Nam Ròm - Từ
việc mua móng trâu, rễ hồi, ốc bươu vàng tới việc săn lùng gỗ sưa rao
giá bạc tỷ hay sẵn sàng thu mua phế liệu với giá cực cao – những hành
động tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại ẩn chứa những dụng ý sâu xa
của lái thương Tàu.
Nhiều năm trở lại đây, người dân
Việt Nam (VN) đã nằm lòng những câu chuyện xoay quanh việc tận thu hàng
hóa một cách rất "khó hiểu" của người Tàu + (TQ). Đã có thời, thương
lái Tàu đi khắp các chợ ở vùng quê VN thu mua rễ hồi. Ngay sau đó, một
chiến dịch triệt phá rừng hồi, một dược liệu quý hiếm của VN, đã diễn
ra.
Thêm vào đó, Tàu còn mua râu ngô
non khiến hàng loạt nông dân triệt phá nương ngô mang bán, và thiếu đói
ở một bộ phận dân chúng xảy ra. Không những thế, những năm 90 của thế
kỷ trước, khi ốc bươu vàng được nhập khẩu từ Tàu vào VN, người ta chỉ
biết đến nó như một nguồn thực phẩm mới, thậm chí, một phương pháp làm
giàu. Chỉ đến khi dịch ốc bươu vàng bùng phát trên toàn quốc, những cánh
đồng bị tàn phá dưới miệng ốc, thì chúng ta mới thấy thâm ý của của
những hành động này.
Chúng tôi xin điểm một số sự
kiện lớn gây rúng động xã hội VN trong suốt thời gian qua về chính sách
thu mua của Tàu+, gây tổn thất không nhỏ tới nền kinh tế của VN.
1. Tàu chệt mua mèo, đại dịch chuột hoành hành năm 1997
Theo lời bác Nguyễn Bảo Sinh –
người được mệnh danh là “vua chó mèo” đất Hà Thành, đại dịch chuột kinh
hoàng nhất trong lịch sử diễn ra vào những năm 1997 – 1998.
Khi đó, TQ ráo riết thu mua mèo
với giá cao. Người dân VN lùng sục khắp các thôn bản, ngõ ngách, nhà nào
có mèo là mua về để bán sang Tàu. “Thậm chí, dân mình còn tự ăn cắp mèo
của nhà hàng xóm đem bán. Tình trạng bắt trộm mèo trong dân diễn ra khá
phổ biến, đời sống của bà con xóm làng được phen xáo trộn, điên đảo khi
người này nghi ngờ người kia,…” – ông Sinh cho biết.
Người dân VN lùng sục khắp các thôn bản, ngõ ngách, nhà nào có mèo là mua về để bán sang Tàu
Chỉ sau một khoảng thời gian
ngắn, toàn miền Bắc đã thưa vắng bóng dáng mèo, giống mèo ta cạn kiệt
trên thị trường. Đó là một trong những nguyên nhân khiến đại dịch chuột
bắt đầu hoành hành, người dân phải mua bả chuột để bẫy nhưng cũng không
đạt hiệu quả như mong muốn. “Mùa màng thất bát, lúa gạo trong nhà bị
chuột chén sạch, cơn khát diệt chuột chưa bao giờ cháy bỏng đến mức ấy”-
ông Sinh nhớ lại.
Mãi tới năm 1999, khi trại mèo
công nghiệp đầu tiên tại miền Bắc ra đời, cộng thêm với việc lai tạo mèo
nước ngoài của bác Sinh, các giống mèo bắt đầu lan rộng, đại dịch chuột
đã giảm đi trông thấy.
2. Thu mua móng trâu, tan hoang sức kéo của nông dân
“Mình không nhớ rõ năm nào,
nhưng khoảng 2003 - 2004, đi công tác trên biên giới Cao Bằng, mình đã
lên Đồn Biên phòng Trà Lĩnh cùng anh em đi phục bắt "đối tượng buôn lậu
nguy hiểm". Khi bắt được đối tượng, mở mấy bao tải tang vật để kiểm đếm,
lập biên bản, cả Tổ công tác, từ sỹ quan đến chiến sĩ, xuất phát từ con
nhà nông dân từ đồng bằng đến miền núi đều nghiến răng kèn kẹt: "Tiên
sư bọn nó" khi thấy những móng trâu vẫn còn thâm máu, vỡ vụn xương”, anh
Mai Thanh Hải (Hà Nội) chia sẻ.
Có một thời gian, nông dân VN đua nhau lấy móng trâu để bán
Có thời điểm, thương lái T ráo
riết về các chợ nông thôn VN thu mua móng trâu với giá rất cao, thậm chí
những cái móng từ 4 chân của một con trâu được họ mua với giá hơn hẳn
một con trâu. Thế là nông dân VN đua nhau giết trâu lấy móng, cho dù
thịt trâu có phải bán đổ bán tháo vẫn cứ lời.
Cái gọi là "chính sách thu mua"
của Tàu + hồi ấy hướng vào mặt hàng "móng trâu" khiến không biết bao
nhiêu con trâu đang tuổi cày kéo phải tập tễnh lê lết và sau đó biến
thành các món trâu khô, trâu xào rau muống, trâu kho... bởi ban đêm, kẻ
gian lẻn vào chuồng, giơ dao quắm, dao rựa phang thẳng vào chân, chặt
móng.
Và chỉ một thời gian rất ngắn,
chính sách này đã triệt phá khá lớn sức kéo của nông dân nghèo VN, bà
con lại phải sang bên kia “xuống nước” để mua lại sức kéo.
3. Hết móng trâu, nông dân lại "vàng mặt" vì nạn chè vàng
Giữa năm 2007, tại các tỉnh biên
giới và trung du như Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai,
Thái Nguyên xôn xao về việc các thương nhân Tàu đi thu gom không chỉ là
chè khô mà cả búp chè tươi, chè héo và dụng cụ chế biến thô của Việt Nam
mang về chế biến.
Tình trạng thu mua này dẫn đến
việc giá chè được đẩy lên cao bất thường, từ 15.000 lên 25.000 đồng/kg
lên 75.000 – 90.000 đồng/kg. Tại Phú Thọ, Tuyên Quang... giá chè nguyên
liệu tươi cũng được đẩy lên 5.000 đồng/kg (tăng gấp đôi so với ngày
thường). Cây chè vì thế mà bị vặt vô tội vạ, còn các nhà máy trong nước
thì điêu đứng vì không có nguyên liệu chế biến.
Trước cơn “lốc” thu mua chè vàng
của lái buôn Tàu, TS. Trần Văn Giá, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội
Chè VN chua xót: Hậu quả nhãn tiền của nạn chè vàng là cây chè bị khai
thác cạn kiệt, chất lượng ngày càng kém là do thu hái không đúng quy
trình kỹ thuật.
Doanh nghiệp chế biến chè VN đã từng lao đao vì thiếu nguyên liệu trầm trọng sau vụ tận thu chè vàng của Tàu+
Khi giá chè vàng được đẩy lên
bất thường, chỉ sau một thời gian ngắn đã bắt đầu giảm và trở lại như
trước. Phía Tàu từ chối mua các loại chè giả chè vàng, do vậy, tại các
cửa khẩu còn tồn đọng từ 5.000 - 7.000 tấn chè khô. Bà con nông dân chưa
kịp vui mừng vì giá chè cao nay phải đối mặt với tình trạng thua lỗ do
chè vàng ế ẩm.
Cũng do tình trạng mua bán
nguyên liệu kiểu vơ vét, tận thu nên các doanh nghiệp (DN) chế biến chè
VN lao đao vì thiếu nguyên liệu trầm trọng. Nhiều DN phải mua nguyên
liệu không đảm bảo về sản xuất. Đã có hợp đồng bị phá vỡ, DN đành chịu
lỗ vì không đủ hàng giao kéo theo hàng nghìn công nhân không có việc
làm.
Uy tín chè VN cũng bị ảnh hưởng,
mà biểu hiện rõ nhất là có DN nước ngoài đã quay lưng với chè Việt.
Thậm chí, một công ty nước ngoài đã kiện Công ty chè Sông Lô và Công ty
chè Nghệ An vì phá vỡ hợp đồng do thiếu nguyên liệu để giao. Hiệp hội
Chè thời điểm đó đã rất lo ngại: “Nếu tình trạng chảy máu chè vàng còn
tiếp tục, sẽ có thêm nhiều nhà máy chè phải đóng cửa”.
4. TQ mót phế liệu, kẻ xấu đua nhau cắt cáp quang
Tháng 4/2007, các cơ quan quản
lý tá hỏa khi tuyến cáp quang quốc tế TVH nối Việt Nam với Thái Lan và
Hồng Kông bị cắt trộm. Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông sau đó ước tính
11 km cáp quang bị cắt đã gây thiệt hại hàng chục triệu USD. Vụ trưởng
Vụ Viễn Thông- Bộ Thông tin và Truyền thông, ông Phạm Hồng Hải khi đó đã
khuyến cáo rằng: "Sợi cáp quang không thể bán cho người thu mua phế
liệu vì lõi làm bằng thủy tinh chứ không phải làm bằng đồng". Nhưng
khuyến cáo đó không có tác dụng.
Số cáp quang bị cắt trộm được thu hồi
Liền sau đó, liên tiếp xảy ra
các vụ cắt cáp ở hàng loạt các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc
Trăng. Sự thể bấy giờ nghiêm trọng đến mức các lực lượng Hải quân, Biên
phòng, Công an được huy động tuần tra để bảo vệ cáp, có ý nghĩa như
những huyết mạch nối Việt Nam với thế giới.
Tổng cục Cảnh sát thậm chí có
lệnh cấm khai thác “cáp phế liệu” gửi hầu hết tỉnh, thành và từ động
thái này, lại lòi ra chuyện một vài tỉnh thậm chí còn cấp phép cho ngư
dân khai thác phế liệu đối với loại tài sản quốc gia quan trọng như cáp
quang biển. Khi quăng lưới, cắt cáp, họ không phân biệt được, cũng chả
cần phân biệt cáp với cá có gì khác nhau khi bản chất vẫn là chuyện “quy
ra tiền”.
Vài tháng sau đó, khi nữ “cáp
tặc” Nguyễn Thị Bích Phượng bị bắt giữ tại Bà Rịa - Vũng Tàu, bị đưa ra
toà và lĩnh án 12 năm tù, người ta mới hiểu tại sao Phượng sẵn sàng thế
chấp tài sản, mua 3 con tàu chỉ để đi cắt trộm cáp quang trên biển bán
phế liệu. Rất đơn giản bởi người mua là các thương lái Trung Quốc....
********************************************
Phải đặc biệt lưu ý khi giao thương với TQ
Theo GS-TS Bùi Chí Bửu, Viện
trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam thì “rõ ràng Trung
Quốc đã có một chính sách rất lớn trong vấn đề thu mua này”. GS-TS Bửu
vạch trần bản chất của sự việc: “Thương nhân Trung Quốc mua có chọn lọc
chứ không phải bất cứ mặt hàng nào cũng mua đâu. Tốc độ phát triển kinh
tế của Trung Quốc đang rất nóng.
Do vậy, nguyên liệu bị thiếu hụt
rất nghiêm trọng và VN là thị trường béo bở. Nhưng điều đáng nói Trung
Quốc chưa bao giờ ký nghị định thư với ta mà chỉ thích mua theo đường
tiểu ngạch”.
Do vậy, trong giao thương với các DN Trung Quốc, theo GS-TS Bùi Chí Bửu: Nhà nước và DN cần đặc biệt lưu ý.
Bởi lẽ: “Trong làm ăn với VN, TQ
luôn có những chính sách căn cơ, lâu dài chứ không đơn giản, ăn xổi ở
thì như nhiều người nghĩ. Hiện VN đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) nên muốn cấm họ mua cũng không được. Muốn làm ăn lâu dài, Nhà
nước phải yêu cầu Trung Quốc ký nghị định thư cam kết mua mặt hàng nông
sản của VN qua các năm như các nước châu Âu, Mỹ đã làm. Tuy nhiên, 15
năm qua, việc đàm phán không thành công”.
Trước thời kỳ bắt tay trở lại
hợp tác với Trung cộng (TC), người dân Việt Nam (VN) vẫn thường truyền
tai nhau về những câu chuyện xoay quanh việc mua rễ hồi, râu ngô hay ốc
bươu vàng của người TC,…
Sau này, khi chúng ta đã thiết
lập mối bang giao hữu hảo, mặt hàng mà thương lái TC săn lùng lại là
những nguyên liệu thô dễ tinh chế, nâng cao giá trị như: long nhãn, dưa
hấu, thanh long, gỗ sưa, dược liệu... Vì chính sách thu mua của TQ mà có
thời cả làng ở VN đi chặt phá rừng, vớt rong mơ tự hủy diệt nguồn lợi
thủy sản hoặc bán dược liệu quý như cho không. Thậm chí, có cả một phong
trào nuôi chó Nhật rồi mủ cao su…
Kỳ trước, chúng tôi đã điểm lại
“dụng ý” nham hiểm phía sau những chính sách thu mua khi TC tận thu mèo
để nông dân than khóc vì nạn chuột hay tận diệt sức kéo của dân khi đòi
hỏi mua móng trâu với giá “cắt cổ”. Kỳ này, xin tiếp tục gửi đến độc giả
những hành động “khó hiểu” của lái thương nước bạn, cho đến khi “vỡ
lẽ”, chúng ta mới ngỡ ngàng: "À, thì ra là như thế!".
5. Cả làng đi chặt tai ngựa, thảm trạng phá rừng diễn ra
Cây su mạ (theo tiếng của người
Nùng bản địa, "su" là cái tai, "mạ" là con ngựa) sẽ sống vĩnh viễn với
người xứ Lạng ở hầu khắp các huyện, nếu như năm 2008, không có chiến
dịch thu mua "tàn nhẫn", quyết liệt của người phía bên kia biên giới.
Với giá gần 1.000 đồng/kg gỗ tươi, bán cả cây lớn, cả bó, cả xe công
nông, chẳng mấy chốc người đi rừng dễ dàng làm giàu nhờ... phá rừng thật
sự.
Cả làng đi chặt tai ngựa
Ông Hoàng Văn Đồng - Bí thư Đảng
ủy xã Gia Cát (Lạng Sơn) lúc đó đã thở dài: Người ta đem các loại
phương tiện, kể cả vác, bế, cõng cây tai ngựa ra các điểm thu mua bán
cho tư thương. Dòng người đi kìn kìn, nhìn mà phát hãi. Xã tôi có 10
thôn bản, thì có 8 thôn bản, bà con thi nhau đi đẵn tai ngựa về bán. Có
người đàn bà đi kiếm "lộc rừng" ở trên đỉnh Mẫu Sơn, mải mê tìm lá, tìm
cây đã rơi tõm xuống cái hố sâu cả trăm mét mà người Pháp để lại, chết
thê thảm.
Xã Gia Cát có hơn 4.500 dân, gồm
3 dân tộc Nùng, Tày, Kinh. Bà con có truyền thống bảo vệ rừng, với diện
tích rừng phủ tới 68% địa bàn. 900 hộ dân ở Gia Cát, thì có tới 800 hộ
nhận khoanh nuôi bảo vệ rừng, nhiều gia đình quản lý tới 20ha rừng đã
được cấp "bìa đỏ" hẳn hoi. Tuy nhiên, từ khi có phong trào thu mua cây
với giá cao, cả làng đua nhau đi chặt tai ngựa, rừng bị tàn phá thảm
khốc, thảm trạng cháy rừng, suy thoái môi trường, đa dạng sinh học đã
diễn ra.
Khi tai ngựa sắp hết, người dân ở
đây cùng nhớ lại những loài cây đã bị chiến dịch thu mua của tư thương
làm cho đã hoặc đang bên bờ vực bị tiệt giống. Ví dụ như cây khải
chuông; cây mạy thé, cây sau sau (như một thứ đặc sản để ăn... lẩu).
Tương tự như vậy, ở Mẫu Sơn,
theo cán bộ địa phương, mỗi ngày có dăm bảy chục người cơm đùm cơm nắm,
luồn rừng đi đẵn cây bùng bay (một loại dược liệu quý) bán sang bên kia
biên giới. Các biện pháp quản lý rừng của ngành kiểm lâm - trước nạn
khai thác những cây nhỏ, gỗ tạp - là gần như... bất lực. Bởi lâm tặc đi
xe máy, cầm dao lội rừng như khách du lịch, đon "củi" (cây bán ra nước
ngoài) rất bé, bị đuổi là ném bỏ, vẫy tay chào cán bộ. Cán bộ vừa quay
lưng, là họ lại thản nhiên đẵn rừng cõng đi bán.
6. Ồ ạt vớt rong mơ, tự hủy diệt nguồn lợi thủy sản
Năm 2009, phong trào ồ ạt đi vớt
rong mơ bán cho TC với giá 4.500 đồng/ kg (khô) đã nở rộ ở một số tỉnh
ven biển như Quảng Nam, Quảng Ngãi. Không ai biết TC mua hàng này về làm
gì và thực sự giá trị thế nào, chỉ biết với giá mua hiện nay, người đi
vớt lẫn người đi gom hàng đều sống khỏe.
Cây rong mơ thường sống bám vào
rạn san hô, vốn là chỗ trú ẩn, kiếm ăn, sinh đẻ của nhiều loài thuỷ sản.
Đến tháng 5 và 6 hàng năm, cây rong mơ già đi phủ tràn lên mặt biển.
Lúc này đi vớt rong là được sản lượng cao nhất, lại làm sạch biển, tránh
cho tàu bè qua lại không bị gặp nguy hiểm vì quấn rong vào chân vịt.
Nhưng do ham muốn kiếm nhiều tiền, bà con đã đổ ra biển vớt rong từ
tháng 4, thậm chí tháng 3. Để có rong họ lặn xuống rạn, bứt đứt từng búi
rong cũng đồng thời giật vỡ đổ những tảng san hô.
Người dân đâu biết rằng: Vớt rong mơ hủy diệt nguồn lợi thủy sản
Nhiều người vớt rong thú nhận,
“để có thế bứt rong, họ phải đạp chân lên san hô, không tránh khỏi làm
sụp đổ rạn san hô, phá vỡ nơi cư trú của tôm cá”… Tình trạng này đã làm
môi trường biển ven bờ bị tàn phá, rạn san hô bị phá hủy, các loài hải
sản trở nên khan hiếm. Nhiều người than phiền, vài ba năm trước, một đêm
đi ven bờ cũng kiểm được vài trăm, vài chục ký cá kình, cà chuồn gành
nhưng đến nay, hầu như những loại cá này biến sạch, không còn 1 con.
Với việc thách giá cao, thương
lái TC khiến bà con ngư dân tự ra tay hủy diệt nguồn hải sản ven bờ,
nhiều người đặt câu hỏi: “Nếu cứ tự hủy diệt môi trường sinh thái như
thế này, một chục năm nữa, biển Đông sẽ biến thành cái gì, người dân
sống nhờ biển sẽ ra sao?”.
7. Bán dược liệu quý rẻ như bán khoai
Trước đây, khi người TC phát
hiện ra cây cỏ nhung, một loại cây mà người TC, đặc biệt là vùng Tây
Tạng, dùng nhiều để điều trị ung thư, tăng cường sức khỏe, có ở rừng
Hoàng Liên Sơn, từ độ cao 2.000m trở lên, họ đã tìm sang thu mua.
Họ mang cây cỏ nhung đó sang gặp
đồng bào người H’Mông, những người leo núi rất khỏe và đề nghị đồng bào
tìm cho họ những cây giống như thế. Lúc đầu, họ mua với giá 50 ngàn
đồng/kg. Thời gian sau, họ nâng lên 100 ngàn đồng/kg, rồi tới 500 ngàn
đồng. Bây giờ, khi loại cây này đã cực kỳ quý hiếm, họ đã nâng lên tới 1
triệu đồng/kg, gồm cả rễ lẫn đất. Tuy nhiên, khi phần lớn người dân ở
Lào Cai biết công dụng và giá trị của cây cỏ nhung, thì loài cây này gần
như đã tuyệt diệt. Khắp dãy Hoàng Liên Sơn, chỉ còn vài khu vườn nho
nhỏ có cỏ nhung, do người dân am hiểu về thuốc trồng.
Kỳ khôi nhất là chuyện người TC
sang Lào Cai thu mua… “khoai lang núi”. Họ cũng cầm một loại củ, có thân
ngoằn ngoèo như con rắn, mỗi đốt thân dài chừng nửa cm sang Lào Cai gặp
đồng bào H’Mông. Họ bảo rằng, họ cần thu mua những củ “khoai lang núi”
này để… ăn chống đói.
Thế là, đồng bào ầm ầm vào rừng
Hoàng Liên Sơn, đào bới không biết bao nhiêu “khoai lang núi”, hết tấn
nọ đến tấn kia, bán cho người ta. Lúc đầu, giá mỗi kg “khoai lang núi”
chỉ vài chục ngàn, rồi tăng lên vài trăm ngàn đồng. Khi người Trung Quốc
nâng giá “khoai lang núi” lên vài triệu một kg, thì có "bói" cũng chả
tìm ra củ nào nữa.
Qua tìm hiểu, mới vỡ lẽ ra rằng,
cái củ mà đám con buôn người TQ nói với đồng bào H’Mông là “khoai lang
núi” thực ra là thiết trúc nhân sâm. Đây là một loại sâm mà thân có đốt
như cây trúc, nhưng đốt rất ngắn. Mỗi năm, cây sâm này chỉ ra một đốt.
Đồng bào ta đã hăng hái nhổ những củ sâm có tuổi hàng trăm năm trời, quý
ngang sâm Ngọc Linh và sâm Triều Tiên, bán cho người TC rẻ như bán
khoai.
Cuối tháng 11/2010, mặc cho mưa
rét, từng đoàn người từ khắp nơi vẫn đổ về huyện vùng cao Kon Plông
(tỉnh Kon Tum) thuộc vùng đông Trường Sơn để săn lá cây kim cương, bán
cho các đầu nậu thu gom qua Trung cộng.
Học trò còn bỏ học để đi săn lá cây kim cương
Ban đầu, loại cây mọc đầy xung
quanh nhà dân này được bán với giá 250.000 đồng/kg nhưng sau giá tăng
vọt mỗi ngày, có thời điểm bán được 600.000 - 800.000 đồng/kg, thậm chí
lên đến 1,2 triệu đồng/kg. Có rất nhiều học sinh ở các xã Đăk Tăng, Măng
Bút, Pờ Ê, Măng Cành... (huyện Kon Plông) đã bỏ học vào các khu rừng
già để tìm hái cây kim cương.
Chủ tịch UBND huyện Kon Plông
Huỳnh Tấn Phục cho biết: Tuy chưa rõ công dụng của lá kim cương là thế
nào nhưng được thu mua với giá cao như vậy, chắc chắn đây là một loại
cây quý, rất cần các nhà chuyên môn nghiên cứu và có kết luận chính
thức, để huyện sớm có chủ trương bảo tồn và phát triển trước khi quá
muộn.
8. Cơn sốt đỉa: Thoát nghèo hay hiểm họa?
Gần đây nhất, vào khoảng tháng
4/2011, câu chuyện buôn bán đỉa sang Trung+ kiếm bạc triệu đang khiến dư
luận sửng sốt, còn các nhà khoa học, các chuyên gia cảnh báo rằng nếu
phong trào này lan rộng, hậu quả sẽ khó lường. Khắp các tỉnh như Lào
Cai, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên… rộ lên “cơn sốt” đỉa. Trên các
trang mạng, không ít người rao mua với giá 10.000 đồng/con.
Nông dân ở huyện Quảng Trạch,
Quảng Bình cho hay: “Tôi thấy đi bắt đỉa đem bán thu nhập còn gấp mấy
lần so với việc hì hục làm mấy sào ruộng. Nếu thương lái thu mua cần số
lượng lớn và đảm bảo thu mua dài lâu, chắc chúng tôi sẽ tính đến chuyện
nuôi đỉa đem bán, mỗi kg đỉa giá 1,5 – 2 triệu đồng, tội gì chúng tôi
không làm”.
Nhiều người dân có ý định nuôi đỉa - loài hút máu người để bán sang TC vì giá cao
Đứng trước nguy cơ người dân sẽ ồ
ạt tổ chức nuôi đỉa để cung cấp cho Trung Quốc, Hội Động vật học Việt
Nam cho rằng: Đỉa là loài rất dễ sinh sôi nảy nở trong mọi điều kiện
trong khi đó tiêu diệt đỉa lại vô cùng khó khăn. Nếu người dân nuôi
nhiều, nếu không kiểm soát được, một lượng lớn đỉa tràn ra môi trường tự
nhiên thì lúc đó hậu họa sẽ không thể tính hết được.
Viện trưởng Viện Sinh Thái và
Tài nguyên sinh vật (Viện KHCN VN) – PGS.TS Lê Xuân Cảnh cho hay: “Người
dân hay làm theo phong trào, theo đám đông vì lợi ích kinh tế trước
mắt, mà không nghĩ đến hậu quả phía sau. Nếu người dân nuôi đỉa tràn lan
không kiểm soát sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến cân bằng môi trường sinh
thái. Muốn tiêu hủy đỉa cần phải ngâm cồn rồi đốt thì đỉa mới chết.
Theo Lương Y đa khoa Phạm Đình
Chương (Tây Sơn - Đống Đa), đỉa là loại động vật hút máu, chúng có đặc
điểm là sinh sản cực kỳ nhanh. Việc người dân nuôi đỉa khác nào tiếp tay
cho loại động vật này sinh sôi thêm.
9. Vì sao gỗ sưa có giá 11 tỷ đồng/m3?
Vào tháng 4/2010, phần lớn những
cây gỗ sưa của Việt Nam đều đã bị triệt hạ do “sưa tặc” và những kẻ
tham lam. Đã có cả cán bộ tiếp tay cho “sưa tặc” để kiếm lời. Đỉnh điểm
của cơn sốt gỗ sưa là vụ bán đấu giá hơn 300kg lõi gỗ sưa ở sân UBND xã
Tuân Chính (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc). Hơn 300kg lõi gỗ sưa thu được từ cây
sưa bị đốn hạ trong sân ủy ban đã được một người mua với giá 1,3 tỷ
đồng. Rồi cây sưa thủng gốc ở trụ sở Tỉnh ủy Vĩnh Yên đã được một lái
buôn trả giá tới 1,5 tỷ đồng mà chưa mua được. Như vậy, một mét khối lõi
gỗ sưa có giá trị thực tới 11 tỷ đồng (một mét khối nặng chừng 2,5
tấn). Quả là khủng khiếp!
Đi săn gỗ sưa vì gỗ sưa có giá 11 tỷ đồng/m3
Để tìm hiểu vì sao người Trung +
lùng mua ráo riết loại cây mà người Việt không coi trọng, một đoàn khảo
sát gồm các nhà khoa học nước ta đã sang TQ tìm hiểu về giá trị gỗ sưa.
Tuy nhiên, kết quả thu được là con số không tròn trĩnh. Phía TQ chỉ
giải thích chung chung rằng, họ mua gỗ sưa để phục vụ vấn đề tâm linh,
làm đồ thờ cúng, đồ gia bảo.
Tuy nhiên, ông Trần Ngọc Lâm,
người sống trong rừng Hoàng Liên Sơn (Sapa, Lào Cai), từng lái xe thuê
nhiều năm cho người TQ, chở hàng từ Lào Cai xuyên qua TC, lên Tây Tạng,
sang tận vùng Tây Á cho hay: Người TQ cực kỳ cao thủ trong việc thu mua
nguyên liệu từ nước ngoài. Không bao giờ họ tiết lộ công dụng của những
thứ mà họ sẽ mua. Bởi vì, nếu công dụng của thứ họ mua lộ ra, người khác
sẽ biết cách chế biến, sử dụng, như vậy, họ sẽ khó thu mua tiếp, hoặc
phải thu mua với giá cao.
Ông Lâm đã sang tận Trung + để
dò hỏi, gặp trực tiếp Tiến sĩ, Thiếu tướng quân y Vương Đức Tài, Chủ
nhiệm Trung tâm thuốc Trung Y (Trung Quốc) và được biết: Với người TC,
ngoài việc sử dụng gỗ sưa làm mộc như các loại gỗ quý khác, thì gỗ sưa
còn có dược tính, đặc biệt quan trọng là trị được căn bệnh viêm xương
quái đản. Từ lâu, người TQ đã chiết xuất từ lõi cây sưa đỏ ra một hoạt
chất và dùng hoạt chất này điều trị bệnh viêm xương rất hiệu quả.
Nghe vị tướng đứng đầu một trung
tâm dược phẩm nói thế, ông Lâm mới ngã ngửa lý do tại sao TC “kín
tiếng” như vậy trong việc mua gỗ sưa. Cũng giống như vụ mua cỏ nhung,
“khoai lang núi”, xem ra chỉ khi nào lãnh thổ VN hết sạch gỗ sưa, may ra
mới biết rõ người TQ thu mua gỗ sưa với giá cắt cổ để làm gì?!
****************************************
“Chúng ta cần phải tỉnh táo”
Ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng
Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), trao đổi với Tiền Phong đã cho biết: Chúng
ta cần phải tỉnh táo để nhận định việc tư thương Trung Quốc vào tận vườn
lùng mua nông sản. Thực tế, nước ta sát Trung +, nên xác định đây là
thị trường tốt để tiêu thụ nông sản của ta. Và khi họ có nhu cầu, là cơ
hội rất tốt cho nông sản Việt Nam, nông dân được lợi.
Tuy nhiên, nếu họ thay đổi chích
sách, việc tiêu thụ hàng nông sản của Việt Nam gặp rất nhiều rủi ro, và
nhiều bài học đã diễn ra với nhiều hàng nông sản của ta như hoa quả,
rau, cao su, cà phê, hồ tiêu, vải thiều…
“Việc họ mua giá cao có tính tức
thời, nó phá vỡ quy hoạch sản xuất của chúng ta, như sắn là một bài
học. Khi giá sắn cao lên, thì diện tích cây sắn sẽ lấn những cây trồng
khác, mà chủ trương của ta thì không thể phát triển cây sắn một cách tùy
tiện được, nhất là quảng canh, dễ dẫn đến phá rừng, lấn đất ruộng, đất
mía…, tức là phá vỡ quy hoạch sản xuất. Bài toán trồng - chặt, đã diễn
ra ở nhiều địa phương”- ông Ngọc nói.
Từ lâu, người Trung Quốc đã chiết xuất từ lõi cây sưa đỏ ra một loại chất và điều trị bệnh viêm xương rất hiệu quả.
Vị thiếu tướng của Trung Quốc đã
nói với ông Lâm rằng, với người Trung Quốc, ngoài việc sử dụng gỗ sưa
làm mộc như các loại gỗ quý khác, thì gỗ sưa còn có dược tính đặc biệt,
trị được căn bệnh viêm xương quái đản.
Từ lâu, người Trung Quốc đã chiết xuất từ lõi cây sưa đỏ ra một loại chất và điều trị bệnh viêm xương rất hiệu quả.
Chuyến đi Trung Quốc tìm lời
giải cho câu hỏi: “Người Trung Quốc mua gỗ sưa làm gì?” của các nhà khoa
học Việt Nam thất bại, rồi hàng loạt vụ trộm sưa diễn ra, rồi giá của
một khối gỗ sưa lên đến cả chục tỷ đồng, khiến những lời đồn về gỗ sưa
càng thêm phần huyền bí.
Trên các diễn đàn mạng của Việt
Nam một thời, người ta đồn thổi không biết bao chuyện huyễn hoặc về gỗ
sưa. Rằng, người Trung Quốc mua gỗ sưa bán cho giới mafia, để chúng
nghiền thành bột, pha trộn với ma túy, để tăng lợi nhuận mà vẫn giữ được
công dụng của ma túy.
Rồi, các đại gia Trung Quốc thu
mua gỗ sưa làm chất ướp xác, làm bùa ngải hại người. Thậm chí, hài ước
đến nỗi, người ta còn đồn rằng, người Nhật mua gỗ sưa ép lấy dầu dùng
cho việc… phóng tàu vũ trụ!
Tôi đã nhờ Thạc sĩ Đặng Vân
(Deng Yun), người Tứ Xuyên, Trung Quốc, tra cứu trên các phương tiện
truyền thông của Trung Quốc, và thấy rằng những tin đồn như trên xuất
hiện trên các trang web "lá cải", hoặc các diễn đàn. Những tin đồn này
được dịch ra tiếng Việt, rồi người ta thêm mắm thêm muối, khiến cho lời
đồn về gỗ sưa càng thêm bí ẩn.
TS Nguyễn Lân Cường, chuyên gia
mộ xác ướp bác bỏ ngay thông tin dùng gỗ sưa ướp xác. Đơn giản vì gỗ sưa
không có tinh dầu. Với lại, chất ướp xác trong các ngôi mộ hợp chất đã
được xác định rõ là gỗ ngọc am (Trung Quốc gọi là san mộc), chứ không
phải là gỗ sưa.
"Người rừng" Trần Ngọc Lâm từng sang tận Trung Quốc để tìm hiểu về gỗ sưa.
Ở Việt Nam, ngoài đoàn nhà khoa
học “bí ẩn” mà GS Phùng Tửu Bôi kể lại, thì có một người đã trực tiếp
sang tận Trung Quốc để hỏi cho ra nhẽ về cây gỗ sưa, đó chính là ông
Trần Ngọc Lâm, người sống trong rừng Hoàng Liên Sơn (Sapa, Lào Cai).
Ông Lâm từng bị bệnh ung thư,
từng lái xe thuê nhiều năm cho người Trung Quốc, chở hàng từ Lào Cai
xuyên qua Trung Quốc, lên Tây Tạng, sang tận vùng Tây Á. Trong thời gian
này, ông đã học được nhiều bài thuốc của người Trung Quốc và người Tây
Tạng, có nhiều mối quen biết với những người liên quan đến ngành dược.
Hiện ông sống trong rừng Hoàng Liên Sơn và tự chữa bệnh ung thư phổi cho
mình.
Theo ông Lâm, cơn sốt gỗ sưa đã
tràn sang Lào Cai đầu tiên, vì Lào Cai giáp với Trung Quốc, có cửa khẩu
thuận lợi đi lại, buôn bán.
Ông Lâm cho hay, người Trung
Quốc cực kỳ cao thủ trong việc thu mua nguyên liệu từ nước ngoài. Không
bao giờ họ tiết lộ công dụng của những thứ mà họ sẽ mua. Bởi vì, nếu
công dụng của thứ họ mua lộ ra, người khác sẽ biết cách chế biến, sử
dụng, như vậy, họ sẽ khó thu mua tiếp, hoặc phải thu mua với giá cao.
Cây cỏ nhung đã bị người Trung Quốc thu mua sạch sẽ. Hiếm hoi lắm mới tìm thấy một cây nhỏ xíu trong rừng.
Ông Lâm lấy ví dụ, khi người
Trung Quốc phát hiện ra cây cỏ nhung, một loại cây mà người Trung Quốc,
đặc biệt là vùng Tây Tạng dùng nhiều để điều trị ung thư, tăng cường sức
khỏe, có ở rừng Hoàng Liên Sơn, từ độ cao 2.000m trở lên, họ đã tìm
sang thu mua.
Họ mang cây cỏ nhung đó sang gặp
đồng bào người H’Mông, những người leo núi rất khỏe và đề nghị đồng bào
tìm cho họ những cây giống như thế. Lúc đầu, họ mua với giá 50 ngàn
đồng/kg. Thời gian sau, họ nâng lên 100 ngàn đồng/kg, rồi tới 500 ngàn
đồng. Bây giờ, khi loại cây này đã cực kỳ quý hiếm, họ đã nâng lên tới 1
triệu đồng/kg, gồm cả rễ lẫn đất.
Khi người dân Sapa biết công dụng của loài cỏ nhung, thì nó đã bị tuyệt diệt.
Ông Lâm là người sống ở Trung
Quốc nhiều năm, lại học được bài thuốc, tự chữa bệnh ung thư phổi cho
mình bằng cây cỏ nhung, nên ông hiểu rất rõ giá trị của loại cây này. Từ
cả chục năm trước, ở Trung Quốc và Nhật Bản, cỏ nhung đã có giá tới 5
triệu đồng/kg lá tươi. Tuy nhiên, khi phần lớn người dân ở Lào Cai biết
công dụng và giá trị của cây cỏ nhung, thì loài cây này gần như đã tuyệt
diệt. Khắp dãy Hoàng Liên Sơn, chỉ còn vài khu vườn nho nhỏ có cỏ
nhung, do ông Lâm trồng.
Kỳ khôi nhất là chuyện người
Trung Quốc sang Lào Cai thu mua… “khoai lang núi”. Họ cũng cầm một loại
củ, có thân ngoằn ngoèo như con rắn, mỗi đốt thân dài chừng nửa cm sang
Lào Cai gặp đồng bào H’Mông. Họ bảo rằng, họ cần thu mua những củ “khoai
lang núi” này để… ăn chống đói.
Thế là, đồng bào ầm ầm vào rừng
Hoàng Liên Sơn, đào bới không biết bao nhiêu “khoai lang núi”, hết tấn
nọ đến tấn kia, bán cho người ta. Lúc đầu, giá mỗi kg “khoai lang núi”
chỉ vài chục ngàn, rồi tăng lên vài trăm ngàn đồng. Khi người Trung Quốc
nâng giá “khoai lang núi” lên vài triệu một kg, thì có "bói" cũng chả
tìm ra củ nào nữa.
Người Trung Quốc thu mua gỗ sưa để làm gì?
Cũng lại ông Trần Ngọc Lâm, đã
mò sang tận Trung Quốc tìm hiểu, mới vỡ lẽ ra rằng, cái củ mà đám con
buôn người Trung Quốc nói với đồng bào H’Mông là “khoai lang núi” thực
ra là thiết trúc nhân sâm. Đây là một loại sâm mà thân có đốt như cây
trúc, nhưng đốt rất ngắn. Mỗi năm, cây sâm này chỉ ra một đốt. Đồng bào
ta đã hăng hái nhổ những củ sâm có tuổi hàng trăm năm trời, quý ngang
sâm Ngọc Linh và sâm Triều Tiên, bán cho người Trung Quốc rẻ như bán
khoai.
Và gần đây, đến lượt cây gỗ sưa.
Đã có thời kỳ, đồng bào ầm ầm vào rừng Hoàng Liên Sơn truy tìm những
cây gỗ sưa, đem bán cho người Trung Quốc với giá rẻ như các loại gỗ
khác. Theo ông Lâm, những loài gỗ khác, mọc trong Hoàng Liên Sơn đã cực
kỳ chậm lớn, nhưng cây sưa còn chậm lớn hơn. Một cây sưa thân to bằng
cái phích có thể phải mất cả trăm năm sinh trưởng. Vì thế, những cây sưa
to cỡ cái phích, đã cho lõi rất dày.
Tôi đã từng có nhiều chuyến đi
rừng với ông Lâm và không ít lần ông chỉ tay vào những khu đất trống bảo
rằng: “Trước kia, chỗ này có nhiều sưa lắm!”. Tôi và ông Lâm đi mãi,
chỉ gặp những chồi sưa mới mọc lên từ gốc cây đã bị lâm tặc đốn hạ. Từ
khi người dân trong nội địa nước ta chưa biết gỗ sưa là cây gì, có tác
dụng gì, thì đồng bào, lâm tặc ở vùng Lào Cai đã chặt phá tan tành, đem
hết gỗ sưa sang Trung Quốc bán rồi.
Để tìm hiểu vì sao người Trung
Quốc lùng mua ráo riết loại cây mà người Việt không coi trọng, ông Trần
Ngọc Lâm đã sang tận Trung Quốc để dò hỏi. Ông Lâm đã gặp trực tiếp Tiến
sĩ, Thiếu tướng quân y Vương Đức Tài, Chủ nhiệm Trung tâm thuốc Trung Y
(Trung Quốc). Ông Tài là người đã từng gặp ông Lâm đề nghị mua công
thức bài thuốc Mỹ nhân thang mà ông học được từ người Tây Tạng, song ông
Lâm không bán.
Một cây sưa trong rừng Hoàng Liên Sơn đã bị lâm tặc chặt hạ từ lâu, giờ mới mọc nhánh.
Vị thiếu tướng của Trung Quốc
này đã nói với ông Lâm rằng, với người Trung Quốc, ngoài việc sử dụng gỗ
sưa làm mộc như các loại gỗ quý khác, thì gỗ sưa còn có dược tính, đặc
biệt quan trọng là trị được căn bệnh viêm xương quái đản. Từ lâu, người
Trung Quốc đã chiết xuất từ lõi cây sưa đỏ ra một hoạt chất và dùng hoạt
chất này điều trị bệnh viêm xương rất hiệu quả.
Nghe vị tướng đứng đầu một trung
tâm dược phẩm nói thế, thì ông Lâm chỉ biết tin vậy. Còn thực hư về
công dụng gỗ sưa thế nào, ông vẫn không thể chắc chắn. Theo ông Lâm,
cũng giống như “khoai lang núi” và cây cỏ nhung, chỉ khi nào lãnh thổ
Việt Nam hết sạch gỗ sưa, may ra mới biết rõ người Trung Quốc thu mua gỗ
sưa với giá cắt cổ để làm gì.
Mấy ngày gần đây, giá thịt heo
trên đột ngột tăng mạnh trở lại, vượt qua “đỉnh” hồi tháng 4-2011, do
nguồn cung ở các tỉnh phía Bắc thiếu hụt nặng, đặc biệt là do thương lái
Trung Quốc đang gom hàng ồ ạt.
Giá heo lập kỷ lục mới
Chỉ trong tuần đầu tiên của
tháng 6.2011, giá heo hơi trên thị trường Đông Nam Bộ đột ngột tăng mạnh
trở lại, từ 53.000 – 55.000 đồng/kg lên hơn 60.000 đồng/kg.
Ông Cao Quang Khải - chủ trại
heo ở huyện Trảng Bom, Đồng Nai, cho biết giá heo hơi các công ty mua
tại chuồng trong ngày 15.6 đã là 61.000 đồng/kg. Còn theo ông Ngô Trí
Công - chủ trại heo Trí Công (Đồng Nai) thì giá heo trại anh đang bán là
62.000 đồng/kg, vượt mức “đỉnh” hồi tháng 4 vừa qua 1.000 đồng/kg.
Thương lái Trung Quốc vào Việt Nam mua cả heo đạt tiêu chuẩn xuất chuồng và heo con.
Đại diện các Công ty Vissan và
CP cũng xác nhận giá heo hơi họ thu mua tại chuồng trong ngày 15.6 đã là
61.000 đồng/kg. Ông Trần Văn Hạt - Giám đốc kinh doanh Công ty CP, cho
biết đó là giá bán ra tại thị trường miền Nam, còn tại thị trường miền
Bắc giá heo hơi đã lên đến 63.000 đồng/kg. Theo ông, mức giá này sẽ còn
tăng.
Tương ứng, giá bán lẻ thịt heo
tại các chợ TP.HCM trong tuần qua cũng tăng mạnh lại bằng giá “đỉnh”
tháng 4. Hiện giá thịt ba rọi, thịt đùi tại các chợ Bà Chiểu, Hoàng Hoa
Thám,… đã là 110.000 – 130.000 đồng/kg, tăng hơn 10.000 đồng/kg so với
tuần trước.
Về nguyên nhân thịt heo tăng
giá, theo ông Hạt là do thị trường đang hút hàng ra Bắc do nguồn cung bị
thiếu hụt nặng và giá bán chênh lệnh cao. Ước tính hiện trung bình mỗi
ngày có từ 1.700 – 1.800 con heo, có ngày đến gần 2.000 con, được vận
chuyển ra Bắc, tăng khoảng 30 – 40% so với nhu cầu những ngày bình
thường. Từ đây, heo được tiêu thụ ở thị trường nội địa một phần còn phần
lớn được xuất khẩu qua Trung Quốc.
Thương lái ngoại ồ ạt gom hàng
Theo các thương lái và doanh
nghiệp, đang có hiện tượng thương nhân Trung Quốc qua gom heo của Việt
Nam, “với số lượng bao nhiêu cũng mua và giá nào cũng mua” – ông Nguyễn
Văn Thản - Trưởng phòng Kinh doanh, Công ty Vissan thông tin.
Ông bày tỏ sự lo lắng khi mấy
ngày nay, nhân viên công ty ông đi đến đâu thu mua heo cũng được người
nuôi thông báo là đã bán cho thương lái Trung Quốc: “Tại các tỉnh như
TP.HCM, Long An, Cần Thơ, An Giang, Bến Tre… đâu đâu cũng có dấu chân
của họ. Họ thu gom không chỉ heo thịt mà còn “tận thu” cả heo nái, heo
sữa, heo con”.
Đồng Nai, theo ông Cao Quang
Khải và ông Ngô Trí Công, chưa thấy thương lái Trung Quốc trực tiếp đến
tận nơi tìm mua heo. “Nhưng mấy ngày nay lại có hiện tượng thương lái
Việt Nam đẩy mạnh việc thu mua để đưa ra miền Bắc, tôi có hỏi thì họ thì
nói để xuất qua Trung Quốc” – ông Công nói.
Ông Lê Bá Lịch - Chủ tịch Hiệp
hội Thức ăn chăn nuôi, cũng xác nhận ở thị trường miền Bắc mấy ngày nay
thịt lợn từ các tỉnh phía Nam đổ về khá nhiều, giá heo hơi nhiều nơi đã
lên 63.000 đồng/kg. “Từ đây, một số lượng lớn đã được vận chuyển qua
Trung Quốc theo đường tiểu ngạch” - ông Lịch nói.
Không chỉ mua heo còn sống ở các
trang trại, hộ nuôi, thương nhân Trung Quốc còn “xông vào” tận tổng
hành dinh của Công ty Vissan để đặt hàng mua heo đã qua sơ chế và pha
lóc các loại với giá cao hơn hẳn giá công ty đang bán lẻ trên thị
trường. Họ mua từ thịt sườn cốt lết, ba rọi, nạc dăm, chân giò đến da
heo, lòng heo, lưỡi heo, bao tử,… không chừa loại nào với giá cao hơn từ
6.000 – 25.000 đồng/kg tùy loại.
Cụ thể, nếu giá da heo Vissan
đang bán trên thị trường là 32.000 đồng/kg thì họ đặt mua với giá 38.000
đồng/kg, sườn già giá Vissan là 75.000 đồng/kg thì thương nhân Trung
Quốc chào mua 100.000 đồng/kg; sườn non 137.000 đồng/kg (giá Vissan là
125.000 đồng/kg)…
Đại diện Công ty Vissan
Số lượng thịt lợn, gà các thương
lái Trung Quốc đặt mua của Vissan là không hạn chế. Nhưng chúng tôi
chưa đồng ý bán cho họ vì mục tiêu của chúng tôi là vẫn phải ưu tiên
cung cấp cho thị trường trong nước.
Cái án “thôn 100% hộ nghèo” đang
đè nặng lên dân bản Khe Phạ, xã Bắc Lãng (Đình Lập – Lạng Sơn). Cả làng
đong gạo đã mấy chục năm nay, trung bình 2 – 3 tháng mỗi năm, có hộ
đong đến 6 – 7 tháng. Nguyên nhân sâu xa chính là do họ đã vét cạn sản
vật rừng đem bán cho Trung Quốc.
Vét cạn sản vật rừng
Ông Lý Văn Tựu, trưởng thôn Khe
Phạ kể lại: Những năm 1985 trở về trước, Khe Phạ nhiều hươu, nai, hoẵng,
rùa, rắn, cầy hương, gà rừng, lợn rừng... Có những người, ngày bẫy được
2 đến 3 con cầy hương, bán cũng được tiền triệu. Khi đó 1 triệu mua
được nhiều thứ lắm. Bây giờ lên rừng chặt cây tre, cây dóc, cây củi đem
bán được 1 đến 2 trăm nghìn không đủ mua gạo, cân mỡ, mấy con cá mặn nữa
chú ạ”.
Hãn hữu lắm mới được một bữa cháo
Ông T, thương lái chuyên mua
hàng dọc tuyến quốc lộ 4B cho biết: “Trung Quốc thích nhất là động vật
tươi sống như: rùa, rắn, hưu, hoẵng, tắc kè, tong tóng... Đến những năm
2000 là hầu như không còn nữa, tôi lại đi mua cây cỏ như cây chân chim,
đinh lăng, hoàng đằng... Bây giờ thì cả cây thảo dược cũng cạn rồi. Tôi
không đi buôn nữa!”.
Khoảng những năm 2000, xã Bắc
Lãng đã rất ít thú rừng, người dân đổ xô đi tìm, khai thác cây thảo
dược: nấm Lim, cây hoàng đằng, cây chân chim... bất kể loại nào ra tiền
là người dân đổ xô đi tìm, có những cây họ nhổ cả gốc lẫn lá. Không cần
biết đấy là cây gỗ quý, cây thảo dược hiếm được nhà nước bảo vệ, họ cũng
không biết Trung Quốc mua những thứ đó về làm gì, chỉ cần no cái bụng
là họ làm. Kể cả chặt phá rừng.
Từ năm 2009 trở đi, cây thảo
dược dần cạn kiệt. Cái nghèo “ập đến” đẩy dân bản đến đói kém. Nạn đói
năm 2010, kéo dài qua năm 2011 và không biết nó sẽ dừng lúc nào?
Hai bố con đi kéo gỗ đem bán, kiếm tiền đong gạo
Ông Nông Vĩnh Bảo, phó chủ tịch
UBND xã Bắc Lãng cho biết: “Rất khó để bắt những kẻ buôn bán hàng tươi
sống, có rất nhiều thương nhân đến tận nơi thu mua nhỏ lẻ rồi mới tìm
cách bán sang Trung Quốc. Chúng có thể bán qua lối Bản Chắt, cửa khẩu
Chi Ma (Đình Lập – Lạng Sơn), hay cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn), Móng
Cái (Quảng Ninh)...
Hơn nữa, thôn Khe Phạ chủ yếu
sống nhờ vào sản vật rừng. Người dân nơi đây đào mã kích, tìm nấm lim,
chặt cây mây, săn con rắn, bắt con rùa, mò từng con cua, con ốc bán cho
Trung Quốc... Cứ thấy cái gì Trung Quốc thu mua là họ bán, có cây họ nhổ
cả gốc lẫn rễ đem bán. Họ không chú trọng vào làm nương rẫy, nên khi
hết sản vật rừng là đói kém”.
Ông Bảo cho biết: Toàn xã có 11
thôn bản, trong đó có 3 thôn có 100% hộ nghèo, đó là khe Hả, Khe Phạ,
Khe Chòi, tỉ lệ nghèo của cả xã là 77 %. Trong đó Khe Phạ là thôn đói
kém nhất xã.
“Cả làng... 20 năm đong gạo ăn”
Chúng tôi tìm đến nhà ông Bàn
Quý Dánh, gia đình có 11 miệng ăn, nghèo nhất Khe Phạ. Gia đình phải
mang cái án “hộ nghèo”, “20 năm đong gạo ăn”. Bữa cơm may mắn chông vào
cây mây, cây dóc tép cả nhà đi chặt đem bán được khoảng 1 trăm ngàn,
kiếm đã khó, lại rất khó bán vì dóc quá non, khi đó cả nhà phải “treo
nồi”.
Biết lấy gì nuôi con
“Năm 2009, tôi mượn nhà nước 15
triệu mua được 1 con trâu và 3 con lợn để phục vụ sản xuất. Năm 2010,
dịch lở mồm long móng đã cướp đi con trâu cày và 1 con lợn, “có lẽ người
phải kéo cày thay trâu rồi! Tết năm 2010, người ta thịt lợn, gói bánh,
mình phải đong gạo ăn. Nạn đói năm 2010 chưa chấm dứt, ngay tháng đầu
năm 2011, gia đình đã phải mua gạo, giá gạo lại đắt đỏ nữa chứ. Chỉ tính
từ năm 2010 đến tháng 4 năm 2011, gia đình tôi đong hết 10 triệu tiền
gạo, trung bình mỗi tháng 1 triệu. Không biết còn phải đong đến lúc nào
nữa”, ông Dánh bi đát, ngậm ngùi.
Gia đình nheo nhóc của ông Bàn Quý Dánh
Gia đình ông trưởng thôn cũng
đang trong tình trạng hoang mang: “Chúng tôi ít ruộng, năm nào cũng phải
đong gạo ăn. Làm việc quần quật, vật lộn để thắng cái đói, cả nhà đi
vào rừng kiếm cây dóc tép đem bán vẫn không đủ đong gạo. Cũng như những
hộ dân khác trong bản, chúng tôi phải đong gạo ăn từ những tháng đầu
năm. Mấy đứa trẻ học trường làng không đủ tiền mua sách, mua vở, quần áo
cho chúng nó. 8 miệng ăn, mỗi tháng trợ cấp tiền cho 1 đứa học ở nội
trú tỉnh, tất cả đều được trông cậy vào 3 sào ruộng, 3 ha rừng, hỏi làm
sao không đói?.
Nhiều người đã “bỏ quê”, làm
thuê tứ xứ kiếm tiền gửi về nuôi gia đình. Năm 2011 ở xã Bắc Lãng có đợt
“di dân” hàng loạt công nhân vào Quảng Trị làm nhựa thông, Khe Phạ có 4
người đi, không những không đủ ăn, mà còn phải xin nhà lấy tiền xe về
quê.
Bố mẹ "bỏ" con đi kiếm tiền
Hầu hết những đứa trẻ ở bản này
chỉ học hết lớp 5 rồi bỏ, số ít học dở dang cấp 2. Đành rời ghế nhà
trường khi bố mẹ không đủ tiền cho con học nữa. Năm đứa con của ông Bàn
Quý Dánh, đang có nguy cơ bỏ học giữa chừng. 4 đứa học trường làng, học
xong thì về nhà, “chúng rất hay bỏ học, tôi chửi nó bảo “đi học có no
đâu, đi tìm mã kích, chặt cây tre dóc còn mua được kẹo ăn”.
Một đứa đang học ngoài xã, tuần
nào cũng về lấy gạo, thức ăn đi dự trữ cả tuần. Mỗi lần lấy ít gạo và
sắn để con đi học, ông Dánh không quên dặn con “phải nấu cho sắn chín
rồi cho ít gạo vào mới nhừ”. Nguy cơ những đứa con ông Dánh phải bỏ học
đang đến rất gần.
Cô Phạm Thị Hiền, giáo viên dạy ở
trường tiểu học Khe Phạ bày tỏ: Khó khăn nhất là khi chúng tôi đi vận
động mấy đứa nhỏ đi học. Khốn khổ những ngày mưa gió, đi 6 km vào đến
trường. Lớp vắng tanh, lại phải đội mưa đi vận động các em đến lớp.
Những ngày lễ tết, ngày rằm, chúng nó không chịu đi học. Đến vận động,
gia đình nói: “đi học không no”, chúng tôi phải nói dối là “không đi học
sẽ trừ tiền” (hộ nghèo được nhà nước hỗ trợ mỗi đứa 1 trăm/tháng) thì
mới cho con đi học.
Trường làng vắng bóng em thơ
Ông Lý Văn Tựu, trưởng thôn Khe
Phạ cho biết “cả thôn có 24 hộ, 142 nhân khẩu, 100% hộ nghèo. Rất nhiều
năm thôn phải mang cái án “xã 100% hộ nghèo”. Nạn đói năm 2010, rất
nhiều hộ không có nổi ít tiền để đong gạo ăn, nhiều gia đình phải đón
tết với cơm trộn sắn.
Ông Tựu than: “Chúng đang chịu
cảnh cơ cực nhất. Hộ nào được coi là “khá giả” chút ở bản nghèo, tức là
có bữa có cơm, bữa không, nhưng cũng phải đóng ít nhất 2 – 3 tháng, còn
nhà nhiều thì đong 6 đến 7 tháng. Năm nay có khi phải đong gạo ăn cả năm
rồi”.
Sự sống “lay lắt” còn đang được
vét cạn cùng cây dóc “tép”, những cây thảo dược còn sót lại, mẩu gỗ
vụn... Thật ám ảnh khi chúng tôi bắt gặp hai bố con đi kéo khúc gỗ nhỏ
đem bán, thấy tôi chụp ảnh, người bố sợ sệt: “Không được báo kiểm lâm
đâu đấy !”.
Không chỉ thu mua, nhiều môi
giới chuyên gom hàng cho thương lái Trung Quốc còn vận động nông dân phá
bỏ cây lúa, trồng cây nông sản để bán sang Trung Quốc. Không ít nông
dân rơi vào cảnh mất mùa điêu đứng vì chuyển đổi cây trồng.
Những bài học xương máu
Gần 30 năm có kinh nghiệm trồng
trọt hoa màu, ông Vũ Văn Phong (Đông Hưng, Thái Bình) cảm thấy tiếc nuối
nhất là những lần mắc bẫy người ngoài đi phá lúa trồng cây nông sản bán
cho Trung Quốc.
“Trong đời làm nông, tôi nhớ
nhất là những bài học xương máu của những năm 90, khi nhà nhà bỏ lúa
quay sang trồng vải thiều. Sau 4,5 năm đầu tư giống, công chăm sóc, đến
ngày sắp thu mới phát hiện toàn bộ giống vải đó là vải lai, năng suất
rất thấp, chất lượng quả kém hoặc có cây không cho quả khiến nhiều người
phải nuốt nước mắt chặt bỏ vải lai, chuyển sang trồng lúa", ông Phong
kể.
Vài năm sau, người dân lại đổ xô
đi lấp ruộng làm vườn để trồng hoa hòe bán cho Trung Quốc. “Khi đó một
cân hòe ngang với 20 cân thóc, nhưng khi nhà nào cũng trồng hoa hòe để
bán thì hòe rớt giá thảm hại. Có mùa, hoa hòe xuống giá chỉ còn 12 đến
13 nghìn đồng/kg mà thu được 1 kg hoa hòe đâu có dễ. Người dân lại nản,
bắt đầu chặt cây hòe. Một số nhà để lại vài cây cho râm nhà, râm vườn
thì bây giờ hòe lại có giá. Giá hòe hiện tại là 130 nghìn đến 140 nghìn
đồng/kg nhưng đa số hòe còn lại trong dân chủ yếu là những cây hòe già,
không cho nhiều hoa. Nhưng tôi biết, vì hoa hòe đang hiếm, giá mới cao
như thế chứ lại ồ ạt đi trồng hòe, có khi thương lái Trung Quốc lại ép
giá thê thảm” – ông Phong nhớ lại.
Cách đây 3 năm, một vài người
môi giới đến vận động bà con trong xã trồng ớt Hàn Quốc để thu mua bán
sang Trung Quốc. Người dân lại đua nhau trồng ớt.
Ông Phong nhớ, năm đó gia đình
ông trồng 1 sào ớt mà thu lại được 3 triệu đồng, gấp nhiều lần so với
trồng lúa mặc dù có hơi vất vả. Sang đến vụ mùa, thấy trồng ớt có ăn,
người dân quê bắt đầu bỏ trồng lúa chuyển sang trồng ớt kim. Chỉ tính
riêng tiền giống, mỗi nhà đầu tư đến 400 nghìn đồng/sào. Trồng ớt vào
tháng 6 âm lịch, thì sang tháng 7 mưa ngâu, mưa nhiều, nắng lắm nên đất
nổi chua và bí chặt rễ cây khiến cho cây ớt không thể nào lên được.
Nhiều lần nông dân thắt ruột gan phá cây nông sản vì không bán được hàng
Có nhà trồng đến 5,6 sào ớt, lúc
đó vợ chồng lại cãi nhau vì ớt chết và mất mùa. Người thì vội vàng phá
cây ớt chuyển sang trồng tạm ít rau xanh để bán, “người thì chấp nhận
ngu mất một vụ”.
Đã quá nhiều bài học, nhưng đến
sang năm khi những người môi giới lại về quê vận động, người dân lại bảo
nhau bỏ lúa, trồng dưa chuột xuất khẩu sang Trung Quốc.
“Một kg dưa bán cho lái mua với
giá 500 đồng nhưng họ chọn hàng chặt lắm, dưa bán được thì ít đổ đi thì
nhiều. Dưa trồng hai ngày lại phun thuốc 1 lần nên không ai dám ăn. Mỗi
ngày hái quả một lần, những lái buôn khi thu mua luôn mang theo chiếc
khuôn mẫu. Họ sẽ cho dưa vào chiếc khuôn nếu quả dưa ngon vừa hoặc nhỏ
hơn chiếc khuôn thì họ lấy còn to quá thì họ bỏ. Mỗi lần thu hoạch được
50 cân thì chỉ có 15 đến 20 cân lọt qua vòng loại của lái buôn”, nói đến
đây, ông Phong nghẹn ngào biết bao nhiêu bài học nhưng người dân vì quá
khổ nên chỉ cần vận động nghe mùi mẫn họ sẽ làm ngay.
Gia đình tan nát vì trồng ớt xuất khẩu
Trường hợp của gia đình ông Vũ
Quốc B. ( K.X, Thái Bình) còn thê thảm hơn người quê ông Phong rất
nhiều. Gia đình ông B. chuyên làm nghề trồng cây nông sản để bán cho thị
trường khu vực. Chỉ qua vài năm, gia đình ông giàu lên trông thấy với
cây cà chua.
Năm 2008, lái buôn đến vận động
ông và người dân trong xã trồng ớt để bán sang Trung Quốc với mức giá
đặt ra rất cao. Nhận thấy cơ hội kiếm tiền, nên ông B. quyết định thuê
đất của người dân, khoan giếng để lấy nước tưới cây về vụ đông, thuê
thêm người làm… đầu tư một khoản không ít.
Mặc kệ vợ con khuyên răn nhưng
ông B. kiên quyết làm cho ra làm. Năm đó ớt được mùa, nếu như đúng giá
cả ban đầu người mua chào hàng, ông B. sẽ thắng lớn nhưng thấy người dân
trúng đậm ớt, lái buôn "lật lọng" trả giá rất thấp chỉ 3 đến 4 nghìn
đồng/kg, trong khi giá thỏa thuận ban đầu đưa ra là 12 đến 15 nghìn
đồng/kg.
Khi ông B thắc mắc giá thấp, ông
và người dân chỉ được giải thích phía khách hàng bên Trung Quốc chê. Có
đợt đang rộ mùa hái quả, công ty thu mua cho biết ngừng mua một thời
gian khiến nhiều nông dân trồng ớt điêu đứng.
Đa số các môi giới đều làm việc trực tiếp với nông dân nên chính quyền xã không hề hay biết
Ông B. tiếc của nên đành hái ớt
về phơi khô. Nếu thuê người hái lại không có tiền để trả công nên vợ
chồng, con cái ông lầm lũi hái ớt về phơi bán cho dân trong vùng. Chỉ
riêng vụ đầu tư để đời đó, ông B. lỗ khoảng 45 đến 50 triệu, chưa kể đến
công sức của 3 lao động trong gia đình. Vợ chồng ông thường xuyên cãi
nhau chuyện làm ăn thất bát nên gia đình càng xáo trộn hơn. Tức vì chồng
không nghe lời khuyên, năm đó vợ ông bỏ nhà vào miền Nam sống với em
gái.
Trao đổi với phóng viên, ông Đỗ
Văn Thắng – chủ tịch một xã trong huyện Đông Hưng cho rằng: Rất khó kiểm
soát việc dân phá lúa trồng nông sản. Mặt khác, thương lái Trung Quốc
không xuống tận địa phương để vận động người dân mà chủ yếu thuê qua các
môi giới. Những vị môi giới này làm việc trực tiếp với người dân không
qua chính quyền cơ sở nên chính quyền khó mà tham gia.
Cũng theo ông Thắng, xã ông chủ
yếu là trồng cây vụ đông nên có thể môi giới, lái buôn ra chợ để thu mua
nhiều hơn là trực tiếp xuống vườn mua. Mấy năm trước, có gia đình trồng
cây chuyên biệt để bán sang Trung Quốc, nhưng nhiều bài học được trả
giá nên nông dân cũng không còn mặn mà với việc trồng cây xuất khẩu. Mặc
dù cây nông sản đó có thể cho thu hoạch gấp hai, ba lần trồng lúa.
Còn anh Lê Văn Ngọc (Giám đốc
công ty chuyên thu mua nông sản Lộc Xuân) cho rằng, đa số nông dân miền
Bắc trồng nông sản là bán sang Trung Quốc, một phần nhỏ bán cho Hàn
Quốc, Đài Loan… Việc bán hàng cho thương lái Trung Quốc rất nguy hiểm vì
tiềm ẩn những rủi ro cao nên chuyện thắng thua của người đi buôn và của
người nông dân cũng không có gì khác nhau, đều chấp nhận mạo hiểm.
Đổ xô phá rừng tìm ươi bán sang TQ
Hàng ngàn hộ dân các tỉnh Thanh
Hóa, Hà Tĩnh và Thừa Thiên – Huế đổ xô lên các dãy núi thuộc huyện Hương
Trà và Hương Thủy (Thừa Thiên - Huế) để phá rừng lấy ươi bán cho các
lái buôn để đưa sang Trung Quốc. Cơ quan quản lý tỏ ra bất lực trước vấn
nạn này.
Theo ghi nhận, các khu rừng
nguyên sinh tại các điểm Khe Đầy, khe Ông Lợi, Bãi Đậu (thuộc địa phận
quản lý của Ban quản lý dự án rừng đầu nguồn huyện Hương Thủy; Hạt kiểm
lâm huyện Hương Thủy) và khu vực rừng Cha Lôi, dốc Bồ Câu, Bình Điền
(thuộc địa phận quản lý của hạt kiểm lâm Hương Trà) đang bị tàn phá một
cách nghiêm trọng.
Tàn phá rừng nguyên sinh
Theo chân một một người dân bản
địa tên An, chúng tôi được đưa vào khu rừng Khe Đầy, khe Ông Lợi. Tại
đây, rừng nguyên sinh đang bị tàn phá không thương tiếc, đa số các cây
ươi có quả đều có thâm niên gần mấy chục năm. An cho biết, số ươi này
sau khi hái về được đem bán cho Trung Quốc để làm thuốc chữa bệnh. Tại
khu vực rừng Cha Lôi, cảnh tượng đốn hạ rừng để lấy quả ươi diễn ra càng
trắng trợn hơn. Cả người dân và lâm tặc cùng dựng lều sát bên sườn núi
để đốn ươi lấy quả, quang cảnh người hái, người đốn diễn ra hết sức rầm
rộ. Chị Thủy, một buôn lái cho biết: “Mấy hôm nay ươi bắt đầu hạ giá,
nhưng mỗi ngày tôi cũng thu mua được khoảng 1,5 - 2 tấn, nếu “lọt” qua
các cơ quan chức năng như kiểm lâm, công an thì cũng kiếm vài chục triệu
đồng mỗi ngày”.
Hàng trăm cây gỗ ươi cổ thụ bị đốn hạ không thương tiếc
Không dám bắt vì… sợ dân kiện
Ông Nguyễn Cửu Sinh, cán bộ trạm
Khe Đầy, thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Hương Thủy, nói: “Dân hay gùi
ươi đi tắt, tôi rình mấy lần nhưng cũng không bắt được. Việc kiểm soát
rất khó
Hạt ươi được lái buôn thu gom về chuẩn bị đem đi bán
Trong khi dân tàn phá rừng, ồ ạt
vận chuyển hạt ươi về xuôi, thì lực lượng kiểm lâm lại… không dám bắt
vì sợ dân kiện (?). Ông Tống Phước An, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Hương
Trà, phân trần: “Biết là dân vô rừng chặt cây để lấy trái ươi, nhưng rất
khó bắt. Bởi ươi không nằm trong Nghị định 99 của Chính phủ về xử phạt,
tịch thu vi phạm hành chính nên không dám bắt, bắt sợ dân kiện. Vì ai
biết ươi đó là ươi bay (ươi lượm) hay phá rừng mà có. Tôi biết có phá
rừng hái ươi, đôi khi thấy chở về cả 5 tấn, nhưng bắt rất khó, tịch thu
cũng không được. Hiện nay, dân gùi hạt ươi ra là không bắt được”.
*
Cây đười ươi còn có tên là cây
lười ươi, cây thạch, cây ươi... tên khoa học là Sterclia lyhnophora
Hance hoặc Sahium lychnporum (Hance) Kost. Quả nó hình như trái Thanh
quả khô, vỏ màu vàng đen, có nếp nhăn, ngâm với nước nó phình to ra từng
lớp như mây trôi vậy. Bởi trái ươi có công dụng rất đặc biệt như chữa
đậu sởi. Thuốc cũng có tác dụng chữa tất cả các chứng nhiệt, lao thương,
nôn ra máu, chảy máu cam, tiêu ra máu, tiêu độc, trừ thử, đau mắt đỏ
lây lan, đau răng do phong hỏa.
Không chỉ dừng lại ở chính sách
thu mua những mặt hàng “lạ”, ảnh hưởng tới nền kinh tế của Việt Nam, các
thương lái Trung Quốc (TQ) còn có một mánh khóe nham hiểm đó là: Rao
mua sản phẩm rầm rộ với giá cao nhưng sau đó một thời gian ngắn lại hạ
giá xuống bất thường khiến hàng vạn người dân Việt điêu đứng.
“Người Trung Quốc thu mua rất bài bản”
Nhớ lại chiến dịch thu mua chó
của TQ năm 1991, ông Nguyễn Bảo Sinh – người được mệnh danh là “vua chó
mèo” đất Hà Thành, kể: Có gia đình trong nhà ôm cả đàn chó, uất ức lên
mà chết.
Hồi đó, khắp các thôn xóm rộ lên
phong trào nuôi chó để đem bán cho TQ với giá cao. Ban đầu, các lái
buôn bên kia biên giới lùng sục chó và đã mua về với mức giá rất hời cho
người dân VN. Khi phong trào lên tới đỉnh điểm, TQ lại tung ra thị
trường nhiều giống chó và người Việt sẵn sàng rút hầu bao mua về với giá
đắt gấp 4 – 5 lần so với giá bán ra trước đó. “Nhiều người đã khốn đốn,
phá sản, mất nhà vì chó khi cũng ngay sau đó, thị trường chó bỗng trầm
lắng không ngờ, không còn thấy ai muốn mua chó nữa” – bác Thuận (cư ngụ
tại Trương Định, Hà Nội), người đã sống và chứng kiến thời điểm khủng
hoảng đó nhắc lại.
Bác cũng không quên nhấn mạnh:
“Người TQ có đường lối thu mua bài bản, còn người Việt thì không bảo
được nhau để rồi khuynh gia bại sản”.
Thương lái Trung Quốc đã từng thu mua long nhãn với giá 140.000 - 180.000 đồng/kg
Năm 2001-2002, nông dân 10 tỉnh
phía Bắc hồ hởi vì thương lái TQ thu mua long nhãn với giá 140.000 -
180.000 đồng/kg. Nhưng khi thu gom đủ hàng về bán, giá đã hạ xuống còn
40.000-60.000 đồng/kg...
Năm 2004 giá long nhãn rớt xuống
mức 10.000 - 12.000 đồng/kg. Nhiều nông dân trót mua nhãn đầu vụ với
giá 10.000-15.000 đồng/kg, sấy xong giá long nhãn bằng với giá nhãn tươi
khiến nông dân lỗ nặng.
Cũng trong năm 2004, thương lái
TQ mua dưa hấu với giá 7.000-10.000 đồng/kg khiến nông dân khu vực miền
Trung (nhất là Quảng Ngãi) đổ xô trồng dưa hấu. Tới tháng 4-2005, thương
lái Trung Quốc dừng, không mua dưa hấu nữa khiến hàng trăm xe chở dưa
hấu dồn lại ở cửa khẩu Lạng Sơn, không thể xuất vào TQ, nhiều chủ hàng
buộc phải “tháo chạy” sau khi đổ bỏ hàng trăm tấn dưa hấu tại cửa khẩu
này.
Năm 2007- 2008 lại tiếp tục rộ
lên việc người TQ mua cau sấy với giá 80.000 đồng/kg. Thời điểm đó, nông
dân tính cứ 5kg cau tươi = 1kg cau khô nên sấy cau sẽ có thu nhập hợp
lý. Nhưng tới năm 2009-2010, thương lái tiếp tục “chiêu” mua nhỏ giọt
với giá thấp và hiện nay không thu mua nữa.
Giữa tháng 10-2010, khu vực vùng
núi Kiên Giang có thông tin thương lái TQ mua tắc kè (loại 300gr/con)
với giá hàng trăm triệu đồng. Hậu quả của tin đồn đó là hàng trăm ngàn
con tắc kè nhỏ bị săn lùng tận diệt để bán nhưng chỉ được với giá rẻ.
Vì sao nông sản Việt Nam bị thua trên chính sân nhà?
Thời gian gần đây, nhiều tư
thương TQ càn quét từ Nam ra Bắc để thu gom nông sản (tiêu, sắn lát, cao
su, thịt, thủy sản…) nhập về nước. Tư thương TQ gom hàng qua hai kênh:
đại lý thu gom của Việt Nam hoặc trực tiếp đến vườn của nông dân mua,
với giá cao hơn thị trường nước ta. Tư thương của họ lùng các tỉnh Tây
Nguyên để mua sắn, tiêu, cà phê; các tỉnh miền Tây Nam bộ mua thịt lợn
nái, sữa; duyên hải miền Trung thu gom nguyên liệu thủy sản, miền núi
phía Bắc thu mua sắn…
Chỉ trong những ngày giữa tháng
6-2011, hàng nghìn tấn vải tươi đã được xuất qua cửa khẩu Lào Cai. Cục
Hải quan Lào Cai dự báo, lượng vải thiều tươi xuất khẩu qua cửa khẩu này
có thể đạt 80.000 tấn trong năm nay, gấp đôi so với năm 2010. Tuy
nhiên, lực lượng này cũng không quên nhắc nhở các doanh nghiệp xuất khẩu
vải qua TQ cần tìm những đối tác tin cậy, ký hợp đồng trước khi chuyển
hàng.
Hàng hóa TQ thu mua phần lớn qua con đường tiểu ngạch
Lời cảnh báo này của cơ quan Hải
quan Lào Cai xuất phát từ tình trạng nông sản Việt Nam xuất qua Trung
Quốc thường bị tắc nghẽn ở cửa khẩu cả chục ngày. Điển hình là cửa khẩu
Tân Thanh, chuyên xuất đi dưa hấu, chuối và một số nông sản khác như sắn
thường xuyên bị ách tắc.
Theo tiết lộ của một lái buôn
chuyên xuất dưa hấu qua cửa khẩu Tân Thanh, thương lái phía bạn rất đoàn
kết, khi thấy hàng phía Việt Nam lên nhiều, họ đồng loạt ép giá thu mua
xuống. Trong khi đó, các DN xuất khẩu Việt Nam vẫn theo kiểu, mạnh ai
nấy làm, nên bấy lâu thường chịu thiệt thòi trong các cuộc buôn bán này.
Ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp
hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam cho biết, họ đang lùng mua nguyên liệu
sắn lát của mình. Thời gian qua, rất nhiều xe sắn của Việt Nam xuất khẩu
qua TQ theo đường tiểu ngạch, lối mở biên giới.
“Tôi từng sang Quảng Đông, đi
thăm mấy nhà máy thức ăn chăn nuôi của họ, thấy toàn sắn của ta. Việc họ
tìm mua khiến giá sắn nguyên liệu tại nước ta được đẩy lên cao. Trước
đây giá sắn chỉ 1.500 - 2.000 đồng/kg, thì nay đã 5.500-6.000 đồng/kg,
thậm chí còn hơn. Giá sắn lên cao, giúp nông dân ở miền núi tăng thêm
thu nhập, là điều đáng mừng. Tuy nhiên, giá nguyên liệu đang cao, sẽ đẩy
giá thức ăn chăn nuôi lên cao, từ đó tác động dây chuyền đến giá thực
phẩm, cuối cùng người tiêu dùng mình chịu”, ông Lịch nói.
Còn theo ông Hoàng Kim Giao, Cục
trưởng Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), vừa rồi giá thực phẩm ở TQ lên rất
cao, nên tư thương họ sang ta lùng sục mua. “Cái này không thể kiểm soát
được, vì họ vào mua tự do dọc biên giới. Cho nên, cuối tuần trước, đầu
tuần vừa rồi, giá thịt ở Quảng Ninh rất cao, có khi lên tới 70-72 nghìn
đồng/kg lợn hơi. Thời gian qua, còn có thông tin phía TQ tuồn lợn kém
chất lượng sang bên mình, nhưng nay hiện tượng này không còn nữa”, ông
Giao nhắc nhở.
TS Vũ Đình Ánh - chuyên gia kinh
tế cho rằng, việc thương nhân TQ thu gom các mặt hàng nông sản của Việt
Nam để xuất khẩu sẽ tạo ra sự mất cân đối cung cầu cục bộ đối với các
mặt hàng. Hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu để phục vụ nhu
cầu trong nước nhưng nay đem xuất khẩu sẽ dẫn đến thiếu hụt nguồn cung,
có thể kéo giá lương thực, thực phẩm tại thị trường Việt Nam lên cao,
khiến việc kiềm chế lạm phát sẽ khó khăn hơn.
Còn ở góc độ thị trường, Việt
Nam không phải một thị trường lệ thuộc của TQ, mỗi thị trường đều có
đường biên giới của nó. Nhìn theo khía cạnh khác, các nhà thu mua hàng
nông sản của Việt Nam cũng phải xem lại vì sao bị thua trên chính sân
nhà của mình.
“Phải làm rõ việc thu gom này
kéo theo sự bất bình đẳng về nghĩa vụ, kéo theo hệ quả xấu, như ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo công ăn việc làm của các
doanh nghiệp trong nước. Cần rà soát lại các quy định, nếu họ làm thiệt
hại cho Việt Nam, cần phải có hành động” - TS Vũ Đình Ánh nhấn mạnh.
Tại hội chợ triển lãm quốc tế
thủy sản Việt Nam – Vietfish 2011 (28 – 30/6), một đoàn thương nhân TQ
đến từ 35 công ty có mặt từ rất sớm tìm mua thủy hải sản, lấn át cả các
nhà nhập khẩu truyền thống đến từ EU, Mỹ, Nga…
Thương nhân TQ tỏ ý không hào
hứng lắm với phương thức nhập khẩu chính ngạch mà chỉ thích làm ăn qua
con đường mua bán mậu biên với lý do chở hàng container lạnh bằng đường
bộ thuận tiện, cước phí rẻ hơn. Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu nằm ở chỗ nếu
mua tiểu ngạch thương nhân TQ không phải đóng thuế và ít chịu ràng buộc
hợp đồng. Khi có rủi ro xảy ra thì thường bên bán là các doanh nghiệp
Việt Nam chịu thiệt.
Cty TNHH thương mại Việt Hương
(Hồng Kông) đã chính thức nộp đơn lên cơ quan thẩm quyền Trung Quốc, xin
đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu “Phú quốc và hình ảnh” (ảnh) cho sản
phẩm nước mắm trên lãnh thổ nước này.
Nếu không phản đối kịp thời, có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý như vụ càphê Buôn Ma Thuột của tỉnh Đắc Lắc.
Ngày 16-9, Công ty CP sở hữu trí
tuệ Bross và Cộng sự (Hà Nội) đã gửi văn bản cảnh báo đến Hội Nước mắm
Phú Quốc, cho biết chỉ dẫn địa lý nước mắm Phú Quốc đang có nguy cơ bị
mất tại Trung Quốc. Theo đó, vào ngày 11-5-2011, một doanh nghiệp tại
Hồng Kông là Cty TNHH thương mại Việt Hương (VIET HUONG TRADING COMPANY
LIMITED) đã chính thức nộp đơn số 9448516 lên cơ quan có thẩm quyền để
đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu “Phú quốc” cho nhóm hàng hóa 30
(trong đó có nước mắm) trên lãnh thổ Trung Quốc.
Cty
TNHH thương mại Việt Hương (Hồng Kông) xin đăng ký bảo hộ độc quyền
nhãn hiệu “Phú quốc và hình ảnh” (ảnh) cho sản phẩm nước mắm trên lãnh
thổ nước này
Hình ảnh thương hiệu mà Cty Việt
Hương đăng ký bảo hộ chính xác là có chữ “Phú quốc” kèm logo là hình
con cá cơm và bản đồ Việt Nam (có vẽ dấu hiệu chỉ đến vị trí huyện đảo
Phú Quốc, thuộc tỉnh Kiên Giang). Các thông tin này đã được đối tác của
Bross và Cộng sự là một công ty luật tại Trung Quốc kiểm tra, xác tín
theo yêu cầu. Việc chủ thể nói trên đăng ký nhãn hiệu “Phú quốc và hình
ảnh” dưới tên của mình cũng sẽ gây nhầm lẫn nghiêm trọng cho công chúng
về nguồn gốc Phú Quốc gắn liền với sản phẩm nước mắm nổi tiếng đang được
Việt Nam bảo hộ.
Song, khác với các nhãn hiệu
càphê “Buon Ma Thuot và chữ Hán”, “Buon Ma Thuot và logo” đã được cấp
đăng ký bảo hộ độc quyền cho Cty Guangzhou Buon Ma Thuot Coffee Co.,Ltd,
hiện “Phú quốc và logo” vẫn đang trong quá trình xem xét, công bố thông
tin.
Nhưng sau một thời gian công bố
theo Luật Nhãn hiệu Trung Quốc, nếu không có tổ chức hoặc cá nhân nào
lên tiếng phản đối, mặc nhiên cơ quan thẩm quyền Trung Quốc sẽ cấp bằng
bảo hộ độc quyền cho chủ thể đăng ký. Theo Cty CP sở hữu trí tuệ Bross
và Cộng sự, nếu Hội Nước mắm Phú Quốc không tiến hành ngay các thủ tục
để phản đối đơn đăng ký bảo hộ trên thì sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý
tương tự như càphê Buôn Ma Thuột hiện nay.
Chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma
Thuột đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH-CN) cấp đăng bạ bảo hộ tại Việt
Nam cho tỉnh Đắc Lắc vào năm 2005, nhưng đến nay nó không hề được đăng
ký nhãn hiệu hàng hóa với một nước nào trên thế giới. Chính sự lơ là này
của tỉnh Đắc Lắc đã tạo cơ hội cho doanh nghiệp Trung Quốc xâm hại
thương hiệu và bây giờ phải tốn công sức đòi lại thương hiệu.
Vì sợ tốn kém!
Đắc Lắc sợ tốn kinh phí nên
không đăng ký nhãn hiệu cà phê Buôn Ma Thuột ra phạm vi toàn cầu theo Hệ
thống Madrid - hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu được tạo thành bởi
hai điều ước quốc tế là Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu
hàng hóa và Nghị định thư Madrid liên quan đến Thỏa ước Madrid (được
thông qua năm 1989 và có hiệu lực từ ngày 1-12-1993).
Từ 2005 đến nay, tỉnh đã tổ chức
3 kỳ Festival cà phê Buôn Ma Thuột với hơn 50 tỷ đồng ngân sách và tiền
tài trợ của doanh nghiệp. Nếu chỉ bỏ ra khoảng 1/10 số tiền nói trên,
Đắc Lắc đã đăng ký thành công nhãn hiệu Cà phê Buôn Ma Thuột ra nước
ngoài và tránh được nguy cơ xâm hại thương hiệu như hiện nay.
Không chỉ vậy, Đắc Lắc còn chậm
trễ trong việc quản lý, sử dụng và phát triển chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn
Ma Thuột ở ngay trong tỉnh. Mãi đến tháng 8-2011, Hiệp hội Cà phê Buôn
Ma Thuột mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê
Buôn Ma Thuột (hiệu lực 3 năm) cho 8 thành viên. Các doanh nghiệp này
chỉ có diện tích 8.852ha, sản lượng 26.000 tấn/năm. Trong khi vùng địa
danh cà phê Buôn Ma Thuột có tổng diện tích 100.000ha và sản lượng
khoảng 300.000 tấn/năm. Vì vậy còn một diện tích khá lớn trong vùng địa
danh chưa được sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột.
Theo tham vấn của Cục Sở hữu trí
tuệ, để phát triển chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột một cách bài bản
và mang lại hiệu quả cao, bên cạnh việc phát triển các biện pháp nhằm
quản lý và khai thác dựa vào cơ chế bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong nước,
phải sớm xúc tiến việc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý sản phẩm ra nước
ngoài. Bởi phần lớn cà phê của tỉnh đều xuất khẩu, vì thế việc đăng ký
này là hết sức cần thiết. Cà phê Buôn Ma Thuột hiện được xuất khẩu đến
60 nước, vùng lãnh thổ, trong đó có 10 thị trường trọng điểm chiếm 70%
sản lượng và kim ngạch 10 triệu USD/năm như: EU, Mỹ, Đức, Tây Ban Nha,
Italia, Nhật Bản…
Ông Trần Việt Hùng, nguyên Cục
trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, hiện là trợ lý của Bộ trưởng Bộ KH-CN cho
rằng Việt Nam đã tham gia vào hệ thống WIPO theo Nghị định thư Madrid,
vì thế nếu muốn đăng ký ở châu Âu thì không cần đăng ký từng nước mà vào
WIPO sẽ được chấp nhận tại những nước tham gia nghị định thư này. Theo
đó, kinh phí để đăng ký bảo hộ độc quyền tại 10-20 nước hiện mất khoảng
1.000-2.000 USD, thủ tục cũng rất nhanh gọn, bảo hộ trong thời gian 10
năm, sau đó kinh phí gia hạn sẽ rẻ hơn.
Người dân Buôn Ma Thuột thu hoạch cà phê.
Ông Lương Văn Tự, Chủ tịch Hiệp
hội Cà phê, ca cao Việt Nam cho rằng chúng ta cần phải khởi kiện để đòi
lại thương hiệu cho cà phê Buôn Ma Thuột, vì Buôn Ma Thuột là thương
hiệu lớn, tài sản của Việt Nam, không thể đổi bằng thương hiệu khác.
“Khi thay đổi một thương hiệu, không dễ dàng mà làm được vì còn liên
quan đến các yếu tố như chỉ dẫn địa lý, khí hậu”- ông Tự nói. Do đó hiện
nay, UBND tỉnh Đắc Lắc cùng với Hiệp hội Cà phê Đắc Lắc đang khẩn
trương hoàn thiện các thủ tục để kiên quyết khởi kiện công ty của Trung
Quốc ra tòa án Trung Quốc.
Theo ông Tự, mặc dù về nguyên
tắc, khi chưa có công ty nào đăng ký độc quyền thương hiệu một sản phẩm
thì họ được phép đăng ký tên thương hiệu tùy thích. Nhưng việc đăng ký
thương hiệu không được nhằm dụng ý xấu, trục lợi.
Hiện nay, dù chưa có căn cứ để
xác định công ty của Trung Quốc đăng ký thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột
với dụng ý xấu và cũng như chưa có thông báo nào về việc họ sẽ lợi dụng
đăng ký độc quyền để cấm cà phê Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc,
nhưng cần phải loại bỏ nhãn hiệu độc quyền này càng sớm càng tốt, để
tránh những rắc rối, thiệt hại gây ra trong thời gian tới. Đặc biệt, khi
công ty này có thể đăng ký bảo hộ độc quyền ra thế giới, có nước có thể
chấp nhận, có nước sẽ không nhưng việc đòi lại thương hiệu lúc đó chắc
chắn sẽ gặp khó khăn nhiều hơn.
Ông Tự cho biết luật của Trung
Quốc cũng như nhiều nước khác đã tham gia WTO, đều quy định bất kỳ ai
khi thấy có dụng ý xấu, làm ăn không trung thực có quyền yêu cầu hủy bỏ
các hành vi chiếm đoạt, không trung thực, lợi dụng uy tín các nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý các nước khác gây nhầm lẫn xuất xứ sản phẩm. Cà phê Buôn
Ma Thuột không những đã nổi tiếng ở Việt Nam mà còn gắn với địa danh cụ
thể là Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc-Việt Nam). Bởi vậy, việc khởi kiện và
thắng kiện là hoàn toàn có cơ sở hy vọng.
Thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột
(Đắc Lắc) vừa được Công ty Bross & Partners (một công ty luật của
Việt Nam có trụ sở tại Hà Nội, hoạt động trong lĩnh vực tư vấn và đại
diện bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ) phát hiện đăng ký bảo hộ độc quyền 10
năm tại Trung Quốc. Nếu không đòi lại thương hiệu này, việc xuất khẩu cà
phê của nước ta sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Trở ngại xuất khẩu
Theo công văn của Công ty Bross
& Partners vừa gửi Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, nhãn hiệu cà phê
“BUON MA THUOT và chữ Hán” được một doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Đông
(Trung Quốc) đăng ký bảo hộ và được cấp chứng nhận bảo hộ 10 năm (kể từ
ngày 14-11-2010) cho nhóm sản phẩm 30 - nhóm có chứa cà phê. Sau đó,
doanh nghiệp này tiếp tục đăng ký và được bảo hộ logo “BUON MA THUOT
COFFEE - 1896” tại Trung Quốc từ ngày 14-6-2011.
Luật sư Lê Quang Vinh, Giám đốc
bộ phận sở hữu trí tuệ Công ty Bross & Partners, nhận định: “Việc
làm này của doanh nghiệp Trung Quốc sẽ khiến thế giới hiểu nhầm về nguồn
gốc địa lý cà phê Buôn Ma Thuột, vốn đang được bảo hộ tại Việt Nam theo
đăng bạ quốc gia số 0004. Nếu không ngăn chặn kịp thời, chủ sở hữu nhãn
hiệu BUON MA THUOT nói trên có thể sử dụng quyền độc quyền của mình để
ngăn chặn việc xuất khẩu cà phê Buôn Ma Thuột vào lãnh thổ Trung Quốc”.
Còn ông Lê Đăng Trình, Chánh Văn
phòng Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, cho rằng: Nhãn hiệu cà phê Buôn Ma
Thuột bị đăng ký bảo hộ độc quyền tại Trung Quốc không chỉ ảnh hưởng
đến việc xuất khẩu cà phê Buôn Ma Thuột vào Trung Quốc mà còn ở nhiều
nước khác trên thế giới. Mặc dù thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột được
Cục Sở hữu trí tuệ (thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ) cấp chứng nhận bảo hộ
quốc gia Chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột đối với sản phẩm cà phê
nhân Robusta vào năm 2005, nhưng hiện nay chưa được đăng ký nhãn hiệu
hàng hóa cho các nước xuất khẩu và tiêu thụ cà phê trên thế giới. Một
khi doanh nghiệp Trung Quốc đăng ký nhãn hiệu này ra các nước trên thế
giới, chúng ta cũng không thể xuất khẩu cà phê Buôn Ma Thuột đến những
nước đó.
Rang cà phê Buôn Ma Thuột tại gian hàng triển lãm của Công ty cà phê Trung Nguyên ở Festival Cà phê Buôn Ma Thuột.
Đòi lại thương hiệu
Vùng địa danh cà phê Buôn Ma
Thuột có diện tích hơn 100.000ha, nằm trên địa bàn 9 huyện, thành, thị
của tỉnh Đắc Lắc gồm: Buôn Ma Thuột, Buôn Hồ, Cư M’gar, Krông Búc, Krông
Pắc, Buôn Đôn, Krông Năng, Cư Kuin và Ea H’leo. Sản lượng cà phê của
vùng khoảng 300.000 tấn/năm và xuất khẩu ra 60 nước, vùng lãnh thổ trên
thế giới. Vì thế, việc đòi lại nhãn hiệu cà phê Buôn Ma Thuột là điều
cần thiết.
Luật sư Lê Quang Vinh cho biết:
“Theo luật nhãn hiệu Trung Quốc, tên địa danh nước ngoài nếu được biết
đến rộng rãi với công chúng ở Trung Quốc thì không được phép đăng ký và
sử dụng làm nhãn hiệu riêng. Vì vậy, chúng tôi tin rằng có căn cứ và
bằng chứng pháp lý để khởi kiện hủy bỏ thành công nhãn hiệu cà phê Buôn
Ma Thuột bị đăng ký ở Trung Quốc”.
Theo ông Lê Đăng Trình, UBND
tỉnh Đắc Lắc cũng đã có hai cuộc họp bàn giải pháp đòi lại thương hiệu
cà phê Buôn Ma Thuột nhưng đến nay vẫn chưa thống nhất được việc dùng
con đường ngoại giao hay khởi kiện. Để Công ty Bross & Parners thực
hiện việc khởi kiện, kinh phí sẽ mất khoảng 6.000 - 9.000 USD. Dù ai trả
số tiền này, đã đến lúc tỉnh Đắc Lắc cần kiên quyết đòi lại thương hiệu
cà phê Buôn Ma Thuột.
Luật sư Lê Quang Vinh, Giám đốc bộ phận sở hữu trí tuệ Công ty Bross & Partners: Đủ cơ sở pháp lý đòi lại thương hiệu
Theo nguồn tin đã được kiểm
chứng, chúng tôi nhận thấy chỉ dẫn địa lý BUON MA THUOT (được bảo hộ ở
Việt Nam theo đăng bạ số 0004 ngày 14-10-2005) đã bị một công ty ở tỉnh
Quảng Đông, Trung Quốc tên Guangzhou Buon Ma Thuot Coffee Co., Ltd đăng
ký độc quyền nhãn hiệu tại lãnh thổ Trung Quốc. Hai đăng ký số 7611987
và 7970830 cấp ngày 14-11-2010 và 14-6-2011 tương ứng với 2 nhãn hiệu
“BUON MA THUOT và chữ Hán” và “BUON MA THUOT COFFEE 1896 và logo” gắn
liền với nhiều sản phẩm ở nhóm 30 trong đó có sản phẩm cà phê đã được
cấp độc quyền cho công ty này.
Chúng tôi tiếp tục phát hiện
thương hiệu DAK LAK đã bị một công ty ở Pháp tên ITM ENTERPRISES
(Société Anonyme) đã đăng ký độc quyền thương hiệu DAK LAK dưới tên của
mình và được cơ quan sở hữu trí tuệ Pháp cấp đăng ký độc quyền sử dụng
cho sản phẩm cà phê (ở nhóm 30) từ ngày 25-9-1997. Điều nguy hiểm hơn,
chính công ty này đã sử dụng thương hiệu được cấp độc quyền ở Pháp này
tiếp tục đăng ký trên phạm vi toàn cầu theo Hệ thống Madrid và thương
hiệu DAK LAK đã được bảo hộ ở nhiều quốc gia khác (không kể Pháp): Áo,
Bulgaria, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Thụy Sĩ, Czech, Đức, Croatia, Hungary,
Ý, Morocco, Monaco, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumania, Slovenia, Nga...
Sự việc trên rất nghiêm trọng vì
một số lý do: BUON MA THUOT (hoặc DAK LAK) đều là chỉ dẫn địa lý của
Việt Nam và là tài sản của nhà nước Việt Nam. Việc chủ thể nước ngoài sở
hữu nó đồng nghĩa với việc tài sản của nhà nước đã rơi vào tay kẻ khác.
Nguy cơ bị kiện hoặc bị ngăn chặn xuất khẩu ngay tại cửa khẩu biên giới
các nước, do xâm phạm quyền độc quyền ở các nước trên có thể xảy ra bất
kỳ lúc nào. Nếu không kịp thời có biện pháp hủy bỏ và bảo vệ các chỉ
dẫn địa lý này thì niềm tin của khách hàng nước ngoài đối với cà phê
Việt Nam có thể bị suy giảm nghiêm trọng (do khách hàng không thể phân
biệt được đâu là cà phê Buôn Ma Thuột thật và đâu là cà phê Buôn Ma
Thuột giả).
Luật nhãn hiệu các nước về căn
bản tương đối giống nhau, vì vậy, chúng tôi tin rằng vẫn có cơ hội tiến
hành biện pháp pháp lý để hủy bỏ hiệu lực nhãn hiệu ở Pháp. Cơ sở pháp
lý chính là việc đăng ký DAK LAK có thể làm cho công chúng bị lừa dối về
nguồn gốc thực sự của hàng hóa và/hoặc việc đăng ký đó thông thường sẽ
bị coi là một hành vi không trung thực (không trung thực với cơ quan
nhãn hiệu khi nộp hồ sơ đẳng ký). Tuy vậy, nếu phải tiến hành hủy các
đăng ký nhãn hiệu của ITM ENTERPRISES (Société Anonyme) thì Việt Nam
không chỉ phải tiến hành hủy bỏ nhãn hiệu DAK LAK ở Pháp mà còn phải
tiến hành thủ tục hủy bỏ nhãn hiệu DAK LAK ở tất cả trên 10 quốc gia đã
được bảo hộ nêu trên.
No comments:
Post a Comment