Lê Anh Hùng “...Khi chính phủ giành lấy trách
nhiệm “lo rau muống và nước lã” cho người dân, thực chất họ đã tước mất
một quyền cơ bản của công dân, đó là quyền được tự lo liệu cho cuộc sống
của mình. Đến bây giờ thì những người từng một thời sống dưới chế độ
bao cấp ở Việt Nam hẳn đã thấm thía điều này...”
1.
Mới
đây, nhiều người Việt Nam tỏ ra hồ hởi khi hay tin xuất khẩu gạo của
Việt Nam đang đứng trước cơ hội vượt qua Thái Lan khi chính phủ nước này
thực hiện chính sách bảo hộ giá gạo trong nước. (1)
Điều
này càng cho chúng ta thấy một thực tế là thế giới đang ngày càng trở
nên “phẳng” hơn và liên hệ chặt chẽ với nhau hơn. Giờ đây thì ngay cả
các bác nông dân nhà ta hẳn cũng đã hiểu ra là cái thế giới này nó
“phẳng” đến thế nào rồi. Không chỉ một động thái của Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ có ảnh hưởng ngay lập tức tới gần như toàn bộ nền kinh tế thế
giới, mà ngay cả một cuộc nội chiến ở đất nước Libya nhỏ bé với dân số
chỉ 6,6 triệu người cũng ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường dầu mỏ thế
giới và qua đó là đến nền kinh tế thế giới, hay quyết định bảo hộ giá
gạo của chính phủ Thái Lan cũng ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường gạo
của thế giới, trong đó có những người nông dân Việt Nam.
Trong
cái thế giới đang ngày càng gắn kết hơn với nhau đó, mỗi một động thái
chính sách (và lớn hơn thế, chế độ chính trị) của một nước đều tạo ra
ảnh hưởng nhất định đến các quốc gia bên ngoài, theo cả hai hướng tích
cực và tiêu cực.
Trước mắt, người
nông dân Thái Lan sẽ được hưởng lợi từ chính sách bảo hộ giá gạo của
chính phủ Thái Lan, khi giá trị sản phẩm của họ tăng lên. Song về lâu
dài, chính sách này sẽ tạo ra sức ỳ cho ngành nông nghiệp trong nước,
trong khi gánh nặng bảo hộ lại đặt trên vai các tầng lớp dân cư khác,
đồng thời nó còn làm méo mó cơ chế phân công lao động và phân bổ nguồn
lực hữu hiệu của thị trường. Đối với người nông dân Việt Nam, chính sách
bảo hộ của chính phủ Thái Lan sẽ khiến cho giá gạo của Thái Lan kém
cạnh tranh hơn và giá gạo của Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn, cho nên
trước mắt nó sẽ tạo nên một cú hích cho hoạt động sản xuất lúa gạo của
Việt Nam. Tuy nhiên, về lâu dài, việc chúng ta cạnh tranh với một đối
thủ vốn đang chịu sức ỳ do chính sách bảo hộ gây ra thì cũng chẳng cải
thiện được năng lực sản xuất cho mình là mấy; chưa kể, nếu chính phủ
Thái Lan lại đột ngột xoá bỏ chính sách bảo hộ thì người sản xuất lúa
gạo ở Việt Nam không khéo lại còn phải chịu ảnh hưởng tiêu cực nhiều hơn
(do đầu tư dàn trải quá mức chẳng hạn) so với những gì mà họ được hưởng
khi chính phủ Thái Lan thực thi chính sách bảo hộ.
Người
nông dân Thái Lan lâu nay vẫn được hưởng lợi từ lối vận hành lộn xộn
của thị trường lúa gạo Việt Nam, nơi mà một mình Hiệp hội Lương thực
Việt Nam (VFA – với nòng cốt là Tổng Cty Lương thực Miền Nam và Tổng Cty
Lương thực Miền Bắc) làm mưa làm gió, khiến cho lợi lộc chủ yếu rơi vào
khâu trung gian và giới đầu cơ, còn đời sống của người nông dân thì vẫn
chẳng khá lên là bao, nghèo vẫn hoàn nghèo. Thực tế này khiến cho người
nông dân chẳng mấy mặn mà với việc mở rộng sản xuất, thâm canh hay tăng
vụ (một phần là do không đủ nguồn lực để tái đầu tư). Bản chất của vấn
đề là ở chỗ người ta đã lợi dụng vị thế độc quyền nhà nước để trục lợi
tối đa cho cá nhân và phe nhóm. Tình trạng tương tự cũng diễn ra trên
thị trường xăng dầu, lĩnh vực mà nhà chức trách và giới phân tích hiện
vẫn đang mổ xẻ. Tuy nhiên, mọi giải pháp không sớm thì muộn rồi cũng
thất bại, hoặc theo kiểu “bắt cóc bỏ dĩa”, khi mà trên thị trường vẫn
tồn tại một hoặc một vài doanh nghiệp đóng vai trò thống lĩnh (trong
trường hợp thị trường xăng dầu thì Petrolimex chiếm tới 60% thị phần) và
khi mà thiệt hại của 86 triệu người tiêu dùng thì không thể đong đếm
được trong khi lợi nhuận chảy vào hầu bao những kẻ đang thao túng thị
trường và các khoản “lại quả” chảy vào túi của các nhà quản lý tự tư tự
lợi, những kẻ sẵn sàng vì lợi ích của một nhóm người nhỏ bé và của bản
thân mà nhắm mắt làm ngơ (dưới những chiêu bài như “ổn định thị trường”,
“kiềm chế lạm phát”, v.v.), thì lại có thể “đếm” được. Và thị trường
thì phản ứng rất chi là linh hoạt: xăng dầu hết chảy sang Campuchia (khi
giá xăng dầu trong nước thấp hơn ở Campuchia) lại chảy ngược từ
Campuchia về Việt Nam (khi giá xăng dầu trong nước cao hơn).
2.
Sớm
muộn gì thì người anh em Lào của chúng ta cũng sẽ tiến tới với dự án
thuỷ điện Xayaburi, đơn giản là ở một chế độ “dân chủ XHCN” như của Lào
thì lời nói của đồng tiền nó dễ lọt tai hơn bất cứ điều gì khác.
Ngay cả
nguy cơ về một cuộc Hán hoá vẫn không đủ để khiến họ phải rụt rè trước
những đồng Yuan có in hình bác Mao thì còn có gì là đáng kể ở đây. Không
khéo chính các đồng chí Lào ngay từ bây giờ cũng đã ấm ức trong bụng mà
rằng, “Với những bauxite Tây Nguyên, thuỷ điện 6 và 6A Đồng Nai thì các
vị đã nghĩ gì đến người dân của mình hay chưa mà buộc chúng tôi phải
nghĩ cho dân của các vị.” Tình trạng phá rừng hàng loạt ở Lào, trong đó
người Việt “góp công” rất lớn, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hệ sinh thái,
khí hậu và dòng chảy vào Việt Nam.
Nhiều
người Việt Nam từng phấn khởi khi hay tin thủ lĩnh phe đối lập ở
Campuchia bị xét xử về vụ nhổ cọc phân giới với Việt Nam, do toà án tỉnh
Svay Rieng tiến hành ngày 27/1/2010. Sam Rainsy bị tuyên án 2 năm tù
vắng mặt (vì đang ở Pháp), và phải đóng tiền phạt 8 triệu Riel
(2.000USD), đồng thời phải bồi thường cho chính quyền địa phương 5 triệu
Riel (1.200 USD) vì tội phá hoại tài sản nhà nước và kích động kỳ thị
sắc tộc.
(2) Tuy nhiên, những ai biết rõ hiện tình Campuchia lại đều
hiểu rằng ông Hunsen từ nay sẽ càng dễ bề khuynh loát chính trường
Campuchia, những vấn nạn xã hội như tham nhũng, tội phạm… cũng sẽ nổi
lên theo đấy.(3) Và chính Việt Nam chúng ta lại phải nhận lãnh hậu quả:
Tình trạng vũ khí nóng tràn lan trong nước hiện nay một phần là nhờ sự
nhắm mắt làm ngơ của “người anh 6 chữ vàng” ở phía Bắc và một phần là
nhờ nguồn cung dồi dào từ phía Campuchia. Các sòng bạc gần biên giới
Việt Nam hoạt động gần như bất chấp pháp luật cũng là một hệ quả của
tình trạng pháp luật lỏng lẻo ở Campuchia, và nó đã gây ra bao hệ luỵ
kinh tế - xã hội cho Việt Nam mà báo chí đã tốn nhiều giấy mực để phản
ảnh.
Chủ nghĩa Đại Hán Trung Hoa dẫu
đáng sợ đến mấy nhưng một nước Trung Quốc dân chủ cũng sẽ khiến cho mối
đe doạ đó giảm đi đáng kể. Và một Việt Nam tự do, dân chủ chắc chắn sẽ
có ảnh hưởng tích cực để đưa đến một Trung Quốc ngày càng tự do và dân
chủ hơn. Tuy nhiên, hai nước hiện nay lại đang là nguồn cổ vũ của nhau
trong chính sách đè nén dân chúng, bóp nghẹt tự do, chà đạp dân chủ và
tham nhũng. “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.” Đó là lý do tại sao Chính phủ
Việt Nam vẫn tỏ lập trường ủng hộ Gaddafi cho đến khi buộc phải muối mặt
“thừa nhận” Hội đồng Dân tộc Chuyển tiếp (NTC) của Libya vào ngày
14/9/2011, khi mà những tội ác man rợ của chế độ độc tài quái đản
Gaddafi đang dần dần bị phơi bày trước mắt bàn dân thiên hạ; đó là lý do
tại sao Tổng thống Venezuela lại sẵn sàng nghênh đón Gaddafi tới tị
nạn; đó là lý do tại sao Trung Quốc và Nga lại phủ quyết một dự thảo
nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ ngày 5/10/2011 về việc trừng phạt
Syria nếu nước này không ngừng ngay lập tức hành động quân sự giết hại
dân thường.
Phong trào dân chủ Mùa
Xuân Ả-rập rõ ràng là đang tạo ra một sự thay đổi tích cực cho bức tranh
chính trị của thế giới Ả-rập và phả hơi nóng vào các chế độ độc tài áp
bức còn sót lại trên thế giới. Khi điều tất yếu phải đến thì cái giá cho
nó lại tuỳ thuộc vào sự khôn ngoan và thức thời của nhà cầm quyền. Đó
có thể là cuộc thay đổi thay khá nhẹ nhàng ở Tunisia, sự chuyển tiếp
tương đối bạo lực và lộn xộn ở Ai Cập, hay thậm chí là một cuộc nội
chiến đẫm máu ở Lybia.
3.
Nhiều
chính sách của chính phủ Việt Nam hiện nay đang thực sự phá hoại nền
kinh tế Việt Nam, khiến cho thị trường hỗn loạn, tạo ra sự bất công ngày
càng sâu sắc trong xã hội, còn kẻ thù của chúng ta thì lại vui mừng.
Khi mà giá vàng trong nước từ bao năm nay thường cao hơn giá vàng thế
giới, với mức cước chênh lệch nhiều lúc lên tới 4 triệu VNĐ một lượng
thì ngoài sự thiển cận và bảo thủ, điều mà ai cũng thấy bức xúc chính là
thái độ VÔ TRÁCH NHIỆM của Chính phủ. Khi mà chính sách bình ổn giá lại
chỉ tạo kẻ hở cho khối kẻ lợi dụng chính sách để trục lợi thì người ta
càng thấy rõ tư duy và tầm nhìn từ thời bao cấp của lãnh đạo Chính phủ.
(4)
Những chương trình mang hơi hướng xã hội, nhân đạo như “nhà ở cho
người thu nhập thấp” lại chính là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và tiêu
cực ở bất cứ đâu, chứ không riêng gì Việt Nam, nơi mà tình trạng này
hầu như ai cũng nhìn thấy rõ. (5) Các chương trình an sinh xã hội của
chính phủ, đặc biệt là các chương trình trợ cấp trực tiếp, lại tạo ra
một bộ phân dân nghèo chỉ biết trông chờ vào trợ cấp của nhà nước. Ngoài
ra, nhiều tiêu cực cũng phát sinh từ đây, chẳng hạn như tình trạng trợ
cấp chẳng đến được tay người nghèo mà lại thường rơi vào tay người nhà
của quan chức địa phương, điều mà báo chí từng nói đến rất nhiều. Chính
sách căn cơ và lâu dài ở đây là trao cho họ “cần câu”, tạo cho họ cơ hội
bình đẳng (cơ hội tiếp cận các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế; các
quyền tự do cơ bản, trong đó có quyền tự do chính trị, để họ có thể bầu,
giám sát và miễn nhiệm những người đại diện trong chính quyền của
mình), chứ không phải là trao cho họ “con cá”. Hiện tượng ngành than
xuất nhập tùm lum bấy lâu nay chính là do chính sách điều tiết giá bất
hợp lý kéo dài từ năm này qua năm khác, làm méo mó cơ chế vận hành đúng
đắn của thị trường, v.v.
4.
Vì
sao trong khi cả Châu Âu đang phải gồng mình để cứu Hy Lạp thì người
dân nước này lại hết biểu tình rồi đến đình công? Đó là vì khu vực công ở
đây đã phình ra quá to, một bộ phận dân chúng đã hình thành thói quen
dựa dẫm vào các chương trình chi tiêu hoang phí hoặc mang bản chất tái
phân phối thu nhập của chính phủ. Đến khi mức nợ công cứ ngày một lớn
dần lên và nhằm tránh đổ vỡ, chính phủ buộc phải thực hiện chính sách
thắt lưng buộc bụng để nhận được gói cứu trợ của EU, và điều này lại
đụng chạm đến bộ phận dân chúng vẫn sống dựa vào ngân sách nhà nước
(công chức, người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, những đối
tượng hưởng trợ cấp xã hội, v.v.). Thủ phạm của nó chính là chủ nghĩa
dân tuý (chính là chính sách mà chính phủ Thái Lan của cựu thủ tướng
Thaksin Shinawatra trước đây và đương kim thủ tướng Yingluck Shinawatra
hiện nay theo đuổi, và cũng chính là bản chất của các chính sách an sinh
xã hội của Chính phủ Việt Nam hiện nay) và chủ nghĩa bảo trợ (6) (một
thực tế vẫn đang diễn ra ở Việt Nam kể từ đầu giai đoạn đổi mới đến
nay). Giải pháp căn cơ cho nó phải là một cuộc cải cách thể chế sâu rộng
chứ không chỉ đơn thuần là các biện pháp “thắt lưng buộc bụng” trước
mắt. (7)
Thông thường, một lĩnh vực
trong bộ máy chính phủ không ngừng phình ra là mục đích tự thân của hoạt
động chính phủ; người lãnh đạo nào cũng muốn có thêm đầu mối để quản lý
(và dĩ nhiên là thêm nhiều lợi ích từ đó), nhà quản lý nào cũng trông
chờ cơ hội thăng tiến tốt hơn nếu họ có thể tuyển dụng thêm thuộc cấp.
Đấy chính là lý do tại sao ở Việt Nam thời gian qua tuy số bộ ngành đầu
mối giảm, nhưng cơ cấu bên trong lại tiếp tục phình to. Các tổng cục cứ
thi nhau ra đời. Bộ Nông nghiệp thì có Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục
Thủy sản, Tổng cục Thủy lợi; Bộ Công an thì chia Tổng cục An ninh Nhân
dân thành Tổng cục An ninh I và Tổng cục An ninh II, chia Tổng cục Cảnh
sát Nhân dân thành Tổng cục Cảnh sát Phòng chống Tội phạm và Tổng cục
Cảnh sát QLHC về TTATXH, v.v. Đến nay thì một loạt tỉnh thành đã có Sở
Cảnh sát Phòng cháy Chữa cháy (Tp HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ, Đà
Nẵng, Vĩnh Phúc, Đồng Nai và Bình Dương). (Ôi giời, cháy nổ thế kia thì
cần thiết quá đi chứ lỵ!)
Con người
ta có lẽ ai cũng muốn lo lắng và đem lại hạnh phúc cho những người xung
quanh mình, cho đồng bào của mình. Đó là thiên hướng tự nhiên của con
người. Hầu như nhà lãnh đạo nào cũng muốn “lo cho dân” cả, ít nhất là
điều đó đem lại cho họ sự “chính danh”. Họ chỉ khác nhau về cách “lo” mà
thôi. Ông Lê Duẩn từng có câu nói để đời: “Chúng ta cầm quyền mà không
lo nổi rau muống và nước lã cho dân thì nên từ chức đi.” (8) Sau khi ông
trút hơi thở cuối cùng trên cương vị lãnh đạo cao nhất của chế độ, Đảng
Cộng sản Việt Nam ở vào thế dựa chân tường buộc phải tiến hành cái gọi
là “đổi mới”, người ta mới nghiệm ra rằng hoá ra để cho dân chúng tự lo
cho mình lại tốt hơn nhiều, và người dân càng được “cởi trói” thì đất
nước lại càng phát triển. Ấy vậy nhưng cái chân lý đó dường như lại đang
bị người ta quên mất. Theo nguyên thứ trưởng Bộ Nội vụ Thang Văn Phúc:
“Nhà nước vẫn đang tiếp tục can thiệp quá sâu vào thị trường. Bộ máy bắt
đầu sa vào giải quyết quá sâu những vấn đề cụ thể. Nhiều việc không làm
xuể thế là phát sinh tổng cục, chi cục khiến đầu mối thì giảm mà cơ cấu
bên trong vẫn tiếp tục phình to. Các chức năng, nhiệm vụ còn chồng
chéo. Bối cảnh lạm phát mấy năm vừa qua đã phơi bày rõ sự lúng túng.”
(9) Thủ tướng cứ phóng tay hết ký thành lập tổng cục này lại đến ký bổ
nhiệm thứ trưởng kia, mà hình như chẳng thấy “băn khoăn” gì cả thì phải.
“Bảo đảm an sinh xã hội” (bên cạnh những “thực hiện đồng bộ các giải
pháp” và “bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô”) đã trở thành một điệp ngữ của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu nói chung và ở Hy Lạp, Bồ Đào Nha… nói riêng chính là bài học cảnh tỉnh cho chúng ta.
Theo
quy định của luật tổ chức chính phủ nhiều nước trên thế giới, cơ cấu
của Chính phủ (nội các) chỉ bao gồm thủ tướng, phó thủ tướng, các bộ
trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Còn theo Luật Tổ chức Chính phủ
của Việt Nam, cơ cấu của Chính phủ bao gồm bộ và cơ quan ngang bộ. Quy
định như vậy đã dẫn đến sự nhầm lẫn giữa hoạt động của bộ và hoạt động
của Chính phủ, các bộ trưởng coi nặng hoạt động ở bộ mà coi nhẹ hoạt
động ở Chính phủ. Các bộ là các cơ quan chuyên môn, đó là các cơ quan
tác nghiệp hành chính, trong khi đó Chính phủ là cơ quan chính trị, tức
là cơ quan đề ra các chủ trương, quyết sách và thực hiện chức năng điều
hoà phối hợp toàn bộ bộ máy hành chính nhà nước. Nếu quan niệm cơ cấu
của chính phủ bao gồm bộ và cơ quan ngang bộ thì các bộ trưởng chủ yếu
hoạt động ở văn phòng bộ, trong khi đó yêu cầu của xã hội là các bộ
trưởng phải hoạt động chủ yếu ở trụ sở của chính phủ. Chính phủ các nước
trên thế giới thông thường một tuần họp một lần như ở Pháp, một tuần
họp hai lần như ở nội các Anh, còn trong thời kỳ phong kiến thì các
phiên thiết triều được thiết lập vào các ngày lẻ hoặc ngày chẵn trong
tháng và không ít hơn 4 lần.
Chính
phủ của chúng ta hiện nay chỉ họp một tháng một lần. Như vậy không thể
đảm bảo tính liên tục của hoạt động hành chính. Hoạt động điều hoà, phối
hợp của Chính phủ vì thế cũng không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Có
thể đưa ra một số minh chứng để khẳng định điều này. Chẳng hạn việc các
đường phố lớn ở Thủ đô Hà Nội như Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh và một
số đường phố khác bị đào lên đào xuống nhiều lần thể hiện sự thiếu phối
hợp giữa các ngành, các cấp trong việc quản lý đô thị. Gần đây, việc
xây dựng các khu đô thị cao tầng rất đẹp, rất hoành tráng ở Mỹ Đình
nhưng không hề xây các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông nào dẫn đến việc quá tải của các trường tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông ở Thủ đô Hà Nội là một ví dụ điển hình cho sự thiếu
điều hoà, phối hợp giữa các bộ, ngành. Hiện tượng giấy hồng, giấy đỏ,
giấy xanh cho nhà đất và hộ khẩu cũng là một ví dụ điển hình. Yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi bộ máy hành chính không được tuỳ
tiện đưa ra bất kỳ quy định nào trái với luật trong quá trình áp dụng
chính sách, tuy nhiên ở Việt Nam, hiện tượng văn bản của cơ quan hành
chính cấp dưới trái với văn bản của cơ quan hành chính cấp trên là một
chuyện khá phổ biến.
(Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp: Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế – PGS.TS. Thái
Vĩnh Thắng, Chủ nhiệm Khoa Hành chính - nhà nước, Đại học Luật Hà Nội)
5.
Trong
bài phát biểu ra mắt cương vị chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do Đức (FDP) ở
Rostock trung tuần tháng 5 vừa rồi, chính trị gia người Đức gốc Việt
Philipp Rösler đã so sánh hệ lụy khi người ta hạn chế tự do từng chút
một với một câu chuyện về con ếch. Nếu ném con ếch vào nồi nước nóng nó
sẽ phản xạ tức thì, nhảy ra khỏi nồi ngay. Nhưng nếu ném nó vào nồi nước
lạnh rồi đun nóng dần thì nó sẽ nằm yên cho đến khi bị luộc chín. Hạn
chế quyền tự do từng chút một rốt cuộc sẽ dẫn tới kết cục như vậy, bởi
xã hội dần dần bị mất khả năng đề kháng.
Từ
Sắc lệnh số 31 ngày 13/9/1945 của Hồ Chủ tịch cho đến bản Thông báo cấm
biểu tình trời ơi đất hỡi ngày 18/8/2011 của UBND Tp Hà Nội là cả một
sự thụt lùi ghê gớm của lịch sử. Đối với nhiều người, dường như đến giờ
họ mới nhận ra là “chú ếch” Việt Nam đã bị “luộc” từ từ trong suốt 66
năm qua như thế nào, và chính cái thực tế là ở đây “ta lại luộc ta” chứ
chẳng phải bọn “đế quốc” hay “phản động” nào cả mới khiến cho nỗi niềm
càng thêm chua xót.
Khi chính phủ
giành lấy trách nhiệm “lo rau muống và nước lã” cho người dân, thực chất
họ đã tước mất một quyền cơ bản của công dân, đó là quyền được tự lo
liệu cho cuộc sống của mình. Đến bây giờ thì những người từng một thời
sống dưới chế độ bao cấp ở Việt Nam hẳn đã thấm thía điều này. Còn nhiều
người dân Hy Lạp chắc cũng đã cảm nhận được cái giá của những ngày
tháng sống trong vòng tay bao bọc của chính phủ.
Gần
đây, trước chủ trương sửa đổi Hiến pháp 1992 của Nhà nước Việt Nam,
trên các báo đã xuất hiện nhiều tiếng nói tích cực, ủng hộ một sự thay
đổi sâu sắc và toàn diện, tránh hiện tượng chắp vá hay chỉ thay đổi bề
ngoài, vốn chỉ đưa đất nước vào một giai đoạn phát triển bất ổn mới, bỏ
qua nhiều vận hội trước mắt. (10) Tuy nhiên, có nhà nghiên cứu hiến pháp
lại đưa ra nhận định: “Ngày hôm nay chúng ta mong đợi một bản hiến pháp
hoàn hảo có lẽ hơi ảo tưởng, cũng giống như ảo tưởng một công ty nào đó
của Việt Nam có thể tự chế tạo máy bay Boeing hay chip Intel vậy!”.
(11) Hình như lập luận của nhà nghiên cứu hiến pháp này có cái gì đấy
không ổn:
Hiến pháp không đóng vai
trò là bộ luật cơ bản nhất, hay khế ước xã hội, hay… chỉ bằng sự hiện
hữu của nó. Các giới chức chính trị, các lực lượng có ảnh hưởng trong xã
hội phải tôn trọng nó thì nó mới có giá trị, nó mới có hiệu lực. Vì
thế, các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước tới nay phần lớn đều chỉ là
mớ giấy lộn không hơn không kém. Thực tế này cũng có nghĩa là một điều
kiện cần ở đây là phải phân chia quyền lực nhà nước thành các nhánh độc
lập để giám sát và chế ước lẫn nhau.
Năm
1946, khi 95% người Việt Nam bị mù chữ mà chúng ta vẫn có được bản Hiến
pháp 1946 thì không có lý do gì khiến chúng ta lại KHÔNG THỂ cho ra đời
một bản hiến pháp thật sự phù hợp, khoa học, với tầm nhìn dài hạn vào
lúc này (nhất là khi mà dân tộc Việt Nam đã đổ biết bao xương máu, trải
qua biết bao thảm cảnh để ngộ ra chân lý như ngày hôm nay). Tại sao bao
quốc gia khác không có “nền văn hiến bốn ngàn năm” như chúng ta mà họ
lại có được bản hiến pháp dân chủ (Thái Lan, Campuchia, Singapore, v.v.)
trong khi chúng ta lại cứ phải “đi từng bước, đừng ảo tưởng”? Từ năm
1992 cho đến khi ra đời bản hiến pháp mới sắp tới (dự kiến vào năm 2013)
là 21 năm, tức là mới một “bước” thôi. Vậy liệu chúng ta còn phải đi
thêm mấy bước nữa để quay lại bản Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp mà
ai cũng cho là tiến bộ và dân chủ nhất trong số 4 bản Hiến pháp trước
đây của chúng ta và đã ra đời cách nay đến 65 năm, tức là ngót 2/3 thế
kỷ? Ai sẽ phải trả giá cho sự chậm trễ này?
Bản
Hiến pháp Mỹ ra đời cách đây hơn 200 năm, chứ không phải vừa mới hôm
qua. Nó là nền tảng cho sự ổn định và phát triển của nước Mỹ, cho những
Boeing hay Intel như ngày nay. Điều đó cũng có nghĩa là không phải đến
khi nào người Việt Nam làm ra được những Boeing hay Intel thì chúng ta
mới có quyền “mơ” tới một bản hiến pháp “hoàn hảo”.
Ai
ảo tưởng ở đây? Một cá nhân nào đó? Hay cả dân tộc Việt Nam? Cách đặt
vấn đề như thế rõ ràng là đã thể hiện một thái độ không đúng mực đối với
khát vọng cháy bỏng của cả một dân tộc.
Như
Bản Kiến nghị của các nhân sỹ, trí thức ngày 10/7 về việc Bảo vệ và
phát triển đất nước trong tình hình hiện nay và Thư ngỏ gửi lãnh đạo
Việt Nam về hiểm họa ngoại bang và sức mạnh dân tộc của các trí thức
Việt kiều ngày 21/8/2011 đã chỉ rõ, bối cảnh lịch sử lại một lần nữa đặt
đất nước chúng ta trước một nguy cơ mới. Liệu chúng ta có tận dụng được
thời cơ để đầy lùi mối nguy và vươn lên mạnh mẽ hay không là trách
nhiệm đang đặt lên vai các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay. Họ đang có cơ
hội để sửa chữa sai lầm và hơn thế, còn tạo dựng được chỗ đứng của mình
trong lịch sử. Đất nước Việt Nam vốn đã chịu nhiều đau thương và bất
công này không thể vì sai lầm của bất kỳ một cá nhân nào để rồi lại một
lần nữa phải ngậm ngùi nhìn thời cơ lịch sử trôi qua. Và nên nhớ rằng
chỉ riêng việc chúng ta ký Hiệp định Thương mại Song phương Việt Mỹ chậm
chưa đầy một năm thôi cũng đã khiến cho đất nước bỏ lỡ biết bao cơ hội
rồi. (12) Để kết thúc bài viết, xin mượn lời của ông Nguyễn Đình Lương,
nguyên Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, khi ông nhắc
lại những cơ hội nhỡ nhàng vô cùng đáng tiếc chỉ do quyết định hơi muộn
mằn đó: “Thời đại thay đổi, mình cũng phải thay đổi theo. Không thể cứ
bám riết cái đã rất cũ của mình, chỉ làm thiệt mình và bắt dân tộc mình
phải trả giá.” (13)
Lê Anh Hùng
Quảng Trị, 10/10/2011
Quảng Trị, 10/10/2011
(1)Báo
Thanh Niên ngày 26/9/2011: Xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ qua mặt Thái Lan
(http://www.thanhnien.com.vn/pages/20110925/xuat-khau-gao-viet-nam-se-qua-mat-thai-lan.aspx).
(2) Báo Dân Trí ngày 28/1/2010:
Campuchia xét xử đối tượng nhổ cọc phân giới với Việt Nam
(http://dantri.com.vn/c25/s36-375843/campuchia-xet-xu-doi-tuong-nho-coc-phan-gioi-voi-viet-nam.htm)
(3)
Báo Dân Luận ngày 18/11/2009: Sự xuống cấp của đạo đức xã hội trong nền
kinh tế thị trường và thủ phạm của nó (danluan.org/node/3286).
(4)
Báo Công An Nhân Dân ngày 4/10/2011: Ai hưởng lợi từ chính sách bình ổn
giá? (http://www.cand.com.vn/vi-VN/kinhte/2011/10/157353.cand); Báo Lao
Động ngày 29/8/2011: Giá hàng bình ổn vẫn cao hơn giá thị trường
(http://laodong.com.vn/Tin-tuc/Gia-hang-binh-on-van-cao-hon-gia-thi-truong/56395);
Báo Dân Trí ngày 26/7/2011: Loạn giá hàng bình ổn
(http://dantri.com.vn/c76/s76-501959/loan-gia-hang-binh-on.htm).
(5)
Báo VnExpress ngày 1/4/2011: Nhà thu nhập thấp bị rao bán gấp đôi giá
gốc
(http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/bat-dong-san/2011/04/nha-thu-nhap-thap-bi-rao-ban-gap-doi-gia-goc);
Báo VTC News ngày 5/8/2011: Nhà thu nhập thấp, giá chung cư cao cấp
(http://vtc.vn/1-296175/kinh-te/nha-thu-nhap-thap-gia-chung-cu-cao-cap.htm);
Báo Diễn Đàn Doanh Nghiệp ngày 20/8/2011: Nhà ở cho người thu nhập
thấp: Thất bại lớn
(http://dddn.com.vn/20110818024630777cat173/nha-o-cho-nguoi-thu-nhap-thap--that-bai-lon.htm).
(6)
Chủ nghĩa bảo trợ (clientelism): một thuật ngữ dùng để mô tả một hệ
thống chính trị mà trái tim của nó là mối quan hệ bất tương xứng giữa
giới chính trị gia và các nhóm chịu sự bảo trợ của họ.
(7)
OpenDemocracy: The causes of the Greek crisis are in Greek politics
(http://www.opendemocracy.net/openeconomy/takis-s-pappas/causes-of-greek-crisis-are-in-greek-politics).
(8) Từ điển Bách khoa mở Tiếng Việt: http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Du%E1%BA%A9n.
(9)
Báo Sài Gòn Tiếp Thị ngày 16/6/2011: Bộ máy phình to, nhưng vẫn đẩy
việc cho Thủ tướng
(http://www.sgtt.com.vn/Thoi-su/146352/Bo-may-phinh-to-nhung-van-day-viec-cho-Thu-tuong.html).
(10)
Báo Sài Gòn Tiếp Thị ngày 4/8/2011: Sửa đổi Hiến pháp: phải rạch ròi ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp (http://www.sgtt.com.vn/Goc-nhin/148881/Sua-doi-Hien-phap-phai-rach-roi%C2%A0ba-quyen-lap-phap-hanh-phap-tu-phap.html);
Báo Vietnamnet ngày 21/9/2011: Góp bàn về sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam
(http://wwwz.vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/40230/gop-ban-ve-sua-doi-hien-phap-o-viet-nam.html); Báo VTC News ngày 23/9/2011: Cởi nút thắt cho cải cách (http://vtc.vn/2-302740/xa-hoi/coi-nut-that-cho-cai-cach.htm).
(11)
Báo Vietnamnet ngày 6/10/2011: Sửa hiến pháp: Đi từng bước, không ảo
tưởng
(http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-10-05-sua-hien-phap-di-tung-buoc-khong-ao-tuong).
(12) Báo Vietnamnet ngày 8/7/2010: BTA và cơ hội bị bỏ lỡ (http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-07-03-bta-va-co-hoi-bi-bo-lo).
(13) Báo Vietnamnet ngày 8/7/2010: BTA và cơ hội bị bỏ lỡ.
http://ethongluan.org/trangnha/752-chinh-phu-va-chinh-sach.html
http://ethongluan.org/trangnha/752-chinh-phu-va-chinh-sach.html
No comments:
Post a Comment