìn thấy đỉnh cao nhất của đất nước khi mặt trời chưa mọc để cảm nhận hết cái khát vọng vươn lên của đất nước mình”.
Cuộc gặp mặt của một số nhân vật có tên tuổi trong làng kinh doanh với một số người đẹp đang rất “hào hứng”, Đặng Lê Nguyên Vũ xuất hiện. Không chấp nhận những câu chuyện phiếm chỉ để giết thời gian, Vũ “cướp” diễn đàn, say sưa nói về lựa chọn nào cho kinh tế VN phát triển bền vững, về thế mạnh cạnh tranh của VN là gì, về khát vọng đem thương hiệu VN chinh phục thế giời, toàn là những vấn đề vĩ mô cả. Một số “đại gia” đánh bài chuồn, nhưng điều lạ lùng là chính các người đẹp lại tỏ ra thích thú lắng nghe. Một người đẹp thú nhận, chưa bao giờ được nghe những điều như thế, em quá chán ngồi tán dóc về những chuyện ăn gì, mua sắm gì, mua xe gì rồi tự hào vỗ ngực ta là đẳng cấp, ta là nhất rồi. Vũ tranh thủ khuyên các người đẹp, cố lôi cổ các bác “đại gia” kia thoát khỏi cái “giấc mơ con đè nàt cuộc đời con” của mình đi.
Ở bất cứ đâu Đặng Lê Nguyên Vũ có mặt, Vũ đều tranh thủ tận dụng mọi cơ hội để lôi kéo mọi người vào những điều mà mình đau đáu, khát vọng như thế.
Đêm của Vũ rất ngắn, hai, ba giờ sáng Vũ tỉnh dậy điện thoại cho bạn bè của mình chia sẻ những ý tưởng mới, những dự án mới, những điều trăn trở về những nguy cơ đang đe dọa nền kinh tế nước nhà kéo theo sự bấp bênh của đời sống nhân dân. Có lần cùng đoàn doanh nhân tháp tùng thủ tướng đi thăm Trung Quốc, cả đêm Vũ không ngủ được vì thấy nước người ta phát triển nhanh quá trong khi đó nước mình cứ ì ạch. Sáng ra gặp nhiều thành viên trong đoàn, Vũ hỏi: “Đêm qua các anh ngủ ngon không?”. Mọi người bảo: “Ngủ ngon lắm”. Vũ đau đớn: Là giới tinh hoa của nước nhà tại sao họ có thể ngủ ngon được chứ?
Bất cứ lúc nào rảnh Vũ chui vào thư viện của mình đọc sách, nghiên cứu tìm hiểu những điều gì làm cho các quốc gia khác phát triển hùng mạnh. Vũ đi tìm hiểu ở nhiều quốc gia tiên tiến xem dân khí của họ ra sao. Vũ đúc kết được rằng, không phải do dân đông, giàu tài nguyên, đất đai rộng lớn, lịch sử lâu dài, mà do các quốc gia ấy có khát vọng vươn lên. Vũ soi rọi lịch sử và hiện tại nước nhà để tìm cho ra, điều gì là cái neo kìm hãm dân tộc. Vũ chính là doanh nhân đầu tiên của VN nhận thức và gọi ra cái tên của cái neo ấy, đó là nền “văn hóa âm tính”. Chính nền “văn hóa âm tính” làm người VN dễ dàng bằng lòng với mình, dễ dàng an phận, dễ dàng chấp nhận số phận, tự ru mình trong những khuôn khổ đạo đức nhỏ, đã là sức ì cơ bản nhất làm đất nước chậm tiến. Chỉ mau chóng cải sửa nền “văn hóa âm tính” ấy, chuyển qua nền “văn hóa dương tính” hừng hực niềm đam mê sáng tạo và khát vọng thì đất nước mới phát triển hùng mạnh được. Hiểu điều ấy, Vũ lên cả một kế hoạch hành động, bắt đầu từ việc khởi xướng diễn đàn “Việt Nam nhỏ hay không nhỏ” trên báo Thanh Niên, đến hàng chục cuộc đăng đàn diễn thuyết với lớp trẻ, sinh viên về khát vọng lớn. Bằng tất cả nhiệt huyết, nguồn lực kinh tế của mình, Vũ hăng hái lao vào cuộc cổ vũ quyết liệt cho tinh thần sáng tạo. Hơn ai hết Vũ coi sáng tạo và khát vọng là động lực chính cho đất nước cất cánh. Vũ vận động truyền thông, vận động các học giả, trí thức cổ vũ cho cuộc đổi mới trong giáo dục, lấy “giáo dục động lực” làm chủ thể.
Nhà điêu khắc Lê Liên ở Hà Nội không hề ngạc nhiên khi Vũ nhờ ông làm 30 bức tượng các vĩ nhân trên thế giới ở mọi thời đại từ chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học, văn hóa, tôn giáo. Ông bảo: “Anh biết khát vọng cháy bỏng của chú mày cho đất nước mình rồi, chú mày muốn có tượng các vĩ nhân không để trưng, để ngắm, để làm cảnh đâu mà để hàng ngày đối chất chứ gì?”. Vũ gật đầu. Một trí thức ở ẩn khi biết Vũ thường xuyên làm cái việc đối chất với các vĩ nhân đã nói: “Kẻ luôn đối chất với mình chỉ là kẻ trên tầm thường một chút, còn kẻ dám đối chất với các vĩ nhân là kẻ không tầm thường, là kẻ “vĩ cuồng”, nhưng đất nước đang rất cần những kẻ vĩ cuồng, những kẻ không tầm thường như thế!”. Ông nói thêm: “Tôi hèn, đến đối chất với chính mình mà tôi còn sợ, nhưng tôi biết nếu một dân tộc không có những con người dám đối chất với các vĩ nhân mà cả thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh, thì chẳng bao giờ dám vượt lên chính mình được, chẳng bao giờ có thể hùng mạnh được”. Vũ tâm sự: “Tôi so tôi với các bậc vĩ nhân để tôi luôn biết mình đang ở đâu, đang còn quá nhỏ bé để không bao giờ cho phép mình tự bằng lòng với mình. Tôi đối diện với các vĩ nhân để tôi luôn hỏi “Trước một sự việc, một sự biến khó khăn của đất nước, của nhân loại, tại sao các ngài giải quyết được?”. Tôi đối diện với các vĩ nhân, chăm chăm nhìn ngắm họ, tôi tự hỏi, cởi áo quần ra họ cũng giống tôi thôi, tại sao tôi cứ phải có mặc cảm thua kém họ ?”.
Đặng Lê Nguyên Vũ “Vĩ cuồng” ư? Đúng! Nhưng chỉ “vĩ cuồng” cái khát vọng làm sao đất nước Việt trở nên vĩ đại. Háo danh ư? Đúng, nhưng không hề háo danh cho mình mà lúc nào cũng hừng hực háo danh cho dân tộc, cho quốc gia.
Cuộc đời lăn lộn làm dân của tôi, tôi luôn đau đáu tìm kiếm những con người để tôi đặt niềm tin, để tôi hy vọng cho Tổ quốc. Cái Tổ quốc mà cha tôi yêu và viết câu thơ để đời:
Đi giữa vườn nhân dạ ngẩn ngơ
Vì thương người lắm mới say thơ
Vì thương người lắm mới say thơ
Và nói câu để đời “Ta thà bị lừa còn hơn không tin vào con người”. Cái Tổ quốc mà em trai tôi yêu và giữa tuổi 20 , tuổi đẹp nhất một đời người đã hiến dâng máu mình cho nó. Cái Tổ quốc mà tôi yêu với tất cả trái tim dù là trái tim xơ xác vì có quá nhiều những vết xước thời cuộc. Trong hành trình tìm kiếm đó tôi đã sung sướng tìm ra một con người trong số những con người tôi luôn tin là còn đang lẩn khuất đâu đó nữa, đó là Đặng Lê Nguyên Vũ. Tôi không hề ngượng miệng, không hề sượng ngòi bút khi đưa ra sự thật này. Dù ai đó hoài nghi theo cái lẽ thông thường, rằng: “Chắc là gã Văn này được thằng Vũ ấy cho nhiều lắm đây”. Đúng, Vũ đã cho tôi rất nhiều, trong đó có cái quý giá nhất đó là niềm tin cháy bỏng rằng, nếu chúng ta dám ước mơ lớn, dám khát vọng lớn đưa dân tộc chúng ta lên đỉnh vinh quang của nhân loại, chúng ta có ý chí mãnh liệt thì chúng ta sẽ biết cách thực hiện được nó. Và hơn hết Vũ đã cho tôi thấy những việc Vũ đã làm với tư cách một kẻ “vĩ cuồng” nhất ở thời điểm này của đất nước này để tôi thêm vững niềm tin vào thế hệ trẻ của đất nước.
1. Đương đầu với Tập đoàn đa quốc gia khổng lồ hàng đầu thế giới về cà phê, buộc Tập đoàn ấy phải lùi bước chia lại thị phần cà phê của VN cho doanh nghiệp VN.
2. Quảng bá, cổ vũ hết mình cho Thương hiệu Việt, cho Thương hiệu Nông sản Việt, từng bước đưa thương hiệu Cà phê Trung Nguyên thuần Việt ra với thị trường cà phê thế giới.
3. Cổ vũ cho lớp trẻ Tinh thần khởi nghiệp mới, gắn với khát vọng cho một nước Việt vĩ đại, hùng cường.
4. Có ý tưởng táo bạo chưa từng có, đó là xây dựng thành phố Buôn Ma Thuột thành “Thủ phủ cà phê Toàn cầu” và xây dựng “Thiên đường cà phê Toàn cầu” – một Thiên đường cà phê duy nhất trên thế giới ở Đắk Lắk.
5. Mua lại cả một bảo tàng cà phê thế giới với hơn 15.000 hiện vật quý giá của Đức để làm tài sản văn hóa cho VN, từ đó xây dựng Bảo tàng Cà phê thế giới độc đáo nhất ở VN.
6. Xây dựng cả một học thuyết mới có tên là “Học thuyết cà phê” mà nội dung cốt lõi của nó là sự sáng tạo và liên kết sức mạnh nhân văn toàn cầu, vận động các trường đại học trên thế giới ủng hộ nó và cùng biến nó thành giáo trình cho sự thành công của bất cứ ai trong thời đại khủng hoảng toàn cầu hiện nay.
7. Đầu tư mọi nguồn lực để kêu gọi, tập hợp các chuyên gia kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học của VN cũng như thế giới, trong đó có cả các chiến lược gia kinh tế hàng đầu thế giới như Tom Cannon, Peter Tinmer để xây dựng kịch bản cho con đường phát triển bền vững cho VN, cũng như kịch bản cho ngành cà phê thế giới.
8. Bay qua Brazil – đất nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giời, vận động các nhà kinh doanh cà phê Brazil rồi gặp gỡ các nghị sĩ, các chính khách Brazil, các nhà hoạt động kinh tế Inđonexia thuyết phục họ cùng liên kết với VN – đất nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới, để tạo sức mạnh đòi lại sự công bằng cho hàng chục triệu người dân trồng cà phê.
9. Đem hết sức mình, kiên trì vận động các chính khách, các nhà kỹ nghệ Israel để giúp VN công nghệ tưới tiêu bảo vệ nguồn nước cho Tây Nguyên. Liên kết với các Tập đoàn của Na- Uy để hỗ trợ kỹ thuật phân bón hữu cơ tốt nhất cho cây trồng và đất trồng, có thể nhanh chóng đẩy năng suất cây trồng lên hơn 30%.
10. Tập hợp các chuyên gia về đối ngoại, lập ra đề án “Ngoại giao văn hóa”, “Ngoại giao xanh” gửi lên Bộ Ngoại giao. Vận động Bộ Ngoại giao ủng hộ và biến nó thành hiện thực để đất nước có thêm nhiều bè bạn.
11. Đưa ra luận thuyết đảo chiều tư duy, biến quyền lực khổng lồ nước ngoài nào đó đang đè lên đất nước mình thành cái đế, cái bệ đỡ để VN cất cánh.
12. Đưa ra lý luận chiến lược, một nước có nền kinh tế nhỏ như Việt Nam nếu biết vận dụng kinh nghiệm và bài học thành công của Chiến tranh Nhân dân trong chiến tranh tạo nên thế trận Chiến tranh Nhân dân trong thời bình thì có thể chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với các thế lực kinh tế hùng mạnh của các cường quốc. Lý luận này được đại tướng Võ Nguyên Gíap và nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt rất ủng hộ.
13. Không ngừng lại ở những vấn đề quốc gia, Vũ còn vận động cả “Quỹ Hòa bình quốc tế” – một tổ chức uy tín hàng đầu thế giới ủng hộ đề án “Phát triển bền vững toàn cầu” với cốt lõi là Năng lượng tri thức sáng tạo, tri thức xanh và ngọn cờ của chủ nghĩa nhân văn.Và đã được Ban lãnh đạo của Qũy nhiệt thành đón nhận.
Bất cứ ai công tâm chắc sẽ không thể phủ nhận được những gì Đặng Lê Nguyên Vũ đã lăn xả, đã hiến dâng vì sự nghiệp chung của quốc gia.
Một con người như thế của đất nước ở thời đại đang quá thiếu vắng những anh hùng, trớ trêu thay, bi kịch thay lại đang bị tổn thương, đang bị không ít kẻ hẹp hòi, đố kỵ, chĩa đòn roi tấn công không thương tiếc vì những điều ai đó đã cố tình dựng lên. Với lương tâm công dân của mình tôi xin được lên tiếng để làm cái việc rõ ràng, minh bạch đó là bảo vệ Vũ, bảo vệ tư tưởng của Vũ, bảo vệ khát vọng vì một nước Việt hùng cường của Vũ, bảo vệ những giấc mơ tưởng chừng như điên rồ của Vũ nhưng đang từng bước được Vũ biến thành hiện thực. Tôi xin bảo vệ, như người lính sẵn sàng ra chiến trường để bảo vệ những giá trị cao quý của dân tộc.
Những anh hùng vẻ vang của các cuộc chiến tranh, đất nước ta có quá nhiều, nhưng chiến tranh chỉ là lát cắt của lịch sử và cái đích của nó cũng chỉ vì sự phát triển thịnh vượng muôn đời. Các quốc gia phát triển luôn ý thức được điều đó, vì vậy họ có những anh hùng làm nên niềm tự hào, làm nên sức mạnh dân tộc mình, như nước Nhật có Toyota, Sony, nước Hàn có Sam Sung, LG, Hoa Kỳ có Microsoft vv… Trong khi đó đất nước ta thì chưa có ai. Vì sao vậy? Phải chăng vì chính những mầm mống của nó đang còn phải chịu cái số phận chỉ là những đứa con ghẻ, đang còn phải chịu biết bao búa rìu của những kẻ có tầm nhìn hạn hẹp, của sự đố kỵ, của những xâu xé lợi ích cục bộ, ích kỷ?
Với tư cách một công dân yêu đất nước mình, tôi kêu gọi những ai đang đau đáu với khát vọng vinh quang cho dân tộc – một dân tộc phải đổ nhiều xương máu nhất cho sự vẹn toàn bờ cõi, cho sự bình yên bầu trời, hãy có chính kiến của mình, hãy lên tiếng của mình không phải chỉ vì một trường hợp cá nhân Đặng Lê Nguyên Vũ, mà trước hết, trên hết vì đại cục.
Một đại cục, mà một quốc gia muốn phát triển phải có những con người có khát vọng lớn, phải có những thương hiệu hàng hóa lớn, phải có đội quân doanh nhân là chủ lực và được đặt ở vị trí, vai trò của lịch sử. Một đại cục, ở đó bất cứ ai có ý tưởng mới, lớn lao, đầy khát vọng cao đẹp sẽ được cả dân tộc chung tay biến thành hiện thực. Một đại cục mà mỗi thương hiệu quốc gia làm nên sự phát triển quốc gia phải được bảo vệ như tài sản vô giá của cả quốc gia.
Đặng Lê Nguyên Vũ tự nhận biết về mình và tự nhận rằng mình đang rất cô đơn – Đó là số phận của kẻ muốn vượt lên chính mình, luôn phải chấp nhận. Nhưng tôi không tin Vũ sẽ mãi mãi cô đơn khi đất nước đang hình thành, đang xuất hiện một lớp trẻ đông đảo cũng có tầm nhìn, cũng có đầy khát vọng như Vũ, họ đang và sẽ tình nguyện đứng bên Vũ, sát cánh với Vũ, tin tưởng ở Vũ.
“Có niềm tin rồi sẽ có tất cả” đó là câu nói mà Vũ thường tâm niệm.
Lưu Trọng Văn
Nguồn: nguyentrongtao.org
http://ethongluan.org/component/content/article/915-viet-nam-van-la-nuoc-ngheo.html
No comments:
Post a Comment