Sunday, August 28, 2011

Thưa chuyện với công cụ bạo lực chuyên chính vô sản (2)

Phạm Đình Trọng “…Cũng vì đức tin tôn giáo vào học thuyết đấu tranh giai cấp mà những chiến sĩ công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình đã hành xử quá bạo liệt, nhẫn tâm, phản nhân văn…”

 5. Đức tin tôn giáo


 Khi ông cảnh sát khu vực, đại úy Dương Tấn Lắm quan tâm đặc biệt đến tôi, thường xuyên đến với tôi, thường xuyên “điểm danh” tôi, khi ông quận phó công an Nguyễn Thành Tâm phụ trách an ninh nội chính bề bộn công việc vẫn dành thời gian gặp tôi tới hai lần là công an đã đưa tôi vào kính ngắm, coi tôi là đối tượng của cuộc đấu tranh giai cấp không khoan nhượng, một mất một còn. Vì thế tôi đã nói với ông Tâm rằng cuộc gặp của ông Tâm với tôi chỉ là khúc dạo đầu, chỉ là nấc thang đầu tiên trong ứng xử của công an với tôi. Chuyện trò với ông Tâm tôi cũng cảm nhận được là, ông Tâm chưa hề đọc các bài viết của tôi! Điều tôi cảm nhận rõ hơn nữa là đức tin tôn giáo của ông Tâm vào học thuyết đấu tranh giai cấp sai lầm, tệ hại của ông Marx đã gây cho dân tộc Việt Nam những đau thương mất mát nặng nề, làm cho trang sử cách mạng Việt Nam những năm tháng vừa qua, phía sau khúc tráng ca do tuyên truyền tạo nên là khúc bi ca ai oán về một dân tộc tang tóc và chia rẽ sâu sắc, một đất nước tan nát! Đó thực sự là những trang sử đau thương trong lịch sử Việt Nam vốn đã quá nhiều đau thương!

Đức tin tôn giáo là đức tin bằng cảm tính, bằng giáo lí, với lòng thành kính, ngưỡng mộ vào một lí tưởng tưởng là tuyện đối, vĩnh hằng, cao cả, nhân hậu, cứu rỗi con người. Vì là đức tin nhiều cảm tính, nặng giáo lí nên nhiều mê muội, thiếu tỉnh táo. Năm 26 tuổi, học trường Sĩ quan Thông tin, bên cạnh những môn học vô tuyến điện, chiến thuật tác chiến của tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh trong các hình thức chiến thuật: Vây căn cứ, diệt viện binh. Vận động tấn công kết hợp chốt chặn... Sĩ quan thông tin phải tổ chức thông tin bảo đảm chỉ huy cho những hình thái chiến thuật đó, tôi còn được học khá nhiều giờ về triết học Marx Lénine, về chủ nghĩa xã hội khoa học và tôi đã từng có đức tin tôn giáo đó!

Ông Tâm chưa đọc các bài viết của tôi nhưng vì đức tin tôn giáo vào học thuyết đấu tranh giai cấp mà ông Tâm dành cho tôi hai cuộc gặp! Cũng vì đức tin tôn giáo vào học thuyết đấu tranh giai cấp mà những chiến sĩ công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình đã hành xử quá bạo liệt, nhẫn tâm, phản nhân văn đối với những tiếng nói đòi giải phóng con người, giải phóng dân tộc khỏi mớ giáo lí phản con người, phản dân tộc! Bạo liệt, nhẫn tâm cả với những phụ nữ yếu ớt, đơn độc cần được nâng đỡ che chở như các chị Lê Thị Công Nhân, Tạ Phong Tần, Dương Thị Tân, Phạm Thanh Nghiên... Vì thế, tôi thấy cần viết một chút về đức tin tôn giáo vào học thuyết đấu tranh giai cấp đã mang đến cho dân tộc Việt Nam bao tai họa và đang làm chia rẽ, li tán, suy yếu dân tộc Việt Nam.

 Khi ông K. Marx và ông F. Engels công bố Tuyên ngôn của đảng cộng sản, tháng hai, năm 1848, ông Marx sinh tháng năm, năm 1818, mới 29 tuổi, ông Engels, sinh tháng mười, năm 1820, mới 27 tuổi. Khổng Tử, nhà tư tưởng cổ điển vĩ đại nhất của Trung Hoa đã khái quát chặng đường đời của kẻ làm trai có chí bình sinh là: Tu thân – Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ. Và mốc tuổi tác của những chặng đường đó là: Tam thập nhi lập – Tứ thập bất hoặc – Ngũ thập tri thiên mệnh.. Ba mươi tuổi, tam thập nhi lập, mới là tuổi lập thân, tề gia, ổn định gia đình, Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà / Cả ba việc ấy ắt là phải lo. Bốn mươi tuổi mới có sự tự tin để không còn nghi hoặc, để hiểu mình, hiểu người, đảm đương, gánh vác những trách nhiệm nặng nề trước xã hội. Học hành, tích lũy kiến thức, phát triển tư duy sáng tạo, đến năm mươi tuổi mới biết mệnh đất trời, mới nắm được qui luật tự nhiên. Thế giới tự nhiên là thế giới vật chất, nhìn thấy, nắm bắt, cân đo được, do đó khám phá qui luật tự nhiên cũng dễ dàng, đơn giản hơn khám phá qui luật xã hội phi vật thể. Những thiên tài kiệt xuất của loài người cũng phải ngũ thập tri thiên mệnh, đến tuổi năm mươi mới mon men tiếp cận được một, hai qui luật tự nhiên. N. Copernic, 1473 – 1543, nhà khoa học lỗi lạc người Ba Lan sau hàng năm trời dán mắt vào ống kính nhìn xa hướng lên vòm trời và sau hàng năm trời đo đạc bóng mặt trời đổ trên mặt đất, mãi 57 tuổi mới khám phá ra quả đất quay quanh mặt trời. Nhà khoa học thiên tài người Anh I. Newton, 1642 – 1727, sau hàng ngàn lần nhìn quả táo rụng trong vườn, sau hàng ngàn ngày đọc sách suy ngẫm tìm tòi, mãi năm 47 tuổi mới khám phá ra qui luật vạn vật hấp dẫn!

 Không như qui luật tự nhiên hiển hiện trong vật thể, có thể cân đo, có thể tái tạo trong phòng thí nghiệm, qui luật xã hội ẩn chứa trong đời sống xã hội, ẩn chứa trong thăm thẳm lịch sử phát triển xã hội loài người, không thể cân đo, không thể tái tạo. Lịch sử loài người chính là phòng thí nghiệm để tìm ra qui luật xã hội nhưng đọc được kết quả thí nghiệm đó ngoài thông tuệ kinh sử cần có mẫn cảm nghệ sĩ và quan trọng nhất là sự từng trải cuộc đời. Với khoa học tự nhiên, tuổi 29 và tuổi 27 vẫn là tuổi trẻ người, với khoa học xã hội, tuổi 29 và tuổi 27 càng trẻ người non dạ! Thời hai thanh niên 29 tuổi và 27 tuổi, Marx và Engels, mở to mắt nhìn vào xã hội, nhận thức xã hội là thời gian giai cấp tư sản công nghiệp vừa hình thành đang hổi hả tích lũy tư bản bằng bóc lột tàn nhẫn sức lực, mồ hôi và cả máu những người làm thuê mà ông Marx đưa lên thành giai cấp công nhân. Cùng với bóc lột người làm thuê trong nước, giai cấp tư sản công nghiệp cũng quyết liệt xâm chiếm thuộc địa bằng chiến tranh xâm lược để bóc lột tài nguyên thuộc địa và bóc lột máu người dân thuộc địa. Chủ nghĩa tư bản thời hoang dã đó thực sự là con thú đói! Đói vốn! Đói thời gian! Đói sức lao động! Đói nguyên liệu! Con thú người đó đã bộc lộ sự man rợ độc ác nhất trong mối quan hệ xã hội người! Trẻ người non dạ lại phải chứng kiến tội lỗi ngập ngụa của xã hội tư bản thời hoang dã, chứng kiến hai thái cực đối kháng trong mối quan hệ ông chủ bóc lột và người làm thuê bị bóc lột, hai thanh niên tuổi 29 và 27, Marx và Engels, liền hăm hở soạn thảo Tuyên ngôn của đảng Cộng sản, cương lĩnh chính trị đưa giai cấp làm thuê lên vũ đài chính trị đấu tranh giai cấp nhân tạo quyết liệt!

 Tuyên ngôn to tát, lời lẽ hùng hồn nhưng lại vô cùng non nớt về chính trị của ngòi bút tuổi trẻ thừa bầu máu nóng nhưng lại thiếu sự chín chắn, từng trải và tầm khái quát không thể thiếu của một luận văn chính trị. Ngay câu đầu tiên của Tuyên ngôn đảng Cộng sản, hai thanh niên 29 tuổi và 27 tuổi, Marx và Engels, đã coi chủ nghĩa Cộng sản do họ khai sinh ra là bóng ma! Nguyên văn câu đầu tiên của Tuyên ngôn đảng Cộng sản: Một bóng ma đang ám ảnh châu Âu - bóng ma chủ nghĩa Cộng sản! The Communist Manifesto: A spectre is haunting Europe – the spectre of Communism! Bóng ma thì không có thật! Đã là bóng ma thì chẳng có gì tốt lành! Kêu gọi giai cấp vô sản thế giới làm cách mạng thế giới bằng chủ nghĩa Cộng sản chỉ là bóng ma thì quá ngờ nghệch, dại dột, hớ hênh, non kém của một thủ lĩnh chính trị trẻ người non dạ, còn thiếu hụt quá lớn kiến thức xã hội! Thực tế đã chứng minh đúng như điều Marx và Engels đã viết trong Tuyên ngôn đảng Cộng sản, chủ nghĩa Cộng sản chỉ là bóng ma!

 Đất nước Xô Viết sau gần một thế kỉ tìm đường đi lên chủ nghĩa Cộng sản bằng mồ hôi, máu và nước mắt đã phải dừng lại, quay về với con đường phát triển theo qui luật tự nhiên là kinh tế tư bản! Vì càng đi, những tiêu chí của chủ nghĩa Cộng sản càng xa vời, trong khi thực tế những nước tư bản chủ nghĩa lại đang đến ngày càng gần với những tiêu chí nhân đạo của chủ nghĩa Cộng sản! Sau gần một thế kỉ đấu tranh giai cấp khốc liệt để xây dựng chủ nghĩa Cộng sản trên phạm vi thế giới, hơn một trăm triệu mạng người đã bị giết bởi đấu tố, thủ tiêu, tù đày, pháp trường. Tất cả những nước thực hiện chủ nghĩa Cộng sản đều có hàng triệu, hàng chục triệu người bị giết tức tưởi do đấu tranh giai cấp, đều có hàng triệu, hàng chục triệu người bị tù đày hoặc phải bỏ nước ra đi do đấu tranh giai cấp! Đó là thực tế lịch sử không thể chối cãi!

 Tuyên ngôn đảng Cộng sản đã nâng những người lao động làm thuê, thời đó hầu hết là lao động làm thuê bằng cơ bắp, không vốn liếng, không tri thức, chỉ có lòng căm thù giai cấp và khát khao đòi quyền lợi, trở thành giai cấp công nhân và đưa họ lên vũ đài chính trị, đẩy họ vào cuộc đấu tranh giai cấp nhân tạo tàn khốc chỉ với mục đích bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình! Tuyên ngôn đảng Cộng sản đã vô cùng sai lầm, cực đoan khi tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp. Tuyên ngôn khẳng định chắc nịch: Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp! Chính luận điểm cực đoan, sai trái, nguy hại này đã đẩy loài người vào cuộc đại loạn đấu tranh giai cấp tàn bạo, triền miên, kéo dài suốt thế kỉ XX, thế kỉ xuất hiện, lan tràn các đảng Cộng sản.

 Loài người xuất hiện từ một loài khỉ tinh khôn biết lao động bằng công cụ và sự phát triển của công cụ lao động cũng chính là sự phát triển của loài người. Lịch sử phát triển từ chiếc rìu đá đến bàn phím máy vi tính là lịch sử huy hoàng, lí thú, hấp dẫn, đầy tính người, rất tiêu biểu cho lịch sử phát triển xã hội loài người. Viết như Tuyên ngôn đảng Cộng sản thì cũng có thể viết: Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử của công cụ lao động. Vai trò quan trọng, quyết định của công cụ lao động đối với xã hội loài người đã từng được Marx nhìn nhận khi ông viết: Vấn đề quan trọng không phải là làm ra cái gì mà bằng cách gì làm ra cái đó. Chiếc cày chìa vôi và máy cày, máy gặt đập liên hợp cùng làm ra hạt lúa. Nhưng với chiếc cày chìa vôi, một người một vụ cực nhọc từ sớm đến khuya chỉ làm ra vài tạ lúa, cuộc sống quanh năm lam lũ, đói khổ! Với máy cày, máy gặt đập liên hợp, một người một vụ thong thả, nhẹ nhàng cũng làm ra hàng ngàn tấn lúa, cuộc sống phong lưu, nhàn nhã! Nếu nhìn nhận lịch sử xã hội loài người bằng lịch sử công cụ lao động thì loài người đã không phải trải qua một thế kỉ đấu tranh giai cấp nồi da nấu thịt!

 Lịch sử xã hội loài người dù ở bất kì thời nào, ở bất kì nước nào đều có chu kì thịnh – suy và thời thịnh là chủ yếu. Yếu tố làm nên thời thịnh và đặc trưng thời thịnh là: Vua sáng, tôi hiền. Lễ nghĩa, kỉ cương được coi trọng. Người dân được chăm lo, bảo vệ. Cuộc sống bình yên. Trên dưới thuận hòa, một lòng dựng nước, giữ nước. Nhờ có thời thịnh xuyên suốt trong lịch sử, các quốc gia được củng cố, vững mạnh mới còn lại đến hôm nay. Nhờ có thời thịnh kéo dài hàng trăm năm, hàng ngàn năm mới hình thành được những nền văn minh rực rỡ, mới xuất hiện những nền văn hóa đặc sắc còn lại đến hôm nay. Khi giai cấp thống trị thối nát, bóc lột, đàn áp, hà hiếp lương dân, dân đói khổ bất bình nổi lên. Đó là lúc đấu tranh giai cấp, lúc xã hội suy vong. Đấu tranh giai cấp là đấu tranh xã hội ở phạm vi quốc gia đã tan nát cả nước, đã nghèo khổ cả dân tộc, là thảm họa của dân tộc, ở phạm vi thế giới là tàn phá cả thế giới, là thảm họa của cả loài người, không thể có văn minh, càng không thể có phát triển! Chở thuyền là sức dân, lật thuyền cũng là sức dân! Dân đóng thuế nuôi Nhà nước nhưng khi khi Nhà nước suy vong, thối nát, hại dân, phản nước, chính Dân sẽ lật đổ Nhà nước thối nát, dựng lên Nhà nước mới tử tế với dân, mở ra thời thịnh mới!

 Đấu tranh giai cấp chỉ nổi lên khi xã hội suy vong. Đó là những khúc ghềnh thác của dòng chảy lịch sử, là những trang sử buồn trong pho sử oanh liệt hào hùng của các dân tộc. Lịch sử dân tộc nào cũng có những khúc ghềnh thác, những trang sử buồn, nhưng đó chỉ là khoảnh khắc, không phải là toàn bộ lịch sử. Lịch sử một đất nước, một dân tộc mà chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp thì đất nước đó, dân tộc đó không thể tồn tại đến hôm nay. Người sinh hạ ra học thuyết đấu tranh giai cấp, sinh hạ ra chủ nghĩa Cộng sản càng dấn sâu vào sai lầm khi nông nổi khẳng định: Đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển!

 Đấu tranh giai cấp là nội chiến ở Liên Xô, là tử hình cả gia đình Nga Hoàng, cả gia đình quí tộc, ku lắc, tư sản, thời Lénine! Đấu tranh giai cấp là kì thị trí thức, là thủ tiêu hàng chục triệu trí thức, nghê sĩ, cán bộ, đảng viên Cộng sản thời Staline! Đấu tranh giai cấp là thổ cải, là công xã, là cách mạng văn hóa, đấu tố, truy bức, giết hại hàng chục triệu người ở Trung Hoa, là đất nước kiệt quệ, tan hoang, hàng trăm triệu dân nghèo đói, nhà nọ phải đổi con cho nhà kia để giết trẻ con ăn thịt cho qua cơn đói thời Mao Trạch Đông! Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp là cải cách ruộng đất, đấu tố, truy bức, giết hại hàng trăm ngàn đồng bào, đồng chí của cách mạng, là cải tạo tư sản phá sạch cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân, là thủ tiêu tài năng sáng tạo của người lao động! Đấu tranh giai cấp là tù đày, hãm hại những nhà cách mạng trung thực, những trí thức, nghệ sĩ tài năng trong những vụ án tạo dựng! Đấu tranh giai cấp là sau tháng tư năm 1975 tù đày không án hơn một triệu người đã làm việc cho chính quyền Sài Gòn, khoét sâu mãi hố ngăn cách trong lòng dân tộc! Đấu tranh giai cấp là không cần biết đến pháp luật, công cụ bạo lực chuyên chính vô sản muốn bắt ai thì bắt, muốn đẩy ai vào tù thì đẩy! Những cái đó là động lực phát triển xã hội sao?

 Đấu tranh giai cấp chỉ làm hỗn loạn xã hội, suy yếu dân tộc, thụt lùi lịch sử. Chỉ có trí tuệ, chỉ có tự do dân chủ, giải phóng năng lực sáng tạo của con người mới là động lực phát triển xã hội. Nhờ có trí tuệ được giải phóng, con người khám phá ra những qui luật tự nhiên và vận dụng những qui luật đó tạo ra những máy móc công nghiệp, mở ra thời công nghiệp đưa con người từ xã hội phong kiến nông nghiệp thô sơ, tối tăm, ngưng đọng sang xã hội tư bản công nghiệp chan hòa ánh sáng và thần tốc phát triển. Trí tuệ làm cho con người trở thành khổng lồ. Trí tuệ mới thực sự là động lực thúc đẩy xã hội phát triển chứ không phải là đấu tranh giai cấp!

 Tuyên ngôn đảng Cộng sản của Marx và Engels tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp để tuyệt đối hóa giai cấp công nhân, đưa giai cấp công nhân lên chủ thể xã hội, trở thành giai cấp quyết định vận mệnh loài người, quyết định tiến trình lịch sử. Giai cấp công nhân thời ông Marx chỉ là những người lao động cơ bắp, những người quai búa trong các xưởng máy và chiếc búa, công cụ lao động thô sơ của họ cùng với chiếc liềm gặt lúa của giai cấp nông dân trở thành biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản! Hai công cụ lao động tiêu biểu thời ông Marx đã trở thành xa lạ với hôm nay! Chỉ riêng biểu tượng của chủ nghĩa Cộng sản đã thấy sự lỗi thời của chủ nghĩa Marx! Tuyên ngôn đảng Cộng sản tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp cũng để tuyệt đối hóa vai trò của đảng Cộng sản, tuyệt đối hóa vị trí độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản!

 Tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp là một sai lầm lịch sử của loài người do đó tuyệt đối hóa vị trí độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản cũng là một sai lầm lịch sử của loài người! Các nước công nghiệp châu Âu với những lãnh tụ Cộng sản kiệt xuất Marx, Engels, Lénine đã đưa giai cấp công nhân quai búa đi trước trong đấu tranh giai cấp do đó họ cũng đi trước trong nhận ra sai lầm lịch sử của đấu tranh giai cấp và họ đã đi trước trong việc dứt khoát từ bỏ sai lầm lịch sử đó. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, trước đòi hỏi thúc bách của cuộc sống, trước sự vận động của lịch sử, từ năm 1989, các nước Cộng sản châu Âu đã phải đồng loạt từ bỏ đấu tranh giai cấp, từ bỏ vị trí độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam bất chấp thực tế cuộc sống và lời giải đáp của lịch sử, vẫn khư khư giữ lấy sai lầm và tội lỗi của đấu tranh giai cấp, tiếp tục nô dịch nhân dân trong sự độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản! Đó là món nợ của đảng Cộng sản Việt Nam cộng thêm vào món nợ máu từ trước mà đảng Cộng sản Việt Nam đã vay của dân tộc Việt Nam, vay của lịch sử Việt Nam!

 Đấu tranh giai cấp đẻ ra chuyên chính vô sản. Để thực hiện chuyên chính vô sản phải có công cụ bạo lực và công an chính là công cụ bạo lực đó. Khẩu hiệu treo trước cơ quan bộ Công an: Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình chính là bản giao kèo bán linh hồn công an cho đảng Cộng sản và đảng Cộng sản đã lấy tiền thuế của dân để mua những linh hồn đó, biến con người thành công cụ rồi dùng công cụ công an tước đoạt quyền tự do dân chủ của dân, nô dịch dân! Với bản giao kèo Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình, công an không còn là công cụ bảo vệ pháp luật, công an không còn để bảo vệ dân nữa, công an chỉ còn là công cụ của đảng Cộng sản, chỉ để bảo vệ đảng Cộng sản!

 Thưa ông Nguyễn Thành Tâm và các ông công an chỉ biết còn đảng còn mình! Là một người lính đã đi qua suốt những năm tháng khắc nghiệt nhất của lịch sử đất nước, trong đó có bốn mươi năm là người Cộng sản, tôi đã từng gửi đức tin vào đấu tranh giai cấp để rồi tôi phải nhận ra đó là đức tin tôn giáo mê muội. Giặc ngoại xâm gây ra cho dân tộc Việt Nam những tội ác man rợ, độc địa, nặng nề nhất chính là giặc Minh thế kỉ XV đến từ Trung Nguyên phía Bắc! Học thuyết đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc chém giết đẫm máu nhất, học thuyết đày đọa người Việt Nam tàn khốc, thê thảm nhất, học thuyết chia rẽ dân tộc Việt Nam triệt để, sâu sắc nhất, học thuyết kìm hãm, hủy diệt sức sống Việt Nam nặng nề, lâu dài nhất chính là học thuyết đấu tranh giai cấp cũng đến từ Trung Nguyên phương Bắc. Học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx xuất xứ từ châu Âu nhưng đi qua con đường Trung Hoa đến Việt Nam. Từ bản gốc đấu tranh giai cấp đã mất tính người. Đấu tranh giai cấp đến Việt Nam qua những cố vấn Trung Hoa, mang màu sắc bạo chúa Trung Hoa, lại kèm cả mưu đồ Đại Hán Trung Hoa sẽ càng tăm tối, nguy hại!

Với những người lính chúng tôi, khẩu súng của chúng tôi không hướng vào nhân dân mà hướng vào những đội quân xâm lược. Nhân dân thân yêu luôn ở phía sau những người lính chúng tôi. Mồng hai Tết nguyên đán Tân Hợi 1971, lớp học viên trường sĩ quan Thông tin chúng tôi vai mang súng, lưng cõng máy vô tuyến điện đi diễn tập chiến đấu. Chúng tôi vừa dừng chân đào hầm, dựng lán trong cánh rừng Yên Thế, Bắc Giang, thì những bà mẹ trong hội Mẹ Chiến Sĩ gánh gạo nếp, xách gà đến. Ngày đó dân miền Bắc nghèo lắm, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Người dân nông thôn càng nghèo khổ hơn! Thế mà những người mẹ nghèo ấy bắt gà nuôi trong chuồng, xúc gạo nếp nhà dành cho ngày giỗ ngày tết cho chúng tôi ăn tết. Ngày tết xa nhà, được ăn bát cơm nếp thơm, miếng thịt gà ngọt của những người mẹ nghèo, nước mắt tôi cứ ứa ra. Dù mê muội đấu tranh giai cấp thế nào, chúng tôi cũng không thể gây tội ác với nhân dân!

 Nhưng với công an, công cụ bạo lực của nhà nước chuyên chính vô sản thì khác. Thực chất của chuyên chính vô sản là nô dịch nhân dân! Đối tượng của chuyên chính vô sản chính là nhân dân. Những tiếng nói trung thực của nhân dân khác biệt với nhà nước chuyên chính vô sản, những tiếng nói khát vọng tự do dân chủ của nhân dân đều trở thành Các – Thế - Lực – Địch, đều trở thành đối tượng chuyên chính của công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình! Trong những tình thế đó, sự mê muội đấu tranh giai cấp đã đẩy nhân dân ruột thịt sang phía Các – Thế - Lực – Địch như đã từng diễn ra trong cải cách ruộng đất, trong vụ việc tạo dựng lên vụ án xét lại chống đảng, trong vụ việc Nhân Văn Giai Phẩm . . . Sự mê muội đấu tranh giai cấp của công an, công cụ bạo lực chuyên chính vô sản sẽ là nước mắt, là máu của nhân dân, là những năm tháng tù đày dành cho những tinh hoa, những khí phách Việt Nam, là tội ác với dân tộc, với lịch sử!

 6. Hiểm họa từ phương Bắc

 Bên cạnh đế quốc phương Bắc khổng lồ có nền văn minh rực rỡ lâu đời, có đội quân nhà nghề hùng mạnh, cơ động và thiện chiến, có triết lí Bình thiên hạ từ hơn 1500 năm trước, luôn nuôi tham vọng bành trướng thôn tính không gian lãnh thổ lân bang và đồng hóa không gian tâm hồn dân tộc láng giềng, dân tộc Việt Nam nhỏ bé, hiền lành cùng với nền văn minh lúa nước khiêm nhường vẫn tồn tại và lặng lẽ phát triển từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Cửu Long là nhờ nền văn minh lúa nước Việt Nam tuy khiêm nhường nhưng có bản sắc riêng, có sức sống bền bỉ như cây lúa trời Nam Bộ, không bị nền văn minh thảo nguyên phương Bắc đồng hóa, là nhờ khối thương yêu đùm bọc dân tộc Việt Nam.

 Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, những câu ca dao nhắc nhở tình thương yêu đùm bọc dân tộc là những câu tha thiết nhất. Thương yêu đùm bọc dân tộc vừa là tình cảm thân thiết, gần gũi: Bầu ơi thương lấy bí cùng / Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Vừa là tình cảm thiêng liêng, cao cả, rộng lớn: Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng. Nhắc nhở con cháu bằng ca dao, tục ngữ về tình thương yêu đùm bọc dân tộc, tổ tiên người Việt còn nhắc nhở con cháu bằng cả những câu chuyện thần linh, truyền thuyết, huyền thoại. Truyền thuyết bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ là lời nhắc nhở tha thiết đó. Truyền thuyết bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ là Tuyên ngôn về tình thương yêu đùm bọc dân tộc của dân tộc Việt Nam! Tuyên ngôn được tổ tiên làm sẵn từ trước cho con cháu để bác bỏ, để ngăn chặn học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx, bác bỏ Tuyên ngôn đảng Cộng sản đưa giai cấp ra trấn áp, đánh phá dân tộc! Người trong nước Việt Nam không phân biệt giai tầng sang hèn, không phân chia giai cấp giàu nghèo, dù là người Việt trên núi cao Việt Bắc hay người Việt dưới bưng biền Nam Bộ đều từ bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ sinh ra, đều là đồng bào, cùng một bọc! Hỡi đồng bào cả nước! Tiếng đồng bào mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tha thiết kêu gọi nhân dân Việt Nam đứng lên đánh giặc cứu nước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ là lời kêu gọi những đứa con cùng một bọc của Mẹ Âu Cơ, Mẹ Việt Nam, là lời vang vọng của tổ tiên, của non sông đất nước Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam!

 Nền sản xuất nông nghiệp lúa nước tạo ra nền văn minh lúa nước sông Hồng, cũng tạo ra thế giới tâm hồn giàu chất trữ tình, giàu tình thương yêu trong con người Việt Nam. Tình thương yêu vừa là sản phẩm của nền văn hóa, vừa là đòi hỏi của sự tồn tại, là lời giải trước thách đố của lịch sử, của hoàn cảnh! Thương người như thể thương thân, Lá lành đùm lá rách, vừa là đạo lí, vừa là lẽ sống, là bí quyết tồn tại của dân tộc Việt Nam! Đạo lí của ông Marx là đấu tranh. Với ông Marx, hạnh phúc là đấu tranh! Đấu tranh là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Đạo lí của dân tộc Việt Nam là thương yêu, là Lá lành đùm lá rách!

 Giặc hung bạo cướp nước lúc nào cũng lăm le, rình rập ở cửa ngõ phía Bắc mà ở trong nước người Việt Nam lại chia trận tuyến giai cấp đấu tố, loại bỏ nhau, lá rách đấu tố lá lành, lá rách xử bắn lá lành, Trí phú địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ thì dân tộc Việt Nam đâu còn đến hôm nay! Chỉ những người Việt Nam thiếu giáo dục, không được nghe những lời hát ru của mẹ bằng ca dao, dân ca, không được mẹ kể cho nghe những câu chuyện cổ tích, thần thoại về tình thương yêu đùm bọc dân tộc, không được học thấu đáo lịch sử đất nước, không tiếp nhận được cái hồn lịch sử Việt Nam, không biết đến di sản của tổ tiên mới rước học thuyết đấu tranh giai cấp bạo liệt, phản con người, phản dân tộc về hủy diệt dân tộc Việt Nam, làm dân tộc Việt Nam suy yếu để đế quốc Cộng sản Trung Hoa nhảy vào khống chế, nô dịch dân tộc Việt Nam!

 Trước chiến thắng Biên giới 1950, trước khi có những đoàn cố vấn Trung Hoa mang học thuyết đấu tranh giai cấp tràn vào Việt Bắc, Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không hề có khái niệm đấu tranh giai cấp. Điều đó được chứng minh trong Tuyên ngôn dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2.9.1945 và trong ứng xử đối nội, đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nếu có đấu tranh giai cấp thì Quốc hội năm 1946 không thể có các đảng phái không Cộng sản như đảng Dân chủ, đảng Xã hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Nếu có đấu tranh giai cấp thì Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thể thu nạp được những đại thần của vương triều nhà Nguyễn như các ông Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Khắc Hòe..., những nhà tư sản, địa chủ lớn như các ông Nguyễn Sơn Hà, Đỗ Đình Thiện, Lâm Triều Phát..., những trí thức xuất thân từ tầng lớp trên như các ông Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Huyên, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Đắc Di, Đặng Phúc Thông, Dương Bạch Mai,...

 Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Cộng sản đơn giản chỉ vì Quốc tế Cộng sản ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1920, đọc luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lénine, trong đó người đứng đầu Quốc tế Cộng sản đã nồng nhiệt ủng hộ, khuyến khích cách mạng giải phóng dân tộc, coi cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận hữu cơ của cách mạng vô sản thế giới, Hồ Chí Minh sung sướng đến ứa nước mắt! Đây rồi, phương hướng, cẩm nang, bạn đường của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đây rồi! Hồ Chí Minh cùng với cộng sự của ông đến với chủ nghĩa Cộng sản chỉ để tìm đường cứu nước, đánh đuổi ngoại xâm mà thôi. Cũng mục đích giành độc lập dân tộc, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám... chọn con đường khởi nghĩa, Phan Bội Châu chọn con đường Đông Du, Phan Chu Trinh chọn con đường mở mang dân trí, đấu tranh nghị trường, Hồ Chí Minh chọn con đường Cộng sản. Tóm lại, giải phóng dân tộc là mục đích, Cộng sản chỉ là con đường, là phương thức của thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc, không phải là đích đến của dân tộc Việt Nam!

 (xem tiếp phần 3)

Phạm Đình Trọng

Nguồn: Dân Luận

No comments:

Post a Comment