
Trọng Đạt
- Câu nói trên của Tiến sĩ Kissinger vì một sự hiểu lầm nào đó đã gây
ngộ nhận khiến nhiều người Việt quốc gia hận thù nhà ngoại giao này, họ
nghĩ rằng ông đã chửi rủa đồng bào ta khi miền Nam Việt Nam đang trong
cơn hấp hối tháng 4-1975. Câu này đã được ghi tại trang 641, phần nói về
The Fall of Viet Nam, April 1975, trong cuốn Kissinger a Biography của
Walter Isaacson, cuốn sách 800 trang viết về Henry Kissinger.
Nguyên văn như sau:
“Why don’t these people die fast? The worst thing that could happen would be for them to linger on”
nghĩa là “Tại sao những người ấy không chết cho nhanh? Điều tệ hại nhất
có thể sẩy ra cho họ là cứ sống kéo dài mãi” nếu dịch xuôi cho dễ hiểu
là “Sao họ không chết lẹ cho rồi? nếu phải sống ngắc ngoải mãi thật là
vô cùng bất hạnh cho họ”.
Ông
ta than thở cho số phận của người Đông Dương chứ không rủa họ chóng
chết. Ở đây không phải là để bênh vực cho ông này, kết án ông nọ hoặc
thương ông này ghét ông kia mà là chúng ta cần hiểu cho đúng lịch sử.
Tháng
12 năm 1974 và tháng 1-1975, CSBV bắt đầu mở cuộc tổng tấn công sau
cùng để chiếm miền nam VN tại Phước Long đúng hai năm sau ngày ký Hiệp
định Paris. Tháng 3-1975 họ tấn công chiếm Ban Mê Thuột, cuối tháng 3,
đâu tháng 4 năm 1975 hai quân khu 1 và 2 lọt vào tay Cộng quân nhanh
chóng do sự sai lầm của Tổng thống Thiệu trong kế hoạch tái phối trí lực
lượng. Họ bắt đầu chuyển quân đại qui mô vội vã nề phía nam để dứt điểm
Sài gòn.
Khoảng
đầu tháng 4-1975 trong khi CSBV đang ra sức tiến về Sài gòn, hòa bình
Trung Đông thì tả tơi, bang giao với Nga sô xuống thấp, Cam Bốt gần sụp
đổ và bây giờ miền nam VN đang bị CS nuốt chửng. Khi ấy ông Tổng thống
Ford rời Tòa Bạch ốc đi nghỉ mát đánh golf tại Palm Springs tiểu bang
California .
Bản
tin truyền hình buổi tối tai Mỹ cho thấy những lời chỉ trích trước cảnh
ông Tổng thống Ford đi đánh golf cùng lúc với cảnh Đông Dương đang dẫy
chết trong đau khổ. Khi những người phóng viên tới phi trường phỏng vấn
TT về thảm kịch đang diễn ra, ông chỉ nói ồ ồ rồi chạy trốn họ.
Kissinger và Ford đã cử Tướng Weyand, Tham mưu trưởng tới Sài Gòn để
thẩm định tình hình quân sự trong một tuần kể từ 28-3-1975, ông trở lại
Hoa Kỳ ngày 4-4-1975. Khi về ông đi máy bay thẳng tới Palm Springs để
báo cáo trực tiếp tình hình lên Tổng thống. Ông đề nghị cho oanh tạc
bằng B-52 trở lại và đồng thời xin viện trợ khẩn cấp722 triệu cho quân
đội VNCH, điều xin thứ nhất tái oanh tạc sẽ trái luật, khoản viện trợ
trên đây rất lớn mà chỉ có một ít người tin là có thể giúp VNCH cầm cự
được. Khoản xin này gồm trên 440 xe tăng, 740 đại bác, 100 ngàn súng cá
nhân, 120 ngàn tấn đạn dược.
Báo
cáo của Tướng Weyand biện minh cho khoản viện trợ mới nhằm kêu gọi tới
cái nhìn địa lý chính trị của Kissinger, nó muốn nói “Uy tín lâu dài của
Hoa Kỳ trên thế giới phụ thuộc vào nỗ lực thiện chí của ta cố gắng làm
hơn là thành công hay thất bại trong lúc này,nếu ta không nỗ lực uy tín
của ta như một đồng minh sẽ bị tiêu tan có lẽ sẽ qua hết đời này sang
đời khác”.
Nói
khác đi lời khuyên đó là kéo dài sự kết thúc cuộc chiến tranh cũng
chính là cái lý luận mà Kissinger đã có lần dùng để biện minh cho cuộc
chiến đấu trên mặt đất: dể giữ uy tín khắp nơi. Ít ngày sau dân biểu
Whitten (tiểu bang Mississipi) hỏi “Đề nghị của ông dựa trên cơ bản nào
trừ việc chỉ có hình thức, khi chúng ta đều biết chắc là sắp thua rồi?.
Tướng Weyand trả lời: “Thưa ông, cái cách mà chúng ta làm hay cái hình
thức như ông nói nó cũng quan trọng như thực chất của vấn đề vậy”
Kissinger
phản đối đề nghị xin tái oanh tạc của Weyand: “ Nếu ông làm thế, người
dân Mỹ sẽ lại xuống đường biểu tình. Các phụ tá của TT tại Palm Springs
bàn về khoản xin viện trợ, đa số cố vấn của Ford đều chống đối đề nghị
này. Bộ trưởng quốc phòng Schlesinger cũng chống đối nhưng bị Kissinger
loại ra khỏi cuộc bàn cãi và trở về Wasington, ông này cho là tình thế
của Quân đội VNCH nay không hy vọng gì.
Kissinger
vốn bi quan đồng ý rằng tình hình không thể cứu vãn nổi nhưng dù vậy
ông cho rằng đề nghị xin Quốc hội khoản viện trợ 722 triệu là cách duy
nhất để cứu vãn danh dự cho Hoa Kỳ. Ford đồng ý mặc dù không nhiệt tâm
lắm. Trên đường tới phòng họp báo để nói cho các ký giả biết quyết định,
khi ấy Kissinger quay lai nói với Nessen, tùy viên báo chí phủ Tổng
thống về người miền nam VN như sau:
“Sao họ không chết lẹ cho rồi? nếu phải sống ngắc ngoải mãi thật là vô cùng bất hạnh cho họ”
Tại
phòng họp, Kissinger lý luận theo địa lý chính trị. Ông ta nhấn mạnh
quyết định viện trợ sẽ vang tiếng khắp thế giới , cái dấu hiệu gì nó sẽ
gửi cho bạn và thù khắp nơi, ảnh hưởng của nó với uy tín của Hoa Kỳ sẽ
như thế nào hơn là hiệu quả quân sự của nó ở vùng bao quanh Sài Gòn.
Tiến sĩ nói
“Chúng
ta đang đối diện với tấn thảm kịch vĩ đại, trong đó có cái gì liên quan
tới uy tín, tới danh dự của Hoa Kỳ, tới cái mà các dân tộc khác trên
thế giới sẽ nhìn chúng ta như thế nào”
(Kissinger a Biography, trang 641-642)
Ngày
10-4-1975 Ford ra Quốc hội xin 722 triệu, Kissinger làm việc tới khuya
soạn một bài diễn văn chỉ trích Quốc hội đã làm tiêu tan Hiệp định Paris
. Lý luận về chữ “uy tín” mà ông đã dùng khi bắt đầu nhiệm kỳ của Nixon
cũng là chữ mà ông nhấn mạnh lúc cuối. Trong thông điệp mà ông soạn cho
Ford để gửi Quốc hội, lý luận này được nói gọn gàng
“
Hoa Kỳ không muốn viện trợ đầy đủ cho đồng minh của chúng ta để họ
chiến đấu sẽ ảnh hưởng uy tín của chúng ta như một đồng minh. Và chính
uy tín này là cơ bản cho an ninh của ta vậy”
(Sách đã dẫn trang 642)
(Sách đã dẫn trang 642)
Ford
giữ câu nói về uy tín nhưng ông làm nhẹ bớt những lời hoa mỹ của
Kissinger tấn công chỉ trích Quốc Hội. Ông nhờ phụ tá Hartmann sửa lại
dể việc xin viện trợ kết hợp với hòa giải quốc gia. Mặc dù đã nói nhẹ
nhàng nhưng tại Quốc hội không có ai vỗ tay cả. Khi Tổng thống ngỏ lời
xin viện trợ thì có hai dân biểu Dân chủ Moffet và Miller bỏ ra khỏi
phòng họp. Cả Quốc hội lẫn người dân đều không còn muốn ủng hộ cuộc
chiến tranh VN .
Sau
này Kissinger đổ lỗi cho Watergate đã khiến cho Hiệp Định Paris bị suy
sụp. Nói rằng sự sụp đổ quyền hành của Tổng thống có nghĩa là Hoa Kỳ
không thể và không muốn cưỡng bức sự thi hành Hiệp định. Nhưng đó không
phải do vụ Watergate mà vì người ta đã quá ghê sợ cuộc chiến VN, một
cuộc chiến tranh vô ích nó đã tạo tư tưởng cô lập thập niên 70 và khiến
cho người dân phải lùi lại trước viễn tượng kéo dài chiến tranh Đông
Dương.
Cho
rằng quyền hạn của Tổng thống bị Watergate gây ảnh hưởng xấu tệ đến
việc thảo luận về VN, cũng vậy nỗi thống khổ do VN có lẽ đã đẩy mạnh sự
nhiệt thành của những người chống Nixon trong việc điều tra vụ
Watergate. Trong bất cứ trường hợp nào ngay cả TT Ford, vụ Watergate đã
qua đi, Quốc hội không cho phép cấp viện trợ kéo dài sự đòi hỏi cho danh
dự ở VN.
Cuối
tháng 3-1975, do kế hoạch tái phối trí lực lượng sai lầm của TT Thiệu
đã khiến VNCH mất hai quân khu 1 và 2, mất luôn cả hai quân đoàn 1 và 2
trong hai tuần lễ từ 14-3 tới 30-3-75. VNCH mất 5 sư đoàn bộ binh (22,
23, 1, 2, 3), 11 liên đoàn Biệt động quân, mất gần hết 2 sư đoàn tổng
trừ bị.. vũ khí đạn dược coi như mất hết, một phần lớn lọt vào tay Cộng
quân.
Thời
điểm giữa tháng 4-1975, dù VNCH có soay sở được một tỷ Mỹ kim để mua
tiếp liệu đạn dược cũng không thể cứu vãn tình thế, chỉ trừ có yểm trợ
của B-52 mới hy vọng đảo ngược tình hình, lý do quân đội VNCH đã mất một
nửa (1/2) lực lượng chính qui (các sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 và 11 liên
đoàn Biệt động quân) trong khi CSBV bị sứt mẻ ít hơn.

Ford
nói chẳng biết Kissinger có chấp nhận ý tưởng này không? Ông thích ý
tưởng này, thảo luận xong ông bảo Hartmann khoan nói cho ai biết chờ ông
quyết định, bản thảo có gửi cho Kissinger nhưng không có ghi câu nói về
VN này vì muốn dấu không cho Kissinger biết. Khi lên máy bay Hartmann
đánh máy bài diễn văn và đưa Tổng thống coi, ông hài lòng. Trước sáu
ngàn sinh viên tụ tập tại sân vận động bóng rổ, ông tuyên bố:
“Nước
Mỹ có thể lấy lại niềm tự hào trước khi có cuộc chiến VN nhưng chúng ta
không thể lấy lại nó bằng cách trở lại cuộc chiến tranh liên hệ với Mỹ
nay dã chấm dứt”
(Kisinger a Biography trang 644)
(Kisinger a Biography trang 644)
Ford
đọc rõ từng câu từng chữ, đám sinh viên ai nấy reo hò, dậm chân mừng
rỡ, họ nhẩy nhót ôm nhau sung sướng mãn nguyện trong khi đó tai nước
đồng minh xa xôi bên kia trái đất, cảnh máu chảy thịt rơi đang diễn ra
hàng ngày. Câu nói “Cuộc chiến đã chấm dứt” vang dội trong nước, nó thể
hiện bản tính rộng lượng tế nhị của một người cầu thủ Mỹ già biết cách
xử thế cho tế nhị mặc dù đã thua trân đấu khi tiếng còi vang lên và cuộc
chơi đã dứt.
Walter
Isaacson cho rằng mục tiêu địa lý chính trị phức tạp của Henry
Kissinger và ý muốn đổ lỗi trách cứ Quốc Hội của ông có thể hợp lý nhưng
nó không còn hợp thời nữa. Điều bổ ích nhất cho nước Mỹ cần làm, cho
vấn đề tấm lý trong nước và ngay cả cho uy tín trên thế giới ấy là hãy
để cuộc Chiến tranh VN ở lại sau lưng (Sách đã dẫn, trang 644).
Trên
máy bay về tòa Bạch Ốc, một ký giả hỏi Tổng thống bài diễn văn này có
do Kissinger soạn hay chấp nhận nó không? Ông nói hoàn toàn không. Một
người ký giả hỏi có phải Tổng thống cố tình nói thế để đánh dấu sự chấm
dứt một thời ký trong lịch sử Mỹ. TT Ford đáp:
“Đúng
vậy, dù sao đó là một thời khá lâu dài, mối cảm kích của tôi lẫn lộn.
Tôi thực tình không muốn nó chấm dứt như thế nhưng ông phải thực tế. Ta
không thể thực hiện được sự hoàn hảo trên thế gian này”
(Sách đã dẫn trang 644, 645).
(Sách đã dẫn trang 644, 645).
Sáng
hôm sau tại tòa Bạch Ốc, Ford cho gọi Hartmann xuống phòng bầu dục, khi
ấy Tổng thống đang ngậm tẩu hút xì và Henry Kissinger đang đi tới lui
giận dữ như con sư tử mặc dù Ford cố làm cho ông ta bớt giận. Kissinger
vung tay trợn mắt nhìn Hartmann bảo:
“Chúng ta không cần phải nói thế, tại sao lại dấu không cho tôi biết tí gì cả?
Hartmann lẩm bẩm nói vì soạn bản diễn văn trễ, không ngờ câu nói về Việt Nam ấy lại tạo lên nổ lớn như thế. Ông ta không nói Ford muốn câu này từ đầu. Ford đồng ý bảo tại vội quá đấy, rồi ông nháy mắt với Hartmann, ông phụ tá này bảo Kissinger “thôi từ nay sẽ không sảy ra chuyện này nữa”
Nhiều
năm sau, khi kể lại chuyện cũ, Ford ca ngợi Kissinger không hết lời
nhưng khi nói tới bài diễn văn đọc tại Đại học Tulane, ông nói Henry
Kissinger không thích câu “chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt” Tôi biết
Henry muốn tiếp tục tranh đấu xin thêm viện trợ và trách cứ, đổ lỗi cho
Quốc Hội. Chính Ford cũng muốn vậy nhưng ông cho biết đã làm việc tại
Quốc hội hai mươi lăm năm, ông biết chắc họ sẽ khước từ. Ford và
Kissinger không đồng ý nhau ở điểm đó, nhưng Ford nói ông làm đúng, ông
hiểu rõ đường lối của lập pháp hơn Kissinger.
Giờ
phú chót, Kissinger tìm một giải pháp ngoại giao và lệnh cho Đại sứ
Martin khuyên ông Thiệu từ chức. Hôm sau TT Thiệu từ chức và kết án Hoa
Kỳ không giữ lời cam kết, bỏ rơi đồng minh. Sau này Kissinger gửi thư
giảng hòa vơi ông Thiệu và nói vụ Watergate đã hủy hoại khả năng của
chính phủ Mỹ xin viện trợ cho VNCH năm 1973 và 74 nhất là tình trạng bế
tắc năm 1972 do nội bộ Mỹ gây ra. Kissinger nói nếu chúng ta tiếp tục
cuộc chiến thì Quốc Hội Mỹ đã áp đặt từ 1973 cái mà họ đã làm sau này
năm 1975, ý ông ta nói nếu VNCH không ký kết Hiệp định Paris thì Quốc
hội đã bức tử miền nam VN từ năm 1973. Thật vậy tháng 1-1973 Quốc hội Mỹ
đã tiến hành cắt viện trợ bỏ Đông Dương đánh đổi lấy 580 tù binh Mỹ nếu
VNCH gây trở ngại hòa đàm (Legislation to terminate the war was
speeding its way to the floor – Lary Berman, No Peace No Honor, p.221).
TT
Thiệu từ chức ngày 21-4-1975 nhưng BV vẫn tiến quân, sáng 29-4-1975 Đại
sứ Martin được lệnh thi hành chiến dịch Operation Frequent Wind (Gió
đều), đài phát thanh quân đội Mỹ cử bản “Giáng Sinh Trắng” , người xướng
ngôn viên nói “Hôm nay tại Sài Gòn 105 dộ và đang lên” đó là mật hiệu
đã định trước cho kiều bào Mỹ biết đế tới địa điểm tập trung di tản. Máy
bay trực thăng từ hạm đội bắt đầu tới xà xuống nóc tòa đại sứ Mỹ và
những địa điểm khác để bốc người.
Cuộc
di tản tại VN không êm thắm như bên Căm Bốt, từ bao lâu nay cảnh hốt
hoảng lúc trực thăng rời nóc tòa đại sứ đã ăn sâu trong tâm khảm nhiều
người Mỹ, một vết thương kéo dài khác của chiến tranh, một hình ảnh tiêu
biểu khác của sự tan vỡ kéo dài một thập niên.
Henry Kissinger nói với các phụ tá trong tòa Bạch Ốc bằng giọng khôi hài cay đắng
“Tôi là một Bộ trưởng ngoại giao duy nhất đã mất hai quốc gia trong vòng ba tuần lễ”
Nhiếp ảnh gia trẻ Kennerly chụp hình quang cảnh rồi nói
“Tin mừng là chiến tranh đã chấm dứt, hung tin là chúng ta thua trận”.
“Tin mừng là chiến tranh đã chấm dứt, hung tin là chúng ta thua trận”.
Sau này Kissinger viết.
“Lần đầu tiên trong thời hậu chiến, Hoa Kỳ đã bỏ rơi một dân tộc thân thiện vào tay Cộng sản, họ đã từng tin tưởng chúng ta”
(Walter Isaacson: Kissinger a Biography, p.647)
(Walter Isaacson: Kissinger a Biography, p.647)
Sự thực Kissinger nhận định không đúng lắm, Hoa Kỳ đã từng bỏ rơi Trung Hoa năm 1949 và Đông Âu năm 1945.
Trong
chính phủ, Kissinger là người cổ võ hăng hái cho viện trợ cần thiết,
ông ta tự coi có trách nhiệm vì đã đàm phán tại Paris , sau này ông viết
trong hồi ký.
“Hồi đó tôi đã không ký Hiệp định nếu không được Quốc hội quả quyết sẽ
tiếp tục viện trợ dồi dào sau khi ta rút quân. Tôi không ngờ chúng ta có
thể kết thúc bằng cách vứt bỏ cà một dân tộc mà ta đã kết nghĩa đồng
minh”
(Henry Kissinger: Years of Renewal – page 476)
(Henry Kissinger: Years of Renewal – page 476)
Thấm
thoát từ ngày những đơn vị tác chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng cho
tới nay 1975 đã mười năm qua, quân Pháp rút khỏi VN tới nay đã tròn hai
mươi năm, quân Pháp trở lại Việt Nam tái chiếm thuộc địa đã ba mươi năm
qua. Tác giả Walter Isaacson nhận định (Kisinger a Biography, p.647) tất
cả những gì Hoa Kỳ đã lưu lại để cho 58,022 người tử trận thấy chỉ là
một chút uy tín do thực hiện được Hiệp định ngưng bắn, nó kéo dài vừa đủ
để che dấu sự rút lui của người Mỹ. Hòa bình và danh dự mà Kissinger
tuyên bố tháng 1-1973 đều không lâu dài. Nhưng Hiệp định Paris ít ra
cũng đã tạo được mục đích để Hoa Kỳ từ bỏ lời hứa của họ với Sài Gòn và
cái hậu quả mất uy tín thực ra cũng mơ hồ, cái mà Kissinger đưa ra chỉ
là mơ hồ
Điều ấy cho Kissinger một chút an ủi, ông ta nhận định rằng sự thất bại ở VN năm 1975 thể hiện một cú đánh vào uy tín nước Mỹ, nó làm tiêu hao sức mạnh của những lời đe dọa cũng như hứa hẹn của Hoa Kỳ trên thế giới. ông nói.
“Do
bản tính tự xá tội, chúng ta đã phá hỏng cơ bản tự do khắp nơi, sự đầu
hàng ở Đông Dương mở màn cho một thời đại ô nhục của Hoa Kỳ nó kéo dài
từ Angola tới Ethiopia, tới Iran, tới Afghanistan”
Trang 647
Trang 647
Cũng
theo tác giả Walter Isaacson, “hậu quả Domino” mà Kissinger và nhiều
người khác tiên đoán không rõ ràng. Việt Nam và Căm Bót đều đã trở thành
Cộng sản, nhưng họ lại đánh lẫn nhau thay vì đổ sang Thái Lan. Các nhà
chính khách Hoa Kỳ đã không hiểu rõ để rồi hy sinh biết bao nhân mạng.
Sau
khi chiến tranh chấm dứt, trả lời phỏng vấn đài NBC Kissinger nói có lẽ
ta sai lầm khi quá quan tâm đến một vấn đề mà bỏ quên những chuyện
khác, cuộc chiến này có tính cách Việt Nam hơn là có thể đưa tới ảnh
hưởng quốc tế.
Thiếu
tướng Vernon Walters tùy viên quân sự, người từng đưa Kissinger đi về
trong những buổi đi đêm tại Paris , cho tới nay vẫn giữ được một lá cờ
vàng nhỏ của miền nam VN trong văn phòng mình. Khi được hỏi về lá cờ
này, ông Tướng giải thích nó tiêu biểu cho “một công việc còn dang dở”
(unfinished business). Chúng ta đã để cho 39 triệu người rơi vào vòng nô
lệ. Đó là một di sản của Hòa bình trong danh dự (Theo Larry Berman, No
Peace, No Honor p.273).
Đầu
thập niên 70, đa số người Mỹ chống chiến tranh VN và chủ trương rút
khỏi Đông Dương, người dân đánh giá cuộc chiến này tàn ác, bẩn thỉu, tốn
quá nhiều xương máu vô ích, đáng ghê sợ, dài vô tận không biết đến bao
giờ mới chấm dứt … phải ra khỏi Đông Dương, sống chết mặc bay. Quốc Hội
Mỹ do thúc đấy của phong trào phản chiến cắt quân viện bỏ rơi đồng minh
không thương tiếc, cho rằng nó chỉ là cuộc chiến tranh sai lầm tai hại,
đã khiến cho đất nước bị phân hóa, dầy vò cắn xé nhau tan nát trong bao
năm qua, quá tốn kém… phải bỏ Đông Dương bằng mọi giá, từ bỏ những lý
tưởng xa vời để quay trở về với quyền lợi của nước Mỹ.
Những
người Mỹ ủng hộ chiến tranh VN chỉ là thiểu số gồm các nhà lãnh đạo
hành pháp như Tổng thống Nixon, Tiến sĩ Kissinger, Bộ trưởng Quốc phòng
Laird… giới chức quân sự và nhiều nhà học giả nghiên cứu về chiến tranh
VN… đổ lỗi cho Quốc hội cắt quân viện khiến cho VNCH sụp đổ, làm phương
hại tới uy tín của đất nước trên thế giới. Họ lên án Hoa Kỳ đã tàn nhẫn
bỏ đồng minh rơi vào vòng nô lệ của Cộng Sản, những người bạn yếu thế
này đã hết lòng tin tưởng vào Mỹ. Họ cho rằng việc rút bỏ dù chính đáng
tới đâu cũng không có giá trị đạo đức.
Bên
nào nói nghe cũng hay, cũng có lý cả, nhưng chỉ giới trẻ, thanh niên là
thích thú nhất, ít ra họ sẽ không phải đi lính đóng đồn xa xôi vạn lý
bên kia trái đất. Những người này chiếm đa số trong phong trào chống
chiến tranh, đòi rút quân về nước bỏ Đông Dương.
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
——————————————–
Tài Liệu Tham Khảo
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor House, New York 1985
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Robert Dallek: Partners In Power, Nixon and Kissinger – Harper Collins publishers 2007
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
Stanley Karnow: Vietnam , A History, A Penguin Books 1991
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến tranh Việt Nam 1963-1975, Đại Nam 2001.
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor House, New York 1985
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Robert Dallek: Partners In Power, Nixon and Kissinger – Harper Collins publishers 2007
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
Stanley Karnow: Vietnam , A History, A Penguin Books 1991
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến tranh Việt Nam 1963-1975, Đại Nam 2001.
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003
No comments:
Post a Comment