Chu Việt - Tháng 9, 2011 vừa qua, có cuộc
họp “chấn chỉnh nội bộ” của Tập Thể Chiến Sĩ VNCH (TTCS) tại Houston,
Texas do ông Chủ tịch Hội Đồng Đại Diện, Phó Đề đốc Hồ văn Kỳ Thoại (1) chủ tọa.
Đây là lần đầu sau nhiều năm bất động, TTCS cố gắng
trỗi dậy sinh hoạt. Sau khi bầu bán các chức vụ của tổ chức, có sự đề
xuất giải pháp gọi là “chống Cộng cứu nước”. Người trong cuộc chưa kịp
hành động thì đã dấy lên dư luận phản đối và đả kích, đặc biệt nhắm vào
một vài nhân vật trong tổ chức, cho rằng họ đã có tư duy xu thời, nhẹ dạ
(2). Khách quan mà xét, phê bình hay phản biện cũng là điều tự nhiên
trong sinh hoạt dân chủ. Nhưng nếu chỉ đặt điều vì một ý đồ tư lợi hay
phá bĩnh thì không phải là một hành vi chính đáng. Mặt khác, người bị
chỉ trích cũng nên tự kiểm điểm, xem mình có phạm lầm lỗi gì không, vì
không có lửa sao có khói? Chưa biết đây có phải là cái “dớp”, một tiên
báo của vết bánh xe đã đổ nhiều năm trước? Hy vọng là không.
Trung
Tâm Điều Hành TTCS đầu tiên nhóm họp năm 2003 tại Cali với Thiếu tướng
Lê Minh Đảo (3) phụ trách đã quy tụ đông đảo người tham dự và được sự
ủng hộ tinh thần cũng như yểm trợ tài chính của đồng hương. Sau nhiều cố
gắng kể như tích cực để kết hợp và thống nhất các nhóm tập thề ở khắp
nơi, trong và ngoài nước Mỹ (gồm Úc, Canada, và vài nước Liên Âu), ông
đã nhận thấy có sự thiếu đồng cảm và phải đối diện với nhiều vấn nạn
không thể giải quyết. Ông thú nhận có sự phân rã
trong hàng ngũ những người một thời đã cùng nhau sát cánh chiến đấu
chống kẻ thù xâm lăng Cộng sản. Nỗ lực của ông kể như bất thành.
Sự
phân rã của xã hội Việt Nam (mà cộng đồng tị nạn hải ngoại là thành
phần), thật ra, đã bắt đầu từ ngày Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) được
thành lập năm 1930. Đảng tiến hành “đấu tranh giai cấp”, tự cho mình là đại diện “giai cấp vô sản” để tiêu diệt những thành phần dân tộc khác, đặc biệt “trí, phú, địa, hào”,
dành độc quyền thống trị đất nước. Trong quá trình đó, những đảng phái
quốc gia dần dần bị truy diệt để sau cùng, dưới danh xưng Việt Minh,
ĐCSVN đã lợi dụng thời cơ cướp chính quyền năm 1945. Xã hội VN từ đó gồm
hai thành phần: cộng sản và không (hay chống) cộng sản. Những diễn biến
sau đó đã trở thành lịch sử: sau rốt ĐCSVN đã hoàn toàn thắng thế và
thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa như hiện nay. Ngoài
ra, sự phân rã cũng phần nào phản ánh những thói tật đê tìện, hà tì của
“người Việt xấu xí” như ghen ghét, đố kỵ…
Nỗ
lực gom góp, tập hợp những cựu chiến binh của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa (QLVNCH) thành một tập thể thồng nhất có thế giá trong cộng đồng
người Việt tị nạn đã được thể hiện từ nhiều năm qua. Đó là công việc cần
thiết phải làm không những để phục hồi danh dự cho tất cả những “bại
binh” đã một thời chiến đấu dũng cảm mà còn đề có một tiếng nói mạnh mẽ
và có uy tín trong mục tiêu đấu tranh cho tự do dân chủ, triệt tiêu
quyền lực của bè đảng mafia đang đẩy dân tộc Việt đến bờ vực thẳm.
Chúng
ta dẫu sao cũng cần ghi nhận tinh thần vị tha của tất cả những vị đã
trước sau đứng ra tự nguyện gánh vác trách nhiệm vô ơn đó, dù thành hay
bại.
Là một tập thề, dĩ nhiên phải có
lãnh đạo, xứng đáng hay không, cần sự thử thách của hành động hiệu
nghiệm qua thời gian. Tối thiểu, phải biết mình và biết người, những
cộng sự viên của mình. Nhưng trên hết, nhất thiết phải có lập trường
kiên định và minh bạch. Lập trường đó là gì? Chẳng cần phải minh thị rốt
ráo dài dòng, tóm một lời, đó là triệt để chống Cộng, kẻ thù đã khiến
chúng ta trở thành tị nạn lưu vong xứ người.
Vài người coi như ưu thời mẫn thế đã có tư duy: “đâu còn Cộng Sản nữa mà chống, đâu còn lằn ranh Quốc – Cộng?”
Thật là chí lý nhưng không đạt tình, trên khía cạnh lý thuyết. Trong
hiện thực, Cộng Sản, như một chủ nghĩa, từ Trung Quốc cho đến Việt Nam,
đã bị quẳng vào đống rác Lịch Sử. Nó hết còn hiệu nghiệm như một lý
thuyết kinh tế và suýt đã xô đẩy những nước đó xuống vực thẳm của nghèo
đói nếu không kịp thời “đổi mới”. Trung cộng cũng như Việt cộng đã buộc
phải thay thế nó bằng “thị trường tự do”, nói khác đi là tư bản chủ
nghĩa, nhưng họ vẫn khăng khăng “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Xã hội chủ nghĩa là cái gì thì chỉ có Trời biết! Trên thực tế, đó chỉ là một dạng thức của “chuyên chính vô sản”
nghĩa là độc tài đảng trị. Như vậy, trên danh nghĩa, Cộng sản vẫn tồn
tại tuy ruột nó trống rỗng, chỉ còn trơ ra cái vỏ vẫn được mệnh danh là
Đảng Cộng Sản Trung Hoa hay Đảng Cộng Sản Việt Nam, hai đảng gọi là anh
em “môi hở răng lạnh” nhưng thực chất là một liên hệ Chủ – Tớ. Chúng ta
chống cái Cộng đó — dù thực chất như thế nào — và do đó vẵn tồn tại cái lằn ranh Quốc-Cộng.
Nó phân biệt một bên là quốc gia dân tộc đấu tranh cho những giá trị Tự
Do Dân Chủ vĩnh hằng và một bên là độc tài đảng trị tham nhũng, đang
bóc lột người dân, bán biển bán đất cho đầy túi tham một thiểu số đảng
ủy và rất có thề đẩy nước Việt Nam vào tay bá quyền Trung Cộng.
Lại còn một luận điệu thiếu suy nghĩ, tự miệt thị và dối trá, dối người và dối mình là: ”ĐCSVN dẫu sao cũng có công dành độc lập và thống nhất cho đất nước”. Trong con mắt một triết gia khuynh tả hàng đầu của Pháp — Jean-Francois Revel –, ĐCSVN đã đánh tráo (misappropriate), nói cho đúng là cưỡng đoạt (hijack)
lòng yêu nước của người dân để áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản, trước tiên là
lên Miền Bắc và sau là Miền Nam bằng một cuộc cưỡng chiếm với vũ khí và
tài thìết của Khối Cộng Sản (4).
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là công lao của toàn dân,
không riêng gì của Việt Minh (ĐCSVN). Và nếu gọi đó là công của ĐCSVN
thì đó là công thay thế thực dân Pháp bằng Quốc Tế Cộng Sản (Comintern)
do Stalin lãnh đạo mà ông Hồ là cán bộ đại diện.
Do
vậy mà Tố Hữu đã khóc như cha chết khi “Ông” [Stalin] qua đời. Chưa
hết. Miền Bắc khi đó còn là mảnh đất mầu mỡ để ĐCSVN reo trồng xã hội
chủ nghĩa bằng cuộc “Thổ Điạ Cải Cách” (Cải Cách Ruộng Đất) của Mao
Trạch Đông mà hành động khởi phát, khốn nạn thay, lại là xử tử bà Nguyễn
Thị Năm vốn từng nuôi dưỡng, bao che những cán bộ cao cấp của họ. Độc
lập ở chỗ nào khi hàng vạn nông dân bị sát hại dưới sự chỉ đạo của cố
vấn Trung Cộng? Độc lập ở chỗ nào khi chiến thắng Điện Biên Phủ cũng do
đề xuất của một ban cố vấn Trung Cộng? Dùng xương máu của hàng trăm ngàn
người để đổi lấy độc lập mà thật ra trước sau gì cũng phải đến do xu
thế thời đại – thời đại giải thực – không thể cưỡng, có thể gọi là công
lao? Ấn độ, Nam Dương, Mã Lai đã dành độc lập mà không tốn một giọt máu
của người dân (5). Ai khôn, ai dại, ai hơn, ai kém ai? Độc lập có đem
lại cho người dân tự do và hạnh phúc không hay chỉ là kìm kẹp và đói
rách?
Thống nhất đất nước thực chất
là tiếp tục bành trướng chủ nghĩa CS bằng một cuộc cưỡng chiếm Miền Nam
với vũ khí và tài thìết của Khối Cộng Sản, lợi dụng cái khẩu hiệu tuyên
truyền “chống Mỹ cứu nước” để lừa mị khơi động lòng yêu nước truyền
thống của người dân. Miền Nam coi như thiếu lãnh đạo và thiếu chính
nghĩa kể từ ngày Mỹ đồng lõa với đám tướng tá xôi thịt hạ sát ông Ngô
Đình Diệm, một đối thủ xứng danh của Hồ Chí Minh. Ông Diệm cũng có những
lỗi lầm đáng kể nhưng ông đã cương quyết phản đối việc Mỹ đòi đem quân
vào Miền Nam. Chiến lược của ông là tự lực chiến đấu với sự giúp đỡ tiền
bạc, vũ khí, và huấn luyện của Mỹ. Nhưng chính sách “be bờ”
(containment) của Mỹ khi đó đã thay đổi hẳn cục diện của cuộc tranh
chấp Quốc-Cộng, biến nó thành cuộc chiến tranh của Mỹ khi đổ quân vào
Miền Nam. Với chiến lược ngu xuẩn “đánh không cần thắng”
(no win), Mỹ đã bỏ ngỏ hành lang Trường Sơn cho Miền Bắc mặc sức tiếp
viện cho nỗ lực đánh chiếm Miền Nam. Khi nhà báo Bùi Tín hỏi Thượng
tướng Lê Trọng Tấn, tư lệnh QĐ 2 trong chiến dịch tấn chiếm miền Nam: “Ở
vào địa vị tướng Westmoreland, ông sẽ đánh như thế nào?” Không do dự,
vị tướng này đã trả lời: “Tôi sẽ chẹn cổ họng địch ở Quảng Bình mà đánh”
(6). Có thể đây là một đề xuất chiến lược khả thi và hữu hiệu mà không e
ngại Trung Cộng can thiệp. Nên nhớ lúc đó (1967), tình hình Hoa lục rối
rắm tơi bời trong cuộc “Đại Cách Mạng Văn Hóa” do Mao và Giang Thanh
khởi xướng khiến quân đội phải ra tay dẹp hàng triệu Vệ Binh Đỏ khắp mọi
nơi. Nếu Johnson có gan làm như thế thì ông đã có thể đảo ngược cục
diện cuộc chiến tranh Việt Nam.
Sau vụ Tết Mậu Thân 1968, Mỹ biết rằng không thể tiếp tục cuộc chiến trước áp lực dư luận phản chiến nở rộ trong nước nên đã “Việt Nam Hóa”
nó, nói cách khác là tìm kế rút quân trong danh dự, trao lại quyền điều
khiển chiến tranh cho QLVNCH. Sau khi Mỹ đã bắt tay xử hòa với Trung
Cộng, Miền Nam hết còn là “tiền đồn chống Cộng”, chính sách “be bờ” không còn cần thiết, và ông Tổng Thống được báo chí tặng cho biệt danh “Tricky Dick”
đã quyết định thương thuyết với Bắc Việt để, bằng mọi giá, rút hết lực
lượng quân sự về nước với Hiệp Định Paris 1972. Nên ghi nhận Hiệp định
này cho phép hơn 100,000 bộ đội Bắc Việt bám trụ lại Miền Nam VN. Và Mỹ
biết trước là, với nguồn quân viện cạn kiệt, trước sau gì, Miền Nam cũng
sẽ rơi vào tay ĐCSVN (7).
Công lao
gì và cho ai trong vụ thống nhất ấy? Cho ĐCVSN ra tay đánh tư sản mại
bản, đuổi dân đi “kinh tế mới”, đẩy hàng trăm ngàn quân, công, cán chính
của VNCH vào lao tù gọi là “cải tạo”. Đầy đọa người cách ấy còn dã man
và độc ác hơn là xử tử và gây nên hận thù không bao giờ nguôi ngoai.
Hàng trăm ngàn người đã phải liều chết — và đã chết – để vượt biên vượt
biển. Kết quả là với chính sách “bao cấp”, Miền Nam đã rã rời trong đói
khổ. Cho đến tình cảnh hiện nay khốn nạn như thế nào, ai cũng biết. Thế
mà nói là công với lao? Lời nói đọi máu.
Còn lời khuyên “trẻ nên nói chuyện với cộng sản vì cộng sản cũng yêu nước”?
Chỉ là khuyến dụ “hòa hợp hòa giải” mà thôi. Yêu Nước hay yêu Đảng? Mơ
tưởng hão huyền. Một lời xin lỗi cũng chưa có, ở đấy mà hòa giải. Một
thử nghiệm cỏn con về hòa giải trong lãnh vực văn học cũng thất vọng
đắng cay. Hãy hỏi Khánh Trường của tạp chí Hợp Lưu trong vụ “Tuyển Tập
Truyện Ngắn” trong và ngoài nước khoảng mươi năm trước. CS thuận với yêu
cầu cho họ kiểm duyệt nội dung trước! Đấy là hòa hợp hòa giải “à la commie”. Không cần dài dòng vô ích, chỉ xin đọc một đoạn trong blog Nguyễn Hưng Quốc của VOA News. Nhà lý luận văn học thời danh viết:
“Mục
tiêu của hoà giải, như thế, chỉ nhằm “xây dựng cộng đồng người Việt
Nam” ở hải ngoại. “Xây dựng” theo chiều hướng nào? Theo chiều hướng
“đoàn kết” với chính quyền trong nước! Nghĩa là, nói cách khác, để biến
thành công cụ của chính quyền!
Vậy mà cũng gọi là “hoà giải” sao?
À,
tự nhiên sực nhớ chuyện năm 2005 chính quyền Việt Nam đã vận động chính
quyền Indonesia và Malaysia đập bỏ tấm bia tưởng nhớ những người bị
chết trên đường vượt biển ở đảo Galang và đảo Bidong, nơi dừng chân của
cả hàng trăm ngàn người tị nạn Việt Nam trước khi được định cư ở một
quốc gia thứ ba nào đó.
Chỉ có hai
tấm bia nhỏ nhoi ở hai hòn đảo heo hút như vậy mà họ cũng không chịu
nổi. Thì nói đến chuyện hoà giải làm gì cho mệt.”
Tôi, người viết, chỉ có một nhắn nhủ đơn giản nhưng quan trọng thay lời kết.
Sau
ngày 30 tháng 4, 1975, cháy nhà mới thò ra những mặt chuột: Phạm Xuân
Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ, Đinh Văn Đệ…những nội công mà địch đã cài đặt từ lâu,
chứng tỏ chúng ta yếu kém hay lơ là trong trách nhiệm rà soát cái lai
lịch quá khứ (background) của những kẻ nắm giữ những nhiệm vụ nhậy cảm (sensitive)
hay cao cấp.
Trong hiện tại, CS đã cài đặt rất nhiều tai mắt trong cộng đồng chúng ta. Nỗ lực tổ chức đầu tiên và ưu tiên trong bất cứ sự kết hợp đoàn ngũ nào cũng phải là điều tra, lựa chọn mỗi cộng sự viên dù trong thứ bậc nào. Đó là bài học đắt giá nhất mà chúng ta đã phải trả. Xin đừng quên. Và cũng cần triệt để đề cao cảnh giác, triệt tiêu ảnh hưởng mà Nghị Quyết 36 của CS đã reo rắc trong cộng đồng người Việt tị nạn, trong đó có Tập Thể Chiến Sĩ.
Trong hiện tại, CS đã cài đặt rất nhiều tai mắt trong cộng đồng chúng ta. Nỗ lực tổ chức đầu tiên và ưu tiên trong bất cứ sự kết hợp đoàn ngũ nào cũng phải là điều tra, lựa chọn mỗi cộng sự viên dù trong thứ bậc nào. Đó là bài học đắt giá nhất mà chúng ta đã phải trả. Xin đừng quên. Và cũng cần triệt để đề cao cảnh giác, triệt tiêu ảnh hưởng mà Nghị Quyết 36 của CS đã reo rắc trong cộng đồng người Việt tị nạn, trong đó có Tập Thể Chiến Sĩ.
Chu Việt
© www.Vietthuc.org
© www.Vietthuc.org
1. Xem những trang mạng KBC Hải Ngoại, Ba cây trúc, Minh đức tân dân.
2. Tác giả “Can Trường Trong Chiến Bại”, nguyên Tư lệnh Hải Quân Vùng I, người đã ra lệnh cho HQVN tấn công các tầu chiến Trung Cộng để bảo vệ Hoàng Sa năm 1974.
3. Mệnh danh “Người Hùng Xuân Lộc”,
nguyên Tư lệnh Sư đoàn 18 BB đã trấn giữ Xuân Lộc trong nhiều ngày, gây
tổn thất khoảng 1 trung đoàn quân Bắc Việt. Tù cải tạo 17 năm.
4. Ho Chi Minh: Le detournement du patriotisme, Jean-Francois Revel
« Hồ Chí Minh đã có thể được coi là anh hùng sáng lập nên nước Việt nam hiện đại và dân chủ, đã có thể được coi là nhà lãnh đạo đã đưa đất nước của ông ra khỏi cảnh thuộc địa để bước lên nền văn minh mới, kết hợp truyền thống với đổi mới.
Nhưng khốn thay, mục tiêu của ông ta không phải là nền độc lập của nước Việt nam, mà là sự hội nhập vào quốc tế cộng sản. Mục tiêu của ông Hồ không phải là giành lại cho nhân dân quyền tự quyết, quyền bầu cử, quyền chọn lựa người lãnh đạo, quyền có luật pháp của mình và lối sống của mình. Mục tiêu của ông ta là cưỡng bức nhân dân phải chấp nhận chế độ toàn trị kiểu Stalin, với tất cả đặc điểm của nó: những cuộc hành quyết không qua xét xử, trại tập trung, sự chà đạp nhân phẩm trong ‘’cải tạo ‘’, quần chúng chết đói và tham nhũng của kẻ lãnh đạo »
5. Anh trao trả độc lập cho Ấn độ năm 1947, Malaysia năm 1957. Hòa Lan trao trả độc lập cho Indonesia năm 1949.
6. Xem “Mặt Thật”
của Thành Tín, Saigon Press 1993. Với dăm ba sư đoàn chốt ngang khúc
đèo Mụ Giạ với hải – không yểm hùng mạnh, bộ đội Bắc Việt không dễ gì
vượt qua để vào hành lang Trường Sơn.
7. Xem “Decent Interval” của Frank Snepp, Amazon Books, 2002, và “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” của TS Nguyễn Tiến Hưng, Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2005.
No comments:
Post a Comment