Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
- Trong bài “Chút son trên miệng cá sấu”, tôi nêu lên nhận định: các
cuộc bầu cử ồn ào nhưng giả tạo ở Việt Nam không hề có liên hệ gì đến
cái gọi là dân chủ mà chính quyền cũng như đảng Cộng sản muốn phô trương
cả. Có bầu cử Quốc Hội hay không, chế độ chính trị tại Việt Nam hiện
nay, tự bản chất, cũng vẫn là một chế độ độc tài, một thứ độc tài tuyển
cử (electoral authoritarianism).
Vậy, chỉ số (indicator) dân chủ là gì?
Có nhiều quan điểm khác nhau.
Một
cách tiêu cực, nhiều học giả cho dân chủ là những gì trái ngược với độc
tài, do đó, chỉ số của dân chủ cũng chính là sự vắng mặt của các dấu
hiệu độc tài. Chẳng hạn, theo Giovanni Sartori, trong cuốn The Theory of
Democracy Revisited (1987), dân chủ là một hệ thống trong đó không ai
có thể tự chọn chính mình, không ai có thể tự chiếm đoạt quyền lực một
cách vô điều kiện và vô giới hạn. (Nhớ đến điều 4 trong Hiến pháp Việt
Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”)
Một cách tích cực, nhiều học giả khác loay hoay tìm cách xác định các bảng đo lường cụ thể để đánh giá mức độ dân chủ của từng quốc gia. Tuy nhiên, ở khía cạnh này, giới nghiên cứu rất ít thống nhất với nhau. Trong cuốn Prospects of Democracy: A Study of 172 Countries (Routledge, London, 1997), Tatu Vanhanen cho “hầu như tất cả các nhà nghiên cứu từng nỗ lực đo lường mức độ dân chủ đều sử dụng những chỉ số khác nhau” (tr. 31). Ngay ở một nhà nghiên cứu, các chỉ số cũng có thể biến thiên khi họ xê dịch từ giai đoạn này sang giai đoạn khác hoặc từ nền văn minh này sang nền văn minh khác.
Nhận thức được khuyết điểm ấy, sau này, nhiều học giả cố gắng chuẩn hóa các tiêu chí đo lường dân chủ. Đại khái, có hai khuynh hướng chính.
Một, thiên về số
lượng, tiêu biểu nhất là Philips Cutright, người, trong bài “National
political development: measurement and analysis” đăng trên tạp chí
American Sociological Review số 28 năm 1963, đề xuất một bảng dấu chỉ
(index) để đánh giá các nền dân chủ, xếp hạng từ 0 đến 63 điểm, căn cứ
trên nhiều tiêu chí khác nhau, từ việc tự do bầu cử đến sự hiện hữu của
đối lập, v.v…
Hai, thiên về chất
lượng, tiêu biểu nhất là Kenneth A. Bollen, người, trong bài “Political
democracy and the timing of development” đăng trên tạp chí American
Sociological Review số 44 năm 1979, đánh giá các nền dân chủ dựa vào hai
kích thước chính: quyền chính trị (political rights) và tự do chính trị
(political liberties). Quan niệm này được tổ chức Freedom House chấp
nhận với một sự thay đổi nhỏ: họ dùng chữ tự do dân sự (civil liberties)
thay vì tự do chính trị. Ở mỗi kích thước, người ta đo lường theo bảng
điểm từ một đến bảy: Các quốc gia được xếp hạng từ một đến hai được xem
là tự do; từ ba đến năm được xem là tự do một phần (partly free); và từ
sáu đến bảy được xem là không có tự do.
Cái gọi là đánh giá theo chất lượng này, thật ra, cũng là đánh giá theo phán đoán; mà phán đoán thì không thể tránh khỏi chủ quan. Để hạn chế chủ quan, người ta lại phác họa ra nhiều khả năng và mức độ biến thiên của từng tiêu chí để có thể cân nhắc. Khả năng và mức độ biến thiên ấy càng nhiều, số lượng chỉ số càng tăng, vấn đề càng trở nên phức tạp và thường vượt ra ngoài tầm thu thập tư liệu của từng nhà nghiên cứu; cuối cùng, chỉ tạo cơ hội cho các nhà độc tài ngụy biện và tránh né tội trạng của mình.
Chính vì thế, nhiều học giả chỉ tập trung vào các chỉ số chính. Đó chính là những điều kiện căn bản và thiết yếu của dân chủ.
Theo
Larry Diamond, Juan J. Linz và S.M. Lipset, trong bộ Politics in
Developing Countries: Comparing Experiences with Democracy (1990), các
chỉ số (và cũng là điều kiện) của dân chủ có thể được tóm gọn vào ba
điểm:
Thứ nhất, tính cạnh tranh giữa các cá nhân và tổ chức, đặc biệt các tổ chức chính trị, ở mọi vị trí quyền lực trong bộ máy nhà nước. Sự cạnh tranh này phải được thiết chế hóa và được tổ chức định kỳ (ví dụ ba hay bốn năm một lần).
Thứ
hai, sự tham gia tích cực và hiệu quả vào việc chọn lựa lãnh đạo và
chính sách – ít nhất qua các cuộc bầu cử định kỳ và công bằng – của mọi
công dân thành niên. Xin lưu ý chữ “mọi”: Không có người nào ở tuổi được
quyền ứng cử và bầu cử có thể bị loại trừ chỉ vì những lý do liên quan
đến chủng tộc, xã hội, giai cấp, tôn giáo, phái tính hay chính trị.
Và,
thứ ba, quyền tự do chính trị và dân sự, bao gồm từ quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tự do thành lập và tham gia vào các tổ chức, kể cả
tổ chức chính trị, để bảo đảm hai chỉ số đầu ở trên (cạnh tranh và tham
gia) có thể thành hiện thực.
Tatu
Vanhanen, trong cuốn Prospects of Democracy: A Study of 172 Countries,
đề nghị một cách tính toán để đánh giá mức độ tham gia của dân chúng
bằng cách dựa trên tỉ lệ cử tri đi bầu (cử tri đi bầu càng đông càng
chứng tỏ mức độ tham gia vào sinh hoạt chính trị càng cao) và mức độ
cạnh tranh bằng cách dựa trên tỉ lệ phiếu của đảng thắng cử (tỉ lệ càng
cao càng chứng tỏ tính cạnh tranh ít).
Về
phương diện mức độ tham gia chính trị của dân chúng, vấn đề sẽ trở
thành phức tạp hơn nếu chúng ta chú ý đến hai yếu tố: một, sự tham gia
vào bầu cử chỉ là một khía cạnh nhỏ trong sinh hoạt chính trị; và hai,
các quốc gia có thể có chính sách khác nhau về bầu cử: ví dụ, ở các quốc
gia có chính sách bầu cử hoàn toàn tự nguyện, số lượng cử tri đi bầu dĩ
nhiên là thấp hơn ở các quốc gia cưỡng bức bầu cử, ai không đi bầu thì
bị phạt.
Nhưng cách tính toán về tính
cạnh tranh của Tatu Vanhanen thì chính xác: ở những nơi kết quả bầu cử
suýt soát nhau, việc cạnh tranh giữa các đảng phái chính trị chắc chắn
là gay gắt hơn hẳn ở những nơi mà đảng cầm quyền bao giờ cũng thắng một
cách dễ dàng với số phiếu áp đảo, nếu không phải 100% thì cũng 98-99%.
Ứng
dụng ba chỉ số cạnh tranh, tham gia và tự do chính trị và dân sự ở
trên, bạn thử đánh giá về tình hình dân chủ tại Việt Nam xem sao. Ví dụ,
chúng ta thử trả lời các câu hỏi sau đây:
1. Ở Việt Nam, trong các cuộc bầu cử, có đảng phái hay cá nhân nào cạnh tranh với đảng Cộng sản hay không? Ngay trong các cuộc bầu cử Quốc hội, nơi tất cả các ứng cử viên phải được sự chấp thuận của đảng Cộng sản – thông qua các cuộc hội nghị hiệp thương do Mặt trận Tổ quốc tổ chức, các ứng cử viên cạnh tranh với nhau ở mức độ nào? Bao nhiêu ứng cử viên thì được chọn một?
2.
Ở Việt Nam, dân chúng có được quyền tham gia vào việc lựa chọn giới
lãnh đạo và các chính sách quan trọng của đất nước hay không? (Ví dụ,
trong việc bầu bán các chức vụ quan trọng nhất sắp tới, từ Chủ tịch nước
đến Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội, dân chúng có chút tiếng nói nào
không?)
3. Ở Việt Nam, dân chúng có
quyền được hưởng bất cứ chút tự do căn bản nào, từ tự do ngôn luận đến
tự do báo chí, tự do thành lập và tham gia đảng phái hay không?
Xin
lưu ý các bạn đang sống ở Việt Nam: bạn có thể giữ kín các câu trả lời
trong bụng mình. Không cần nói ra đâu. Coi chừng bạn bị bắt vì tội trốn
thuế hay vì hai cái condom đã qua sử dụng rồi đấy!
Nguồn: Nguyễn Hưng Quốc Blog (VOA)
No comments:
Post a Comment