Phạm Trần - Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng sẽ chính thức thăm Trung Cộng từ 11 đến 15 tháng 10 (2011) vào lúc quan hệ giữa hai nước Việt-Trung ở vào giai đoạn tồi tệ nhất kể từ cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Tại sao ?
Cuộc chiến mà Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình của Trung Cộng lúc bấy giớ gọi là để “dậy cho Việt Nam một bài học” đã gây cho 6 tỉnh Việt Nam dọc biên giới cửa nát nhà tan, nặng nhất là các tỉnh Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn.
Có trên 40 ngàn dân và binh sỹ
Cộng sản chết và hàng trăm ngàn người khác bị thương và mất tích. Phía
Tầu cũng bị thiệt hại nặng với khỏang 14 ngàn lính chết và bị thương,
chưa kể số quân lính mất tích.
Hai bên đã gián đoạn ngoại giao
trong 12 năm cho đến khi tái lập năm 1991, sau khi Việt Nam phải rút
quân khỏi chiến trường Cao Miên để thỏa mãn đòi hỏi của Trung Cộng, sau
11 năm chiếm đóng nước này từ 1978 đến 1989.
Trong cuộc chiến này, theo ước
lượng của Tây phương thì phía Việt Nam chết khoảng 15 ngàn quân và lối
30 ngàn người khác bị thương. Quân đội Cao Miên (Khmer đỏ) cũng thiệt
mạng khoảng 15 ngàn người, nhưng không biết số quân và dân bị thương là
bao nhiêu.
VN TIẾP TỤC BỊ LÉP VẾ
Tuy nhiên Việt Nam đã phải trả một giá rất đắt cho hai cuộc chiến. Trên đất liền, theo lời Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Ðại Sứ Việt Nam tại Trung Quốc (1974-1989) thì: “Trong đàm phán biên giới, họ (Trung Hoa) ép ta làm ta mất một nửa thác Bản Giốc, dân ta cũng không được đặt chân đến Ải Nam quan nữa, tất cả ta mất hàng trăm km2 đất. Họ xóa hiệp định phân định ranh giới vịnh Bắc Bộ giữa hai Chính phủ Pháp – Thanh (do lịch sử để lại) đòi chia lại, ăn hơn của ta một phần hải phận.” (Trích Bauxite Việt Nam, ngày1/12/2010)
Ngoài ra quân Tầu còn chiếm núi
Lão Sơn trong nội địa của Việt Nam, (phía Việt Nam gọi là Cao điểm
1509), nằm ở huyện Vị Xuyên, Tỉnh Hà Giang sau cuộc chiến năm 1984.
Sau đó vào tháng 3 năm 1988, Hải
quân Tầu bất ngờ tấn công và đánh chiếm 8 mỏm đá ngầm của Việt Nam
trong Quần đảo Trường Sa, sau khi vào tháng 1/1974, lợi dụng những ngày
cuối cùng của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam mà Quân lực Việt Nam Cộng
hòa không còn đủ súng đạn tự vệ, đã tiến đánh và chiếm quần đảo Hòang Sa
từ tay quân đội miền Nam.
Quân đội Trung Cộng đã xây dựng căn cứ quân sự và sân bay ngắn hay sân bay trực thăng ở cả hai quần đảo này.
Sau khi Việt Nam và Tầu đạt “Hiệp ước biên giới trên đất liền” năm 1999 và “Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ”
trên Biển Đông năm 2000 thì Trung Cộng gia tăng áp lực đòi Việt Nam
phải giải quyết chủ quyền trên các đảo và vùng biển còn lại, trong đó có
vùng biển và quần đảo Trường Sa, nơi còn có tranh chấp của Đài Loan,
Nam Dương, Mã Lai Á, Brunei và Phi Luật Tân.
Tình hình nóng lên khi Chính
quyền tỉnh Hải Nam của Trung Cộng công bố thành lập Huyện hành chính Tam
Sa, gồm cả Hòang Sa và Trường Sa vào năm 2007 khiến người dân Sài Gòn,
xuống đường lần đầu tiêng biểu tình chống Bắc Kinh có ý đồ xâm lược.
Các cuộc biểu tình sau đó lan ra
Hà Nội nhưng không bền lâu do chính quyền CSVN đàn áp, bắt bớ và khủng
bố những người đi biểu tình.
Trong khi Trung Cộng tiếp tục
đàn áp ngư dân và hàng năm ra lệnh cấm đánh bắt vào giữa mùa cá trên
Biển Đông từ tháng 5 đến tháng 8 thì vào tháng 05 năm 2009, Bắc Kinh tự
động nạp cho Liên Hiệp Quốc Bản đồ chủ quyền trên biển Đông có hình Lưỡi
Bò hay “Đường 9 Đọan”, khoanh vùng chiếm từ 80 đến 80% diện tích Biển
Đông, gồm cả hai Quân đảo Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Việt Nam và các nước ven biển
phản đối. Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước trong vùng Thái Bình Dương, quan
trọng nhất là Úc và Tân Tây Lan cùng với các nước Âu Châu bị chi phối
bởi đường biển kinh tế quan Biển Đông cũng lên tiếng chống lại âm mưu
khống chế đường giao thông trên biển của Bắc Kinh.
Cùng với thời điểm này, Trung
Cộng gia tăng đánh, bắt và đàn áp ngư dân Việt Nam đánh cá trong khu vực
Hòang Sa và Trường Sa. Hàng trăm ngư phủ đã bị giết, nhiều người khác
mất tích và tài sản bị tịch thu và bắt chuộc tiền để được thả về.
Mỗi lần như thế, ngư dân Việt Nam phải ký giấy nhìn nhận đã đánh cá và xâm phạm “vùng biển của Trung Quốc”.
Nhưng các tầu Hải quân của Trung
Cộng và Tầu hải giám (cảnh sát biển) của Hải quân ngụy tranh dân sự thì
lại ra sức bảo vệ cho khỏang 700 thuyền và tầu đánh cá của ngư dân
Trung Quốc thường xuyên được tự do đánh bắt trong vùng biển của Việt
Nam.
Hành động Trung Cộng xâm phạm
chủ quyền lãnh hải, biển đảo và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của
Việt Nam nghiêm trọng hơn kể từ ngày 26-05-011 các Tầu Hải giám và Quân
sự của Tầu đã trắng trợn vi phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, theo
tố cáo của Liên đòan Luật sư Việt Nam :
- Ngày 26/05/2011, 03 tàu hải
giám của Trung Quốc đã cắt cáp thăm dòcủa tàu Bình Minh 02 thuộc Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam tại vị trí 12 độ48,25 phút Bắc và 111 độ 26,48
phút Đông cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên)(đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải của Việt Nam) 116 hải lý,cách bờ biển đảo Hải Nam Trung
Quốc là 340 hải lý.
- Chiều ngày31/05/2011, 04
tàu đánh cá của ngư dân thành phố Tuy Hòa đang đánh cá ởvị trí 8 độ 56
phút Bắc và 112 độ 45 phút Đông thuộc thềm lục địa ViệtNam bị 03 tàu Hải
quân Trung Quốc nổ súng bắn xuống nước uy hiếp, đe dọakhông cho ngư dân
Việt Nam hành nghề.
- Sáng ngày 09/06/2011, tàu
cá Trung Quốc có sự yểm trợ của 02 tàu ngư chính Trung Quốc đã cố tình
lao vào tuyến cáp khảo sát của tàu Viking II do Tập đoàn Dầu khí quốc
gia Việt Nam thuê khảo sát địa chấn trên vùng biển tại vị trí 6 độ
47,5phút Bắc và 109 độ 17,5 phút Đông thuộc thềm lục địa Việt Nam.
Sau đó, kể từ tháng 5/2011, nhà
cầm quyền Trung Cộng còn thăm dò dầu khí trong vịnh Bắc bộ của Việt Nam;
ngang nhiên đe dọa các Công ty dầu khí nước ngòai hợp tác với Việt Nam
tìm kiếm dầu ở Biển Đông. Bắc Kinh còn tuyên bố đem dàn khoan khổng lồ
đến hoạt động tìm kiếm dầu khí ở Trường Sa.
Vào tháng 9, Tầu công khai xác
nhận việc đem các tầu chiến của họ yểm trợ cho kế họach nuôi cá trên
biển dài hạn của 500 tầu đánh cá của Tầu trong khu vực Trường Sa và ngăn
chặn không cho ngư dân Việt Nam đến vùng này.
Đến ngày 24/09 (2011), tầu chiến
của Trung Cộng đã công khai tấn công và đuổi bắn suốt 2 ngày đêm vào 2
thuyền đánh cá của ngư dân Tỉnh Quảng Ngãi đang khi lâm nguy tìm đường
tránh bão ở vùng biển Hoàng Sa. Rất may các ngư dân đã thoát chết, dù
thuyền của họ đã bị lính Tầu xả nước với mục đích làm cho thuyền chìm và
bắn đạn cháy vào tầu.
Trong khi lính Tầu dã man đuổi
bắn ngư dân Việt như thế thì phía lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đã ra lệnh
cho các báo không được đăng tin và nếu đã đăng thì phải gỡ xuống, mặc dù
một số báo chỉ dám gọi tầu chiến của Hải quân Trung Cộng là “tàu nước ngoài” hay “tàu chiến nước ngoài”.
Những hành động lấn chiếm biển
đảo và lãnh thổ ngang ngược này của Trung Cộng là nguyên nhân của 11
Cuộc biểu tình của người dân ở Sài Gòn và Hà Nội từ tháng 6 (2011),
nhưng cuối cùng Chính quyền VN đã nhượng bộ áp lực của Tầu và ra lệnh
cấm biểu tình và bắt giam nhiều người chống Tầu.
Thậm chí, Việt Nam còn hứa sẽ
ngăn cấm tất cả những cuộc biểu tình chống Trung Cộng, qua lời cam kết
của Nguyễn Chí Vịnh, Trung tướng, Thứ trường Quốc phòng Việt Nam tại
Cuộc họp với Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó tổng tham mưu trưởng Quân
giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Lời hứa này đã được Báo Quân đội Nhân dân của Bộ Quốc phòng Việt Nam tường thuật sau phiên họp ngày 28-8 (2011) tại Bắc Kinh : “Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng thông báo chủ trương kiên quyết xử
lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự việc
tái diễn." (Theo Bảo Trung của Báo Quân đội Nhân dân, 30-8-2011)
Nếu ở một nước tự do, dân chủ và
có lãnh đạo là một người biết tự trọng, có liêm sỉ và biết tôn trọng
quyền lợi của đất nước thì không khi nào nói chuyện với lãnh đạo Tầu chứ
đừng bàn đến chuyện ôm nhau và chìa tay ra “tay bắt mật mừng” như các
Tổng Bí thư đảng CSVN đã từng làm trong các chuyến thăm Tầu trước Nguyễn
Phú Trọng.
Thử hỏi một người đứng đầu một
đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam như Nguyễn Phú Trọng mà có mặt mũi
nào lại hoan hỷ đi thăm một quốc gia mà Chính quyền nước đó đã và đang
có những hành động lấn chiếm lãnh thồ và đe dọa chủ quyền của Việt Nam
như nhà nước và đảng Cộng sản Trung Quốc ?
Vậy đâu là nguyên nhân của
chuyến viếng thăm Tầu vào lúc này của Nguyễn Phú Trọng, sau 10 tháng
được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN ?
Chỉ có 5 lý do được suy ra:
1) Nhận khuyến cáo không được lung lay trước những áp lực của quần chúng có khuynh hướng chống Tầu lên cao.
2) Phải nghiêm túc chận đứng mọi
khả năng nổi lên bài Trung Cộng của “các thế lực thù địch” và thực thi
những cam kết với Trung Cộng của những lãnh đạo trước Trọng từ thời
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu cho đến Nông Đức Mạnh.
3) Hãy gác tranh chấp sang một bên để “cùng khai thác” tài nguyên ở Biển Đông.
4) Giữ vững tư tưởng của cán bộ, đảng viên, lực lượng Công an và Quân đội để bảo vệ quyền cai trị độc quyền cho đảng CSVN.
5) Tiếp tục duy trì hợp tác hữu
nghị giữa hai nước dựa trên phương châm 16 chữ do lãnh đạo Tầu đưa ra
cho Việt Nam thi hành là : “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
4 ĐỜI TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG
Trước Trọng cũng đã có các
chuyến thăm và làm việc với lãnh đạo đảng và nhà nước Tầu của các Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh (1990), Đỗ Mười (2 chuyến, 1991 và 1997), Lê Khả
Phiêu (1 chuyến, 1999) và Nông Đức Mạnh (4 chuyến: 2001, 2003, 2006 và
2008).
Trong số các Tổng Bí Thư, Nguyễn
Văn Linh đã mở đường tái lập quan hệ ngọai giao nhưng Lê Khả Phiêu và
Nông Đức Mạnh đã tạo cơ hội cho Trung Hoa vào khai thác Bauxite trên Tây
Nguyên và dành nhiều công trình xây dựng và dự án kinh tế cho các Công
ty của Tầu.
Theo lời Vũ Khoan, Bí thư Trung
ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ tháp tùng Mạnh sang Bắc Kinh năm 2003
thì trong chuyến đi này, Khoan nói: "Đặc biệt, trong chuyến thăm,
các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc đã dành cho nhân dân Việt Nam hai món
quà: xóa các khoản nợ đồng rúp trước đây (khoảng 420 triệu nhân dân tệ)
và xây tặng phía Việt Nam một Nhà hữu nghị Trung-Việt. Hai món quà này
thể hiện tinh thần "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai".
Đỗ Mười là người đã có công giữ
vững chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam và duy trì quyền lãnh đạo độc tôn cho
đảng, theo đúng đường lối của đảng Cộng sản Trung Cộng.
Phải chăng đó là những lý do
thầm kín khiến đảng CSVN không dám ho he với Tầu dù có bị khống chế trên
nhiều mặt, đặc biệt là sự thao túng công khai và bá chủ của Trung Cộng
trên Biển Đông.
Vấn đề đặt ra là liệu trong 5
ngày ở Tầu từ 11 đến 15 tháng 10 (2011), Nguyễn Phú Trọng có đủ bản lĩnh
và khả năng để chống trả áp lực của lãnh đạo Trung Cộng hay sẽ cắn răng
chịu trận để được yên thân, vì Trọng đã là người “của” Bắc Kinh từ lâu
như lời đồn đại ở Hà Nội ? -/-
(10/011)
Phạm Trần (gửi Dân Làm Báo)
No comments:
Post a Comment