Phạm Đình Trọng “…Cũng
vì đức tin tôn giáo vào học thuyết đấu tranh giai cấp mà những chiến sĩ
công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình đã hành xử quá bạo liệt,
nhẫn tâm, phản nhân văn…”
5. Đức tin tôn giáo
Khi
ông cảnh sát khu vực, đại úy Dương Tấn Lắm quan tâm đặc biệt đến tôi,
thường xuyên đến với tôi, thường xuyên “điểm danh” tôi, khi ông quận phó
công an Nguyễn Thành Tâm phụ trách an ninh nội chính bề bộn công việc
vẫn dành thời gian gặp tôi tới hai lần là công an đã đưa tôi vào kính
ngắm, coi tôi là đối tượng của cuộc đấu tranh giai cấp không khoan
nhượng, một mất một còn. Vì thế tôi đã nói với ông Tâm rằng cuộc gặp của
ông Tâm với tôi chỉ là khúc dạo đầu, chỉ là nấc thang đầu tiên trong
ứng xử của công an với tôi. Chuyện trò với ông Tâm tôi cũng cảm nhận
được là, ông Tâm chưa hề đọc các bài viết của tôi! Điều tôi cảm nhận rõ
hơn nữa là đức tin tôn giáo của ông Tâm vào học thuyết đấu tranh giai
cấp sai lầm, tệ hại của ông Marx đã gây cho dân tộc Việt Nam những đau
thương mất mát nặng nề, làm cho trang sử cách mạng Việt Nam những năm
tháng vừa qua, phía sau khúc tráng ca do tuyên truyền tạo nên là khúc bi
ca ai oán về một dân tộc tang tóc và chia rẽ sâu sắc, một đất nước tan
nát! Đó thực sự là những trang sử đau thương trong lịch sử Việt Nam vốn
đã quá nhiều đau thương!
Đức
tin tôn giáo là đức tin bằng cảm tính, bằng giáo lí, với lòng thành
kính, ngưỡng mộ vào một lí tưởng tưởng là tuyện đối, vĩnh hằng, cao cả,
nhân hậu, cứu rỗi con người. Vì là đức tin nhiều cảm tính, nặng giáo lí
nên nhiều mê muội, thiếu tỉnh táo. Năm 26 tuổi, học trường Sĩ quan Thông
tin, bên cạnh những môn học vô tuyến điện, chiến thuật tác chiến của
tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh trong các hình thức chiến thuật: Vây căn
cứ, diệt viện binh. Vận động tấn công kết hợp chốt chặn... Sĩ quan thông
tin phải tổ chức thông tin bảo đảm chỉ huy cho những hình thái chiến
thuật đó, tôi còn được học khá nhiều giờ về triết học Marx Lénine, về
chủ nghĩa xã hội khoa học và tôi đã từng có đức tin tôn giáo đó!
Ông
Tâm chưa đọc các bài viết của tôi nhưng vì đức tin tôn giáo vào học
thuyết đấu tranh giai cấp mà ông Tâm dành cho tôi hai cuộc gặp! Cũng vì
đức tin tôn giáo vào học thuyết đấu tranh giai cấp mà những chiến sĩ
công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình đã hành xử quá bạo liệt,
nhẫn tâm, phản nhân văn đối với những tiếng nói đòi giải phóng con
người, giải phóng dân tộc khỏi mớ giáo lí phản con người, phản dân tộc!
Bạo liệt, nhẫn tâm cả với những phụ nữ yếu ớt, đơn độc cần được nâng đỡ
che chở như các chị Lê Thị Công Nhân, Tạ Phong Tần, Dương Thị Tân, Phạm
Thanh Nghiên... Vì thế, tôi thấy cần viết một chút về đức tin tôn giáo
vào học thuyết đấu tranh giai cấp đã mang đến cho dân tộc Việt Nam bao
tai họa và đang làm chia rẽ, li tán, suy yếu dân tộc Việt Nam.
Khi
ông K. Marx và ông F. Engels công bố Tuyên ngôn của đảng cộng sản,
tháng hai, năm 1848, ông Marx sinh tháng năm, năm 1818, mới 29 tuổi, ông
Engels, sinh tháng mười, năm 1820, mới 27 tuổi. Khổng Tử, nhà tư tưởng
cổ điển vĩ đại nhất của Trung Hoa đã khái quát chặng đường đời của kẻ
làm trai có chí bình sinh là: Tu thân – Tề gia – Trị quốc – Bình thiên
hạ. Và mốc tuổi tác của những chặng đường đó là: Tam thập nhi lập – Tứ
thập bất hoặc – Ngũ thập tri thiên mệnh.. Ba mươi tuổi, tam thập nhi
lập, mới là tuổi lập thân, tề gia, ổn định gia đình, Tậu trâu, cưới vợ,
làm nhà / Cả ba việc ấy ắt là phải lo. Bốn mươi tuổi mới có sự tự tin để
không còn nghi hoặc, để hiểu mình, hiểu người, đảm đương, gánh vác
những trách nhiệm nặng nề trước xã hội. Học hành, tích lũy kiến thức,
phát triển tư duy sáng tạo, đến năm mươi tuổi mới biết mệnh đất trời,
mới nắm được qui luật tự nhiên. Thế giới tự nhiên là thế giới vật chất,
nhìn thấy, nắm bắt, cân đo được, do đó khám phá qui luật tự nhiên cũng
dễ dàng, đơn giản hơn khám phá qui luật xã hội phi vật thể. Những thiên
tài kiệt xuất của loài người cũng phải ngũ thập tri thiên mệnh, đến tuổi
năm mươi mới mon men tiếp cận được một, hai qui luật tự nhiên. N.
Copernic, 1473 – 1543, nhà khoa học lỗi lạc người Ba Lan sau hàng năm
trời dán mắt vào ống kính nhìn xa hướng lên vòm trời và sau hàng năm
trời đo đạc bóng mặt trời đổ trên mặt đất, mãi 57 tuổi mới khám phá ra
quả đất quay quanh mặt trời. Nhà khoa học thiên tài người Anh I. Newton,
1642 – 1727, sau hàng ngàn lần nhìn quả táo rụng trong vườn, sau hàng
ngàn ngày đọc sách suy ngẫm tìm tòi, mãi năm 47 tuổi mới khám phá ra qui
luật vạn vật hấp dẫn!
Không như qui
luật tự nhiên hiển hiện trong vật thể, có thể cân đo, có thể tái tạo
trong phòng thí nghiệm, qui luật xã hội ẩn chứa trong đời sống xã hội,
ẩn chứa trong thăm thẳm lịch sử phát triển xã hội loài người, không thể
cân đo, không thể tái tạo. Lịch sử loài người chính là phòng thí nghiệm
để tìm ra qui luật xã hội nhưng đọc được kết quả thí nghiệm đó ngoài
thông tuệ kinh sử cần có mẫn cảm nghệ sĩ và quan trọng nhất là sự từng
trải cuộc đời. Với khoa học tự nhiên, tuổi 29 và tuổi 27 vẫn là tuổi trẻ
người, với khoa học xã hội, tuổi 29 và tuổi 27 càng trẻ người non dạ!
Thời hai thanh niên 29 tuổi và 27 tuổi, Marx và Engels, mở to mắt nhìn
vào xã hội, nhận thức xã hội là thời gian giai cấp tư sản công nghiệp
vừa hình thành đang hổi hả tích lũy tư bản bằng bóc lột tàn nhẫn sức
lực, mồ hôi và cả máu những người làm thuê mà ông Marx đưa lên thành
giai cấp công nhân. Cùng với bóc lột người làm thuê trong nước, giai cấp
tư sản công nghiệp cũng quyết liệt xâm chiếm thuộc địa bằng chiến tranh
xâm lược để bóc lột tài nguyên thuộc địa và bóc lột máu người dân thuộc
địa. Chủ nghĩa tư bản thời hoang dã đó thực sự là con thú đói! Đói vốn!
Đói thời gian! Đói sức lao động! Đói nguyên liệu! Con thú người đó đã
bộc lộ sự man rợ độc ác nhất trong mối quan hệ xã hội người! Trẻ người
non dạ lại phải chứng kiến tội lỗi ngập ngụa của xã hội tư bản thời
hoang dã, chứng kiến hai thái cực đối kháng trong mối quan hệ ông chủ
bóc lột và người làm thuê bị bóc lột, hai thanh niên tuổi 29 và 27, Marx
và Engels, liền hăm hở soạn thảo Tuyên ngôn của đảng Cộng sản, cương
lĩnh chính trị đưa giai cấp làm thuê lên vũ đài chính trị đấu tranh giai
cấp nhân tạo quyết liệt!
Tuyên ngôn
to tát, lời lẽ hùng hồn nhưng lại vô cùng non nớt về chính trị của ngòi
bút tuổi trẻ thừa bầu máu nóng nhưng lại thiếu sự chín chắn, từng trải
và tầm khái quát không thể thiếu của một luận văn chính trị. Ngay câu
đầu tiên của Tuyên ngôn đảng Cộng sản, hai thanh niên 29 tuổi và 27
tuổi, Marx và Engels, đã coi chủ nghĩa Cộng sản do họ khai sinh ra là
bóng ma! Nguyên văn câu đầu tiên của Tuyên ngôn đảng Cộng sản: Một bóng
ma đang ám ảnh châu Âu - bóng ma chủ nghĩa Cộng sản! The Communist
Manifesto: A spectre is haunting Europe – the spectre of Communism! Bóng
ma thì không có thật! Đã là bóng ma thì chẳng có gì tốt lành! Kêu gọi
giai cấp vô sản thế giới làm cách mạng thế giới bằng chủ nghĩa Cộng sản
chỉ là bóng ma thì quá ngờ nghệch, dại dột, hớ hênh, non kém của một thủ
lĩnh chính trị trẻ người non dạ, còn thiếu hụt quá lớn kiến thức xã
hội! Thực tế đã chứng minh đúng như điều Marx và Engels đã viết trong
Tuyên ngôn đảng Cộng sản, chủ nghĩa Cộng sản chỉ là bóng ma!
Đất
nước Xô Viết sau gần một thế kỉ tìm đường đi lên chủ nghĩa Cộng sản
bằng mồ hôi, máu và nước mắt đã phải dừng lại, quay về với con đường
phát triển theo qui luật tự nhiên là kinh tế tư bản! Vì càng đi, những
tiêu chí của chủ nghĩa Cộng sản càng xa vời, trong khi thực tế những
nước tư bản chủ nghĩa lại đang đến ngày càng gần với những tiêu chí nhân
đạo của chủ nghĩa Cộng sản! Sau gần một thế kỉ đấu tranh giai cấp khốc
liệt để xây dựng chủ nghĩa Cộng sản trên phạm vi thế giới, hơn một trăm
triệu mạng người đã bị giết bởi đấu tố, thủ tiêu, tù đày, pháp trường.
Tất cả những nước thực hiện chủ nghĩa Cộng sản đều có hàng triệu, hàng
chục triệu người bị giết tức tưởi do đấu tranh giai cấp, đều có hàng
triệu, hàng chục triệu người bị tù đày hoặc phải bỏ nước ra đi do đấu
tranh giai cấp! Đó là thực tế lịch sử không thể chối cãi!
Tuyên
ngôn đảng Cộng sản đã nâng những người lao động làm thuê, thời đó hầu
hết là lao động làm thuê bằng cơ bắp, không vốn liếng, không tri thức,
chỉ có lòng căm thù giai cấp và khát khao đòi quyền lợi, trở thành giai
cấp công nhân và đưa họ lên vũ đài chính trị, đẩy họ vào cuộc đấu tranh
giai cấp nhân tạo tàn khốc chỉ với mục đích bao nhiêu lợi quyền ắt qua
tay mình! Tuyên ngôn đảng Cộng sản đã vô cùng sai lầm, cực đoan khi
tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp. Tuyên ngôn khẳng định chắc nịch: Lịch
sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh
giai cấp! Chính luận điểm cực đoan, sai trái, nguy hại này đã đẩy loài
người vào cuộc đại loạn đấu tranh giai cấp tàn bạo, triền miên, kéo dài
suốt thế kỉ XX, thế kỉ xuất hiện, lan tràn các đảng Cộng sản.
Loài
người xuất hiện từ một loài khỉ tinh khôn biết lao động bằng công cụ và
sự phát triển của công cụ lao động cũng chính là sự phát triển của loài
người. Lịch sử phát triển từ chiếc rìu đá đến bàn phím máy vi tính là
lịch sử huy hoàng, lí thú, hấp dẫn, đầy tính người, rất tiêu biểu cho
lịch sử phát triển xã hội loài người. Viết như Tuyên ngôn đảng Cộng sản
thì cũng có thể viết: Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay
chỉ là lịch sử của công cụ lao động. Vai trò quan trọng, quyết định của
công cụ lao động đối với xã hội loài người đã từng được Marx nhìn nhận
khi ông viết: Vấn đề quan trọng không phải là làm ra cái gì mà bằng cách
gì làm ra cái đó. Chiếc cày chìa vôi và máy cày, máy gặt đập liên hợp
cùng làm ra hạt lúa. Nhưng với chiếc cày chìa vôi, một người một vụ cực
nhọc từ sớm đến khuya chỉ làm ra vài tạ lúa, cuộc sống quanh năm lam lũ,
đói khổ! Với máy cày, máy gặt đập liên hợp, một người một vụ thong thả,
nhẹ nhàng cũng làm ra hàng ngàn tấn lúa, cuộc sống phong lưu, nhàn nhã!
Nếu nhìn nhận lịch sử xã hội loài người bằng lịch sử công cụ lao động
thì loài người đã không phải trải qua một thế kỉ đấu tranh giai cấp nồi
da nấu thịt!
Lịch sử xã hội loài
người dù ở bất kì thời nào, ở bất kì nước nào đều có chu kì thịnh – suy
và thời thịnh là chủ yếu. Yếu tố làm nên thời thịnh và đặc trưng thời
thịnh là: Vua sáng, tôi hiền. Lễ nghĩa, kỉ cương được coi trọng. Người
dân được chăm lo, bảo vệ. Cuộc sống bình yên. Trên dưới thuận hòa, một
lòng dựng nước, giữ nước. Nhờ có thời thịnh xuyên suốt trong lịch sử,
các quốc gia được củng cố, vững mạnh mới còn lại đến hôm nay. Nhờ có
thời thịnh kéo dài hàng trăm năm, hàng ngàn năm mới hình thành được
những nền văn minh rực rỡ, mới xuất hiện những nền văn hóa đặc sắc còn
lại đến hôm nay. Khi giai cấp thống trị thối nát, bóc lột, đàn áp, hà
hiếp lương dân, dân đói khổ bất bình nổi lên. Đó là lúc đấu tranh giai
cấp, lúc xã hội suy vong. Đấu tranh giai cấp là đấu tranh xã hội ở phạm
vi quốc gia đã tan nát cả nước, đã nghèo khổ cả dân tộc, là thảm họa của
dân tộc, ở phạm vi thế giới là tàn phá cả thế giới, là thảm họa của cả
loài người, không thể có văn minh, càng không thể có phát triển! Chở
thuyền là sức dân, lật thuyền cũng là sức dân! Dân đóng thuế nuôi Nhà
nước nhưng khi khi Nhà nước suy vong, thối nát, hại dân, phản nước,
chính Dân sẽ lật đổ Nhà nước thối nát, dựng lên Nhà nước mới tử tế với
dân, mở ra thời thịnh mới!
Đấu tranh
giai cấp chỉ nổi lên khi xã hội suy vong. Đó là những khúc ghềnh thác
của dòng chảy lịch sử, là những trang sử buồn trong pho sử oanh liệt hào
hùng của các dân tộc. Lịch sử dân tộc nào cũng có những khúc ghềnh
thác, những trang sử buồn, nhưng đó chỉ là khoảnh khắc, không phải là
toàn bộ lịch sử. Lịch sử một đất nước, một dân tộc mà chỉ là lịch sử đấu
tranh giai cấp thì đất nước đó, dân tộc đó không thể tồn tại đến hôm
nay. Người sinh hạ ra học thuyết đấu tranh giai cấp, sinh hạ ra chủ
nghĩa Cộng sản càng dấn sâu vào sai lầm khi nông nổi khẳng định: Đấu
tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển!
Đấu
tranh giai cấp là nội chiến ở Liên Xô, là tử hình cả gia đình Nga
Hoàng, cả gia đình quí tộc, ku lắc, tư sản, thời Lénine! Đấu tranh giai
cấp là kì thị trí thức, là thủ tiêu hàng chục triệu trí thức, nghê sĩ,
cán bộ, đảng viên Cộng sản thời Staline! Đấu tranh giai cấp là thổ cải,
là công xã, là cách mạng văn hóa, đấu tố, truy bức, giết hại hàng chục
triệu người ở Trung Hoa, là đất nước kiệt quệ, tan hoang, hàng trăm
triệu dân nghèo đói, nhà nọ phải đổi con cho nhà kia để giết trẻ con ăn
thịt cho qua cơn đói thời Mao Trạch Đông! Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp
là cải cách ruộng đất, đấu tố, truy bức, giết hại hàng trăm ngàn đồng
bào, đồng chí của cách mạng, là cải tạo tư sản phá sạch cơ sở sản xuất
kinh doanh tư nhân, là thủ tiêu tài năng sáng tạo của người lao động!
Đấu tranh giai cấp là tù đày, hãm hại những nhà cách mạng trung thực,
những trí thức, nghệ sĩ tài năng trong những vụ án tạo dựng! Đấu tranh
giai cấp là sau tháng tư năm 1975 tù đày không án hơn một triệu người đã
làm việc cho chính quyền Sài Gòn, khoét sâu mãi hố ngăn cách trong lòng
dân tộc! Đấu tranh giai cấp là không cần biết đến pháp luật, công cụ
bạo lực chuyên chính vô sản muốn bắt ai thì bắt, muốn đẩy ai vào tù thì
đẩy! Những cái đó là động lực phát triển xã hội sao?
Đấu
tranh giai cấp chỉ làm hỗn loạn xã hội, suy yếu dân tộc, thụt lùi lịch
sử. Chỉ có trí tuệ, chỉ có tự do dân chủ, giải phóng năng lực sáng tạo
của con người mới là động lực phát triển xã hội. Nhờ có trí tuệ được
giải phóng, con người khám phá ra những qui luật tự nhiên và vận dụng
những qui luật đó tạo ra những máy móc công nghiệp, mở ra thời công
nghiệp đưa con người từ xã hội phong kiến nông nghiệp thô sơ, tối tăm,
ngưng đọng sang xã hội tư bản công nghiệp chan hòa ánh sáng và thần tốc
phát triển. Trí tuệ làm cho con người trở thành khổng lồ. Trí tuệ mới
thực sự là động lực thúc đẩy xã hội phát triển chứ không phải là đấu
tranh giai cấp!
Tuyên ngôn đảng Cộng
sản của Marx và Engels tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp để tuyệt đối
hóa giai cấp công nhân, đưa giai cấp công nhân lên chủ thể xã hội, trở
thành giai cấp quyết định vận mệnh loài người, quyết định tiến trình
lịch sử. Giai cấp công nhân thời ông Marx chỉ là những người lao động cơ
bắp, những người quai búa trong các xưởng máy và chiếc búa, công cụ lao
động thô sơ của họ cùng với chiếc liềm gặt lúa của giai cấp nông dân
trở thành biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản! Hai công cụ lao động tiêu
biểu thời ông Marx đã trở thành xa lạ với hôm nay! Chỉ riêng biểu tượng
của chủ nghĩa Cộng sản đã thấy sự lỗi thời của chủ nghĩa Marx! Tuyên
ngôn đảng Cộng sản tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp cũng để tuyệt đối
hóa vai trò của đảng Cộng sản, tuyệt đối hóa vị trí độc quyền thống trị
xã hội của đảng Cộng sản!
Tuyệt đối
hóa đấu tranh giai cấp là một sai lầm lịch sử của loài người do đó tuyệt
đối hóa vị trí độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản cũng là một
sai lầm lịch sử của loài người! Các nước công nghiệp châu Âu với những
lãnh tụ Cộng sản kiệt xuất Marx, Engels, Lénine đã đưa giai cấp công
nhân quai búa đi trước trong đấu tranh giai cấp do đó họ cũng đi trước
trong nhận ra sai lầm lịch sử của đấu tranh giai cấp và họ đã đi trước
trong việc dứt khoát từ bỏ sai lầm lịch sử đó. Trước sức đấu tranh mạnh
mẽ của nhân dân, trước đòi hỏi thúc bách của cuộc sống, trước sự vận
động của lịch sử, từ năm 1989, các nước Cộng sản châu Âu đã phải đồng
loạt từ bỏ đấu tranh giai cấp, từ bỏ vị trí độc quyền thống trị xã hội
của đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam bất chấp thực tế cuộc sống và
lời giải đáp của lịch sử, vẫn khư khư giữ lấy sai lầm và tội lỗi của đấu
tranh giai cấp, tiếp tục nô dịch nhân dân trong sự độc quyền thống trị
xã hội của đảng Cộng sản! Đó là món nợ của đảng Cộng sản Việt Nam cộng
thêm vào món nợ máu từ trước mà đảng Cộng sản Việt Nam đã vay của dân
tộc Việt Nam, vay của lịch sử Việt Nam!
Đấu
tranh giai cấp đẻ ra chuyên chính vô sản. Để thực hiện chuyên chính vô
sản phải có công cụ bạo lực và công an chính là công cụ bạo lực đó. Khẩu
hiệu treo trước cơ quan bộ Công an: Công an nhân dân chỉ biết còn đảng
còn mình chính là bản giao kèo bán linh hồn công an cho đảng Cộng sản và
đảng Cộng sản đã lấy tiền thuế của dân để mua những linh hồn đó, biến
con người thành công cụ rồi dùng công cụ công an tước đoạt quyền tự do
dân chủ của dân, nô dịch dân! Với bản giao kèo Công an nhân dân chỉ biết
còn đảng còn mình, công an không còn là công cụ bảo vệ pháp luật, công
an không còn để bảo vệ dân nữa, công an chỉ còn là công cụ của đảng Cộng
sản, chỉ để bảo vệ đảng Cộng sản!
Thưa
ông Nguyễn Thành Tâm và các ông công an chỉ biết còn đảng còn mình! Là
một người lính đã đi qua suốt những năm tháng khắc nghiệt nhất của lịch
sử đất nước, trong đó có bốn mươi năm là người Cộng sản, tôi đã từng gửi
đức tin vào đấu tranh giai cấp để rồi tôi phải nhận ra đó là đức tin
tôn giáo mê muội. Giặc ngoại xâm gây ra cho dân tộc Việt Nam những tội
ác man rợ, độc địa, nặng nề nhất chính là giặc Minh thế kỉ XV đến từ
Trung Nguyên phía Bắc! Học thuyết đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc chém
giết đẫm máu nhất, học thuyết đày đọa người Việt Nam tàn khốc, thê thảm
nhất, học thuyết chia rẽ dân tộc Việt Nam triệt để, sâu sắc nhất, học
thuyết kìm hãm, hủy diệt sức sống Việt Nam nặng nề, lâu dài nhất chính
là học thuyết đấu tranh giai cấp cũng đến từ Trung Nguyên phương Bắc.
Học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx xuất xứ từ châu Âu
nhưng đi qua con đường Trung Hoa đến Việt Nam. Từ bản gốc đấu tranh giai
cấp đã mất tính người. Đấu tranh giai cấp đến Việt Nam qua những cố vấn
Trung Hoa, mang màu sắc bạo chúa Trung Hoa, lại kèm cả mưu đồ Đại Hán
Trung Hoa sẽ càng tăm tối, nguy hại!
Với những người lính chúng tôi, khẩu súng của chúng tôi không hướng vào nhân dân mà hướng vào những đội quân xâm lược. Nhân dân thân yêu luôn ở phía sau những người lính chúng tôi. Mồng hai Tết nguyên đán Tân Hợi 1971, lớp học viên trường sĩ quan Thông tin chúng tôi vai mang súng, lưng cõng máy vô tuyến điện đi diễn tập chiến đấu. Chúng tôi vừa dừng chân đào hầm, dựng lán trong cánh rừng Yên Thế, Bắc Giang, thì những bà mẹ trong hội Mẹ Chiến Sĩ gánh gạo nếp, xách gà đến. Ngày đó dân miền Bắc nghèo lắm, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Người dân nông thôn càng nghèo khổ hơn! Thế mà những người mẹ nghèo ấy bắt gà nuôi trong chuồng, xúc gạo nếp nhà dành cho ngày giỗ ngày tết cho chúng tôi ăn tết. Ngày tết xa nhà, được ăn bát cơm nếp thơm, miếng thịt gà ngọt của những người mẹ nghèo, nước mắt tôi cứ ứa ra. Dù mê muội đấu tranh giai cấp thế nào, chúng tôi cũng không thể gây tội ác với nhân dân!
Nhưng với công
an, công cụ bạo lực của nhà nước chuyên chính vô sản thì khác. Thực chất
của chuyên chính vô sản là nô dịch nhân dân! Đối tượng của chuyên chính
vô sản chính là nhân dân. Những tiếng nói trung thực của nhân dân khác
biệt với nhà nước chuyên chính vô sản, những tiếng nói khát vọng tự do
dân chủ của nhân dân đều trở thành Các – Thế - Lực – Địch, đều trở thành
đối tượng chuyên chính của công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình!
Trong những tình thế đó, sự mê muội đấu tranh giai cấp đã đẩy nhân dân
ruột thịt sang phía Các – Thế - Lực – Địch như đã từng diễn ra trong cải
cách ruộng đất, trong vụ việc tạo dựng lên vụ án xét lại chống đảng,
trong vụ việc Nhân Văn Giai Phẩm . . . Sự mê muội đấu tranh giai cấp của
công an, công cụ bạo lực chuyên chính vô sản sẽ là nước mắt, là máu của
nhân dân, là những năm tháng tù đày dành cho những tinh hoa, những khí
phách Việt Nam, là tội ác với dân tộc, với lịch sử!
6. Hiểm họa từ phương Bắc
Bên
cạnh đế quốc phương Bắc khổng lồ có nền văn minh rực rỡ lâu đời, có đội
quân nhà nghề hùng mạnh, cơ động và thiện chiến, có triết lí Bình thiên
hạ từ hơn 1500 năm trước, luôn nuôi tham vọng bành trướng thôn tính
không gian lãnh thổ lân bang và đồng hóa không gian tâm hồn dân tộc láng
giềng, dân tộc Việt Nam nhỏ bé, hiền lành cùng với nền văn minh lúa
nước khiêm nhường vẫn tồn tại và lặng lẽ phát triển từ lưu vực sông Hồng
đến lưu vực sông Cửu Long là nhờ nền văn minh lúa nước Việt Nam tuy
khiêm nhường nhưng có bản sắc riêng, có sức sống bền bỉ như cây lúa trời
Nam Bộ, không bị nền văn minh thảo nguyên phương Bắc đồng hóa, là nhờ
khối thương yêu đùm bọc dân tộc Việt Nam.
Trong
kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, những câu ca dao nhắc nhở tình
thương yêu đùm bọc dân tộc là những câu tha thiết nhất. Thương yêu đùm
bọc dân tộc vừa là tình cảm thân thiết, gần gũi: Bầu ơi thương lấy bí
cùng / Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Vừa là tình cảm thiêng
liêng, cao cả, rộng lớn: Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một
nước phải thương nhau cùng. Nhắc nhở con cháu bằng ca dao, tục ngữ về
tình thương yêu đùm bọc dân tộc, tổ tiên người Việt còn nhắc nhở con
cháu bằng cả những câu chuyện thần linh, truyền thuyết, huyền thoại.
Truyền thuyết bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ là lời nhắc nhở tha thiết đó.
Truyền thuyết bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ là Tuyên ngôn về tình thương
yêu đùm bọc dân tộc của dân tộc Việt Nam! Tuyên ngôn được tổ tiên làm
sẵn từ trước cho con cháu để bác bỏ, để ngăn chặn học thuyết đấu tranh
giai cấp của chủ nghĩa Marx, bác bỏ Tuyên ngôn đảng Cộng sản đưa giai
cấp ra trấn áp, đánh phá dân tộc! Người trong nước Việt Nam không phân
biệt giai tầng sang hèn, không phân chia giai cấp giàu nghèo, dù là
người Việt trên núi cao Việt Bắc hay người Việt dưới bưng biền Nam Bộ
đều từ bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ sinh ra, đều là đồng bào, cùng một
bọc! Hỡi đồng bào cả nước! Tiếng đồng bào mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tha
thiết kêu gọi nhân dân Việt Nam đứng lên đánh giặc cứu nước trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ là lời kêu gọi những đứa con
cùng một bọc của Mẹ Âu Cơ, Mẹ Việt Nam, là lời vang vọng của tổ tiên,
của non sông đất nước Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam!
Nền
sản xuất nông nghiệp lúa nước tạo ra nền văn minh lúa nước sông Hồng,
cũng tạo ra thế giới tâm hồn giàu chất trữ tình, giàu tình thương yêu
trong con người Việt Nam. Tình thương yêu vừa là sản phẩm của nền văn
hóa, vừa là đòi hỏi của sự tồn tại, là lời giải trước thách đố của lịch
sử, của hoàn cảnh! Thương người như thể thương thân, Lá lành đùm lá
rách, vừa là đạo lí, vừa là lẽ sống, là bí quyết tồn tại của dân tộc
Việt Nam! Đạo lí của ông Marx là đấu tranh. Với ông Marx, hạnh phúc là
đấu tranh! Đấu tranh là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Đạo lí của
dân tộc Việt Nam là thương yêu, là Lá lành đùm lá rách!
Giặc
hung bạo cướp nước lúc nào cũng lăm le, rình rập ở cửa ngõ phía Bắc mà ở
trong nước người Việt Nam lại chia trận tuyến giai cấp đấu tố, loại bỏ
nhau, lá rách đấu tố lá lành, lá rách xử bắn lá lành, Trí phú địa hào
đào tận gốc, trốc tận rễ thì dân tộc Việt Nam đâu còn đến hôm nay! Chỉ
những người Việt Nam thiếu giáo dục, không được nghe những lời hát ru
của mẹ bằng ca dao, dân ca, không được mẹ kể cho nghe những câu chuyện
cổ tích, thần thoại về tình thương yêu đùm bọc dân tộc, không được học
thấu đáo lịch sử đất nước, không tiếp nhận được cái hồn lịch sử Việt
Nam, không biết đến di sản của tổ tiên mới rước học thuyết đấu tranh
giai cấp bạo liệt, phản con người, phản dân tộc về hủy diệt dân tộc Việt
Nam, làm dân tộc Việt Nam suy yếu để đế quốc Cộng sản Trung Hoa nhảy
vào khống chế, nô dịch dân tộc Việt Nam!
Trước
chiến thắng Biên giới 1950, trước khi có những đoàn cố vấn Trung Hoa
mang học thuyết đấu tranh giai cấp tràn vào Việt Bắc, Hồ Chí Minh và
những người lãnh đạo Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không hề có khái
niệm đấu tranh giai cấp. Điều đó được chứng minh trong Tuyên ngôn dựng
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2.9.1945 và trong ứng xử đối nội,
đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nếu có đấu tranh giai
cấp thì Quốc hội năm 1946 không thể có các đảng phái không Cộng sản như
đảng Dân chủ, đảng Xã hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng
Đồng Minh Hội. Nếu có đấu tranh giai cấp thì Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa không thể thu nạp được những đại thần của vương triều nhà
Nguyễn như các ông Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Khắc Hòe..., những
nhà tư sản, địa chủ lớn như các ông Nguyễn Sơn Hà, Đỗ Đình Thiện, Lâm
Triều Phát..., những trí thức xuất thân từ tầng lớp trên như các ông
Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Huyên, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Huỳnh Thúc
Kháng, Hồ Đắc Di, Đặng Phúc Thông, Dương Bạch Mai,...
Hồ
Chí Minh đến với chủ nghĩa Cộng sản đơn giản chỉ vì Quốc tế Cộng sản
ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1920, đọc luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lénine, trong đó người đứng đầu Quốc tế Cộng
sản đã nồng nhiệt ủng hộ, khuyến khích cách mạng giải phóng dân tộc, coi
cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận hữu cơ của cách mạng vô sản
thế giới, Hồ Chí Minh sung sướng đến ứa nước mắt! Đây rồi, phương
hướng, cẩm nang, bạn đường của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đây
rồi! Hồ Chí Minh cùng với cộng sự của ông đến với chủ nghĩa Cộng sản
chỉ để tìm đường cứu nước, đánh đuổi ngoại xâm mà thôi. Cũng mục đích
giành độc lập dân tộc, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Đinh Công
Tráng, Hoàng Hoa Thám... chọn con đường khởi nghĩa, Phan Bội Châu chọn
con đường Đông Du, Phan Chu Trinh chọn con đường mở mang dân trí, đấu
tranh nghị trường, Hồ Chí Minh chọn con đường Cộng sản. Tóm lại, giải
phóng dân tộc là mục đích, Cộng sản chỉ là con đường, là phương thức của
thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc, không phải là đích đến của dân
tộc Việt Nam!
(xem tiếp phần 3)
Phạm Đình Trọng
Nguồn: Dân Luận
No comments:
Post a Comment