Hillary Clinton, Foreign Policy, November 2011 Trần Ngọc Cư dịch
Ngay
cả khi chúng ta tăng cường những quan hệ song phương này, chúng ta đã
nhấn mạnh sự quan trọng của hợp tác đa phương, vì chúng ta tin rằng muốn
đối phó các thử thách xuyên quốc gia như loại vấn đề mà châu Á đang gặp
phải hiện nay, chúng ta cần đến một loạt định chế có khả năng vận dụng
hành động tập thể.
Và một cơ cấu khu vực vững mạnh và chặt chẽ hơn tại
châu Á sẽ tăng cường hệ thống luật lệ và trách nhiệm, từ việc bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ đến việc đảm bảo quyền tự do lưu thông trên biển,
những thứ quyền tạo cơ sở cho một trật tự quốc tế hữu hiệu. Trong các
bối cảnh đa phương, hành vi có trách nhiệm [của một chế độ] sẽ được
tưởng thưởng bằng tính chính danh và sự kính trọng của thế giới, và
chúng ta có thể cùng nhau làm việc để buộc những ai phá hoại hòa bình,
ổn định và thịnh vượng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Vào
năm 2010, tại Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Hà Nội, Hoa Kỳ đã giúp phát
động một nỗ lực toàn khu vực nhằm bảo vệ quyền tiếp cận không hạn chế và
tự do thông thương trên Biển Nam Trung Hoa, và hỗ trợ những luật lệ
quốc tế quan trọng nhằm xác định các tuyên bố chủ quyền trong vùng Biển
Nam Trung Hoa. Với sự kiện một nửa trọng tải hàng hóa của thế giới đi
qua vùng biển này, đây là một nỗ lực rất quan trọng. Và trong năm qua,
chúng ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo vệ những lợi ích quan
trọng của chúng ta liên quan đến sự ổn định và tự do thông thương và dọn
đường cho một chính sách ngoại giao đa phương và bền vững giữa những
nước có tuyên bố chủ quyền trong Biển Nam Trung Hoa, cố gắng đảm bảo
rằng các tranh chấp sẽ được dàn xếp một cách hòa bình và phù hợp với các
nguyên tắc hiện hữu của luật pháp quốc tế.
Tăng
trưởng kinh tế ngoạn mục của châu Á trong thập niên qua và tiềm năng
tăng trưởng liên tục vào tương lai của châu Á tùy thuộc vào nền an ninh
và ổn định từ lâu được bảo đảm bởi quân đội Mỹ, bao gồm 50.000 lính Mỹ
phục vụ tại Nhật Bản và Nam Hàn. Những thách đố do tình hình biến chuyển
nhanh chóng trong khu vực hiện nay – từ những tranh chấp lãnh thổ và
lãnh hải đến những đe dọa mới mẻ đối với tự do thông thương trên biển
đến hậu quả thiên tai trầm trọng – đòi hỏi Hoa Kỳ phải theo đuổi các khả
năng quân sự được phân bố theo địa lý, có sức bật trong chiến đấu, và
có lợi thế chính trị.
Nhưng
thậm chí còn hơn cả sức mạnh quân sự của chúng ta hay tầm cỡ của nền
kinh tế của chúng ta, tài sản giàu có nhất của chúng ta trong tư thế một
quốc gia là sức mạnh nội tại trong các giá trị của chúng ta – đặc biệt
là sự hậu thuẫn vững chắc của chúng ta cho dân chủ và nhân quyền. Điều
này chứng minh phẩm cách quốc gia sâu sắc nhất của chúng ta và nằm ngay
trung tâm của chính sách đối ngoại Mỹ, kể cả sự chuyển hướng chiến lược
của chúng ta nhắm vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Chúng
ta không thể và không muốn áp đặt hệ thống chính trị của chúng ta lên
các nước khác, nhưng chúng ta thực sự tin tưởng một số giá trị nhất định
là phổ quát – rằng người dân trong mọi quốc gia trên thế giới, kể cả
châu Á, trân quý chúng – và rằng những giá trị này gắn liền với các quốc
gia ổn định, hòa bình, và phồn thịnh. Cuối cùng, việc theo đuổi những
quyền tự do và nguyện vọng của mình là hoàn toàn tùy thuộc vào người dân
châu Á, y hệt như chúng ta nhận thấy người dân đã làm khắp nơi trên thế
giới.
Chúng
ta biết rằng những thực tế mới mẻ này đòi hỏi chúng ta phải có sáng
kiến, phải cạnh tranh, và phải lãnh đạo bằng những đường lối mới. Thay
vì phải rút khỏi thế giới, chúng ta cần phải xốc tới và đổi mới cách
lãnh đạo của chúng ta. Trong một thời kỳ khan hiếm nguồn lực, hẳn nhiên
là chúng ta cần phải đầu tư những nguồn lực này một cách khôn ngoan vào
những nơi chúng có thể tạo ra nhiều lợi nhuận nhất, đó là lý do tại sao
khu vực châu Á-Thái Bình Dương tượng trưng cho một vận hội đích thực của
Thể kỷ XXI đối với chúng ta.
Hillary Clinton
Tương
lai chính trị thế giới sẽ được định đoạt tại châu Á, chứ không phải tại
Afghanistan hay Iraq, và Hoa Kỳ sẽ ở ngay trung tâm của biến chuyển
này.
Trong
khi cuộc chiến tại Iraq lắng dịu và Mỹ bắt đầu rút quân ra khỏi
Afghanistan, Hoa Kỳ đang đứng vào một vị trí bản lề. Trong 10 năm qua,
chúng ta đã dành những nguồn lực to lớn cho hai chiến trường nói trên.
Trong 10 năm tới, chúng ta cần phải khôn khéo và làm việc có hệ thống
liên quan đến những vùng chúng ta sẽ đầu tư thì giờ và năng lực, ngõ hầu
chúng ta có thể đặt mình vào vị trí thuận lợi nhất nhằm duy trì vai trò
lãnh đạo của chúng ta, đảm bảo lợi ích của chúng ta, và cổ vũ những giá
trị của chúng ta. Vì thế, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của
lãnh đạo Mỹ trong thập kỷ tới sẽ là tập trung vào một nỗ lực đầu tư được
tăng cường đáng kể – về ngoại giao, kinh tế, chiến lược, và các lãnh
vực khác – tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Châu
Á - Thái Bình Dương đã trở thành một động cơ chủ yếu của chính trị toàn
cầu. Trải dài từ tiểu lục địa Ấn Độ đến bờ Tây châu Mỹ, khu vực này đã
vắt ngang hai đại dương – Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương – những đại
dương ngày càng được nối kết nhiều hơn bằng tàu bè và ý nghĩa chiến
lược. Khu vực này cũng tự hào vì chiếm gần nửa dân số thế giới. Nó chứa
đựng nhiều cỗ máy then chốt của kinh tế toàn cầu, cũng như các quốc gia
đã tung ra những lượng khí thải nhà kính lớn nhất. Khu vực Châu Á-Thái
Bình Dương là quê hương của một số đồng minh chủ yếu của chúng ta và
những cường quốc mới nổi (mới vươn dậy) quan trọng như Trung Quốc, Ấn
Độ, và Indonesia.
Vào
một thời điểm mà khu vực này đang xây dựng một cấu trúc kinh tế và an
ninh già dặn hơn nhằm củng cố ổn định và thịnh vượng, sự cam kết của Hoa
Kỳ đối với vùng này là thiết yếu. Sự cam kết này sẽ đóng góp cho việc
xây dựng cấu trúc nói trên và mang lại lợi lộc cho vai trò lãnh đạo liên
tục của Hoa Kỳ vào thế kỷ XXI này, giống hệt như sự cam kết của chúng
ta sau Thế chiến II đối với việc xây dựng một mạng lưới gồm các định chế
(institutions) và các mối quan hệ toàn diện và bền vững xuyên Đại Tây
Dương đã từng mang lại lợi lộc nhiều lần hơn – và sẽ còn tiếp tục mang
lại lợi lộc như thế. Đã đến lúc Hoa Kỳ cần thực hiện những đầu tư tương
tự trong vai trò một cường quốc Thái Bình Dương, đây là một đường lối
chiến lược được Tổng thống Barack Obama đưa ra từ đầu nhiệm kỳ của chính
quyền ông và là một đường lối đã mang lại nhiều lợi lộc.
Trong
khi Iraq và Afghanistan đang còn ở thời kỳ chuyển tiếp và đất nước
chúng ta đang đối đầu với những thử thách kinh tế nghiêm trọng, có một
số người trên sân khấu chính trị Mỹ đang đòi hỏi chúng ta không được tái
phối trí lực lượng (reposition) mà phải mang các lực lượng về nước. Họ
tìm cách cắt giảm sự hiện diện của chúng ta ở nước ngoài để hậu thuẫn
các ưu tiên bức thiết ở trong nước. Những thôi thúc này là dễ hiểu,
nhưng chúng rất sai lầm. Những kẻ cho rằng chúng ta không còn đủ sức để
tích cực tham gia cùng thế giới rõ ràng đã đặt ngược vấn đề – sự thật
là, chúng ta không thể không tham gia cùng thế giới. Từ việc mở ra các
thị trường mới mẻ cho các doanh nghiệp Mỹ đến việc chặn đứng sự bành
trướng vũ khí hạt nhân đến việc giữ cho các tuyến đường trên biển được
tự do sử dụng cho mậu dịch và thông thương, các nỗ lực của chúng ta ở
nước ngoài giữ vai trò then chốt cho sự thịnh vượng và an ninh của chúng
ta ở trong nước. Hơn 60 năm qua, Hoa Kỳ đã nhiều lần chống lại sự thu
hút của các cuộc tranh luận “đưa quân về nước” này cũng như cái logic
tiềm ẩn “bên lở bên bồi” (zero-sum) của những lý luận này. Một lần nữa
chúng ta phải chống lại khuynh hướng cô lập này.
Ở
nước ngoài, người ta đang phân vân về các ý định của Mỹ – tức quyết tâm
tiếp tục tham gia và lãnh đạo thế giới của chúng ta. Tại châu Á, họ
thắc mắc liệu chúng ta sẽ duy trì sự hiện hiện ở đó hay không, liệu
chúng ta có thể một lần nữa bị chia trí vì những biến cố ở những nơi
khác hay không, liệu chúng ta có thể đưa ra – và giữ vững – những cam
kết khả tín về kinh tế và chiến lược hay không, và liệu chúng ta có thể
hậu thuẫn những cam kết đó bằng hành động cụ thể hay không. Câu trả lời
là: Chúng ta có thể và chúng ta có quyết tâm.
Vận
dụng được sức tăng trưởng và tính năng động của châu Á là điều rất quan
trọng đối với các lợi ích kinh tế và chiến lược của Mỹ và là một ưu
tiên chủ yếu của Tổng thống Obama. Thị trường thông thoáng tại châu Á
cung ứng cho Hoa Kỳ những cơ hội chưa từng có về đầu tư, mậu dịch, và sự
tiếp cận công nghệ tinh vi. Sự phục hồi kinh tế ở trong nước chúng ta
sẽ tùy thuộc vào hàng xuất khẩu và khả năng của các công ty Mỹ trong
việc tiếp cận giới tiêu thụ rộng lớn và ngày càng đông đảo tại châu Á.
Về chiến lược, duy trì hoà bình và an ninh trong khu vực châu Á-Thái
Bình Dương là ngày càng thiết yếu cho sự tiến bộ toàn cầu, dù bằng cách
bảo vệ sự tự do thông thương trên Biển Đông, hay bằng cách chống lại các
nỗ lực phổ biến vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn, hay bằng cách đảm bảo tính
minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước quan trọng trong
vùng.
Cũng
như Châu Á là rất thiết yếu đối với tương lai của nước Mỹ, một nước Mỹ
tích cực tham gia (engaged) là rất thiết yếu đối với tương lai châu Á.
Khu vực này rất mong muốn sự lãnh đạo của Mỹ và doanh nghiệp Mỹ – có lẽ
còn thiết tha hơn bất cứ thời nào trong lịch sử hiện đại. Chúng ta là
cường quốc duy nhất có một mạng lưới liên minh vững mạnh ở trong khu
vực, chúng ta không có tham vọng lãnh thổ, nhưng có một thành tích lâu
dài là đã làm được nhiều ích lợi chung. Cùng với các đồng minh, chúng ta
đã bảo đảm được an ninh khu vực qua hàng chục năm nay – tuần tra các
tuyến đường biển châu Á và duy trì sự ổn định khu vực – và nỗ lực này đã
giúp tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế nơi đây. Chúng
ta đã giúp hàng tỉ người trong khu vực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu
bằng cách thúc đẩy năng suất kinh tế, tăng cường xã hội dân sự, và phát
triển các quan hệ nhân dân-với-nhân dân (people-to-people ties). Chúng
ta là một đối tác đầu tư và mậu dịch quan trọng, là nguồn sáng tạo đã
làm lợi cho giới công nhân và các doanh nghiệp trên cả hai bờ Thái Bình
Dương, là nước chủ nhà đón mời 350.000 du học sinh châu Á mỗi năm, một
quán quân về thị trường cởi mở, và là quốc gia cổ vũ các nhân quyền phổ
quát.
Tổng
thống Obama đã lãnh đạo một nỗ lực đa diện và kiên trì để nhận lãnh
trọn vẹn vai trò không thể thay thế của chúng ta tại Thái Bình Dương,
vận dụng toàn bộ Chính phủ Hoa Kỳ. Bấy lâu nay, đây là một nỗ lực khá âm
thầm. Phần lớn nỗ lực này của chúng ta không nằm trên trang nhất của
báo chí, một phần vì bản chất của nó – đầu tư dài hạn không gây được cảm
tính bằng các khủng hoảng trước mắt – và một phần vì các tít lớn về tin
tức của các vùng khác trên thế giới đã giành mất sự chú ý của mọi
người.
Trong
vai trò Bộ trưởng Ngoại giao, tôi đã đi ra ngoài thông lệ khi mở cuộc
thăm viếng chính thức đầu tiên của tôi ở nước ngoài tại châu Á. Trong
bảy chuyến thăm viếng tiếp theo đó, tôi đã có đặc ân nhìn tận mắt những
chuyển biến nhanh chóng đang diễn ra trong khu vực, nêu bật sự kiện
tương lai của Mỹ sẽ được liên kết thiết thân với tương lai của khu vực
châu Á-Thái Bình Dương. Sự chuyển hướng chiến lược nhắm vào khu vực này
là rất hợp lý đối với nỗ lực toàn cầu tổng quát của chúng ta nhằm đảm
bảo và duy trì vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ. Sự thành công của việc
chuyển hướng này đòi hỏi phải duy trì và gia tăng sự đồng thuận của hai
đảng về tầm quan trọng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương đối với lợi
ích quốc gia của chúng ta; chúng ta sẽ dựa vào truyền thống hữu nghị
vững chắc đã được các Tổng thống và các Bộ trưởng Ngoại giao của cả hai
đảng đã xây dựng qua nhiều thập niên. Sự thành công của việc chuyển
hướng này cũng đòi hỏi phải khôn khéo thi hành một chiến lược khu vực
chặt chẽ, hàm chứa ý nghĩa toàn cầu trong các lựa chọn của chúng ta.
Chiến
lược khu vực đó sẽ như thế nào? Trước hết, nó đòi hỏi một sự cam kết
bền vững đối với điều mà tôi gọi là chính sách ngoại giao “tiền phương”
(forward-deployed diplomacy). Điều này có nghĩa là liên tục gởi đủ mọi
thành phần trong vốn quý ngoại giao của chúng ta – gồm các viên chức cao
nhất, các chuyên gia phát triển, các toán liên ngành, và các trang bị
thường trực của chúng ta – đến mọi quốc gia và mọi nơi trong khu vực
châu Á-Thái Bình Dương. Chiến lược của chúng ta là sẽ liên tục tìm hiểu
và thích ứng với mọi biến chuyển khẩn trương và sôi động diễn ra khắp
châu Á. Với quan niệm này, công tác của chúng ta sẽ tiến hành theo sáu
nguyên tắc hành động chủ yếu sau đây: tăng cường các liên minh an ninh
song phương; củng cố các quan hệ hợp tác với các cường quốc mới trỗi
dậy, kể cả TQ; tham gia các định chế đa phương trong khu vực; phát triển
thương mại và đầu tư; tạo sự hiện diện quân sự trên cơ sở rộng lớn; và
phát huy dân chủ và nhân quyền.
Nhờ
địa lý độc đáo của mình, Hoa Kỳ vừa là cường quốc Đại Tây Dương vừa là
cường quốc Thái Bình Dương. Chúng ta hãnh diện về những đối tác châu Âu
của chúng ta và tất cả những gì họ đã thể hiện. Thách thức của chúng ta
hiện nay là xây dựng cho được một mạng lưới gồm có những đối tác và định
chế khắp khu vực Thái Bình Dương vừa vững bền vừa phù hợp với lợi ích
và các giá trị của Mỹ như mạng lưới chúng ta đã xây dựng khắp khu vực
Đại Tây Dương. Đó là mục tiêu mà các nỗ lực của chúng ta trong tất cả
những vùng này phải nhắm tới.
Các
liên minh có thỏa ước (treaty alliances) giữa chúng ta với Nhật Bản,
Nam Hàn, Australia, Philippines, và Thái Lan là điểm tựa cho sự chuyển
hướng chiến lược của chúng ta nhắm vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Các liên minh này đã đảm bảo hòa bình và an ninh khu vực hơn nửa thế kỷ
nay, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế ngoạn mục
trong khu vực. Chúng đã tạo thế đòn bẫy cho sự hiện diện của chúng ta
trong khu vực và gia tăng vai trò lãnh đạo của chúng ta trong khu vực ở
vào một thời điểm có những thử thách an ninh đang diễn ra.
Mặc
dù những liên minh này đã rất thành công, nhưng chúng ta không thể chỉ
giản dị duy trì chúng như cũ – chúng ta cần phải hiện đại hóa chúng cho
phù hợp với một thế giới đang thay đổi. Trong nỗ lực này, chính quyền
Obama được hướng dẫn bởi ba nguyên tắc cốt lõi. Một là, chúng ta phải
duy trì đồng thuận chính trị trên các mục tiêu cốt lõi của các liên minh
của chúng ta. Hai là, chúng ta phải bảo đảm rằng các liên minh của
chúng ta là gọn nhẹ và dễ thích ứng (nimble and adaptive) ngõ hầu chúng
có thể đối phó thành công những thách đố mới và nắm bắt những vận hội
mới. Ba là, chúng ta phải đảm bảo rằng khả năng phòng thủ và cơ sở hạ
tầng thông tin liên lạc của các liên minh này có đủ khả năng hoạt động
và đủ trang bị vật chất để chặn đứng các hành động khiêu khích dù đến từ
bất cứ một quốc gia nào hay một phe nhóm phi-nhà nước (nonstate actor)
nào.
Liên
minh với Nhật Bản, nền tảng của hòa bình và ổn định trong khu vực,
chứng tỏ cách thế mà chính quyền Obama đang thể hiện những nguyên tắc
nói trên. Hai quốc gia chúng ta chia sẻ một viễn kiến chung về trật tự
ổn định trong khu vực với một thứ luật đi đường rõ ràng – từ tự do thông
thương trên biển đến thị trường cởi mở và cạnh tranh công bằng. Chúng
ta đã thoả thuận một sự dàn xếp mới, gồm có sự đóng góp trên 5 tỉ đôla
từ Chính phủ Nhật Bản, nhằm đảm bảo việc tiếp tục duy trì sự hiện diện
của các lực lượng Mỹ tại Nhật Bản, đồng thời mở rộng các hoạt động tình
báo, giám sát, do thám hỗn hợp nhằm chặn đứng và phản ứng kịp thời các
thách thức an ninh khu vực, cũng như chia sẻ thông tin để đối phó các đe
dọa trên mạng lưới Internet. Chúng ta đã ký kết một thỏa ước Bầu trời
mở (Open Skies agreement) nhằm gia tăng khả năng tiếp cận thị trường của
các doanh nghiệp và thắt chặt các quan hệ giữa nhân dân với nhân dân
(people-to-people ties), đã phát động một cuộc đối thoại chiến lược về
châu Á-Thái Bình Dương, và đã và đang hợp tác chặt chẽ trong tư thế là
hai nước đóng góp nhiều nhất tại Afghanistan.
Tương
tự như thế, liên minh giữa chúng ta và Nam Hàn đã trở nên vững mạnh hơn
và hoạt động hiệp đồng hơn, đồng thời chúng ta tiếp tục phát triển các
khả năng hỗn hợp [của hai quân đội] để chặn đứng và trả lời các khiêu
khích của Bắc Hàn. Hai nước đã chấp nhận một kế hoạch để đảm bảo sự
chuyển giao tốt đẹp quyền điều khiển các cuộc hành quân trong thời chiến
và để chuẩn bị cho việc Thỏa ước Mậu dịch Tự do Mỹ-Hàn
được thông qua [Đã được Quốc hội Mỹ thông qua hôm 12-10 – DG]. Và liên
minh giữa hai nước chúng ta đã mang tính toàn cầu, xuyên qua sự hợp tác
của chúng ta tại các cuộc họp của nhóm G-20 và Hội nghị Thượng đỉnh Hạt
nhân và xuyên qua các nỗ lực chung tại Haiti và Afghanistan.
Chúng
ta cũng đang mở rộng liên minh với Australia từ một quan hệ đối tác
Thái Bình Dương sang một quan hệ đối tác Ấn Độ-Thái Bình Dương, và thật
ra đây là một quan hệ đối tác toàn cầu. Từ vấn đề an ninh mạng đến vấn
đề Afghanistan đến cuộc Nổi dậy của Thế giới Ả Rập đến nỗ lực tăng cường
cơ cấu khu vực tại châu Á-Thái Bình Dương, ý kiến và cam kết của
Australia là không thể thiếu. Và tại Đông Nam Á, chúng ta đang phục hồi
và tăng cường các liên minh giữa Hoa Kỳ với Philippines và Thái Lan, gia
tăng, chẳng hạn, số thăm viếng của các chiến hạm Mỹ tại Philippine và
đang hoạt động để đảm bảo huấn luyện thành công các lực lượng chống
khủng bố Philippine xuyên qua Lực lượng Hành quân Đặc nhiệm Hỗn hợp
(Joint Special Operations Task Force) tại Mindanao. Tại Thái Lan – đối
tác có hiệp ước lâu đời nhất của chúng ta tại châu Á – chúng ta hoạt
động để thành lập một trung tâm gồm những nỗ lực nhân đạo và cứu trợ
thiên tai trong khu vực.
Trong
khi chúng ta cập nhật hóa các liên minh của chúng ta để đáp ứng những
đòi hỏi mới, chúng ta cũng xây dựng các quan hệ đối tác mới để giúp giải
quyết các vấn đề chung. Bàn tay hữu nghị của chúng ta đối với Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Singapore, Tân Tây Lan, Malaysia, Mông Cổ, Việt
Nam, Brunei, và các Đảo quốc Thái Bình Dương là nằm trong một nỗ lực
rộng lớn hơn để đảm bảo một đường lối toàn diện cho chiến lược Mỹ và sự
tham gia của Mỹ trong khu vực này. Chúng ta yêu cầu những đối tác đang
trỗi dậy này cùng chúng ta hình thành và tham gia một trật tự khu vực và
toàn cầu dựa trên luật lệ.
Một
trong các quốc gia nổi bậc nhất trong những đối tác đang trỗi dậy này
dĩ nhiên là Trung Quốc. Giống như rất nhiều nước khác trước nó, Trung
Quốc đã phồn thịnh trong hệ thống kinh tế cởi mở và dựa vào luật lệ, một
hệ thống mà Hoa Kỳ đã có công xây dựng và đang có nỗ lực duy trì. Và
ngày nay, Trung Quốc tiêu biểu cho một trong những quan hệ song phương
thách đố và quan trọng nhất mà Hoa Kỳ chưa từng phải đối phó. Điều này
đòi hỏi một sự quản lý chính sách thận trọng, vững chãi, năng động; về
phần chúng ta, đây là một đường lối đối với Trung Quốc đặt trên cơ sở
thực tế, tập trung vào kết quả, và phù hợp với các nguyên tắc và lợi ích
của chúng ta.
Tất
cả chúng ta đều biết rằng những lo sợ và những nhận thức sai lầm vẫn
tiếp tục tồn tại trên cả hai bờ Thái Bình Dương. Một số người trên đất
nước chúng ta coi sự tiến bộ của Trung Quốc như một đe dọa cho Hoa Kỳ;
một số người tại Trung Quốc lo rằng Mỹ đang tìm cách kềm hãm sự tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc. Chúng ta bác bỏ cả hai quan niệm ấy. Sự
thật là một nước Mỹ thịnh vượng là tốt lành cho Trung Quốc và một Trung
Quốc thịnh vượng là tốt lành cho Mỹ. Cả hai nước chúng ta sẽ gặt hái rất
nhiều điều tốt đẹp từ sự hợp tác hơn là từ xung đột. Nhưng chúng ta
không thể xây dựng một quan hệ hữu nghị chỉ dựa vào các điều mong ước mà
thôi. Việc biến những lời nói tốt đẹp thành sự hợp tác hữu hiệu một
cách thường xuyên hơn – và, rất quan trọng, việc thể hiện trách nhiệm và
bổn phận toàn cầu của mỗi nước là hoàn toàn tùy thuộc vào cả hai quốc
gia chúng ta. Đây là những điều sẽ quyết định là mối quan hệ của chúng
ta có phát triển hết tiềm năng trong những năm sắp tới hay không. Chúng
ta cũng phải thẳng thắn nói ra những dị biệt giữa hai nước. Chúng ta
phải cương quyết giải quyết những dị biệt này trong khi chúng ta theo
đuổi công việc khẩn cấp mà hai nước chúng ta cùng nhau thực hiện. Và
chúng ta cần phải tránh những kỳ vọng thiếu thực tế.
Trong
hai năm rưỡi vừa qua, một trong những ưu tiên hàng đầu của tôi là tìm
cách nhận ra và mở rộng các lãnh vực lợi ích chung, hợp tác với Trung
Quốc để xây dựng sự tin tưởng lẫn nhau, và khuyến khích các nỗ lực tích
cực của Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Đó là lý
do tại sao Bộ trưởng Tài chính Timothy Geithner và tôi đã phát động cuộc
Đối thoại Chiến lược và Kinh tế, những cuộc thảo luận sâu sắc và rộng
rãi nhất từ trước đến nay giữa hai Chính phủ chúng ta, có sự tham dự của
hàng chục cơ quan của cả hai bên để bàn thảo những vấn đề song phương
bức thiết nhất, từ an ninh đến năng lượng đến nhân quyền.
Chúng
ta cũng đang tìm cách gia tăng tính minh bạch và giảm rủi ro vì tính
toán sai lầm hoặc hiểu sai tín hiệu giữa hai quân đội. Hoa Kỳ và cộng
đồng quốc tế đã và đang theo dõi những nỗ lực hiện đại hóa và bành
trướng quân đội của Trung Quốc, và chúng ta còn đang tìm kiếm sự minh
bạch về những ý định của Trung Quốc. Cả hai phía sẽ hưởng lợi từ sự tiếp
xúc bền vững và có thực chất giữa quân đội với quân đội
(military-to-military engagement), nhờ vậy sẽ gia tăng tính minh bạch.
Do đó lắm lúc chúng ta mong đợi Trung Quốc khắc phục được sự do dự của
mình và tham gia cùng chúng ta trong việc hình thành một cuộc đối thoại
bền vững giữa quân đội với quân đội. Và chúng ta cần phải hợp tác với
nhau để tăng cường cuộc Đối thoại An ninh Chiến lược (the Strategic
Security Dialogue), một cuộc đối thoại quy tụ các lãnh đạo quân đội và
dân sự để thảo luận các vấn đề nhạy cảm như an ninh trên biển và an ninh
trên mạng Internet.
Trong
khi chúng ta cùng nhau xây dựng niềm tin, chúng ta cam kết hợp tác với
Trung Quốc để đối phó với những vấn đề nghiêm trọng về an ninh khu vực
và toàn cầu. Đây là lý do tôi thường xuyên gặp gỡ – lắm lúc trong bối
cảnh thiếu nghi thức – với các đồng nhiệm Trung Quốc, Ủy viên Quốc vụ
viện Đới Bỉnh Quốc và Bộ trưởng Ngoại giao Dương Thiết Trì để thảo luận
thẳng thắn về những thách đố nghiêm trọng như Bắc Hàn, Afghanistan,
Pakistan, Iran, và những diễn biến tình hình trong Biển Nam Trung Hoa.
Trên
mặt trận kinh tế, Hoa Kỳ và Trung Quốc cần phải hợp tác để đảm bảo sự
tăng trưởng kinh tế toàn cầu vững mạnh và quân bình. Tiếp theo sau cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã cùng nhau làm
việc một cách hữu hiệu xuyên qua nhóm G-20 để giúp kéo nền kinh tế toàn
cầu ra khỏi bờ vực thẳm. Chúng ta cần phải đặt tin tưởng trên sự hợp tác
ấy. Các công ty Mỹ muốn có cơ hội đồng đều để xuất khẩu hàng hóa sang
các thị trường đang tăng trưởng của Trung Quốc, những thị trường này có
thể là động cơ quan trọng tạo ra công ăn việc làm tại Mỹ. Và các công ty
Mỹ cũng muốn đảm bảo rằng 50 tỷ đôla tiền vốn của Mỹ đầu tư vào Trung
Quốc sẽ tạo ra một nền móng vững chắc cho các cơ hội mới mẻ về thị
trường và đầu tư nhằm hậu thuẫn tính cạnh tranh toàn cầu. Trong khi đó,
các công ty Trung Quốc muốn có thể mua thêm nhiều sản phẩm công nghệ cao
từ Hoa Kỳ, đầu tư thêm vào đây, và cùng được hưởng những điều kiện tiếp
cận mà các nền kinh tế thị trường được hưởng. Chúng ta có thể hợp tác
trên những mục tiêu này, nhưng Trung Quốc vẫn cần phải thực hiện những
bước quan trọng để tiến tới cải tổ thị trường. Đặc biệt là, chúng ta
đang làm việc với Trung Quốc để chấm dứt các phân biệt đối xử bất công
đối với các công ty Mỹ và các công ty nước ngoài khác hay đối với các
công nghệ đầy sáng kiến của họ, tháo gỡ những ưu đãi mà Trung Quốc dành
cho các công ty nội địa, và chấm dứt những biện pháp gây bất lợi hay
chiếm đoạt đối với quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài. Và chúng ta cũng
mong đợi Trung Quốc thực hiện những buớc cần thiết để cho phép tiền tệ
của mình [tức đồng Nhân dân tệ] tăng giá nhanh hơn nữa, so với đồng đôla
Mỹ cũng như so với tiền tệ của các đối tác thương mại quan trọng khác
của Trung Quốc. Chúng ta tin rằng những cải tổ này không những có lợi
cho cả hai nước (thật ra, chúng sẽ hậu thuẫn những chỉ tiêu của kế hoạch
5 năm của Trung Quốc, kêu gọi sự tăng trưởng dựa vào tiêu thụ nội địa),
mà lại còn đóng góp cho sự quân bình kinh tế toàn cầu, cho khả năng dự
đoán kinh tế, và sự thịnh vượng rộng lớn hơn.
Tất
nhiên, chúng ta cũng khẳng định rõ ràng, một cách công khai hoặc riêng
lẻ, những quan ngại nghiêm trọng của chúng ta về nhân quyền. Và khi
chúng ta thấy được những tin tức liên quan đến các luật sư, văn sĩ, nghệ
sĩ, và những người hoạt động vì công ích khác bị giam giữ hoặc bị biến
mất, Hoa Kỳ cần phải lên tiếng, một cách công khai hay một cách riêng
lẻ, với những mối quan ngại của chúng ta về nhân quyền. Chúng ta từng
biện minh với các đồng nhiệm Trung Quốc rằng một sự tôn trọng sâu sắc
đối với luật quốc tế và một hệ thống chính trị cởi mở hơn sẽ tạo cho
Trung Quốc nền móng vững chắc để đạt được ổn định chính trị và tăng
trưởng kinh tế to lớn hơn nhiều – đồng thời tăng thêm niềm tin của các
quốc gia đối tác của Trung Quốc. Nếu không thực hiện những điều vừa nói,
Trung Quốc đang đặt ra những giới hạn không cần thiết cho sự phát triển
của chính mình.
Xét
cho cùng, không có một cẩm nang nào hướng dẫn mối quan hệ đang diễn
tiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Nhưng vì những quyền lợi là quá cao,
chúng ta không thể chịu thất bại. Khi xúc tiến các hoạt động, chúng ta
sẽ tiếp tục đưa quan hệ của chúng ta với Trung Quốc vào trong một khuôn
khổ khu vực rộng lớn hơn gồm có các liên minh an ninh, mạng lưới kinh
tế, và các mối liên hệ xã hội.
Trong
số những cường quốc mới nổi quan trọng mà chúng ta sẽ hợp tác chặt chẽ
là Ấn Độ và Indonesia, hai trong những cường quốc dân chủ năng động và
đáng kể nhất của châu Á, và là hai quốc gia mà chính quyền Obama đã và
đang theo đuổi những mối quan hệ rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, và có chủ
đích hơn. Vùng biển từ Ấn Độ Đương xuyên qua Eo biển Malacca đến Thái
Bình Dương chứa đựng những tuyến đường mậu dịch và năng lượng sinh động
nhất thế giới. Kết hợp lại, Ấn Độ và Indonesia đã chiếm hết 1/4 dân số
thế giới. Những quốc gia này là động cơ chủ yếu của kinh tế toàn cầu,
đối tác quan trọng của Hoa Kỳ, và ngày càng có những đóng góp quan trọng
cho hòa bình và an ninh khu vực. Và vai trò quan trọng của hai nước này
có khả năng gia tăng trong những năm sắp tới.
Tổng
thống Obama đã phát biểu trước Quốc hội Ấn Độ rằng quan hệ giữa Ấn Độ
và Mỹ sẽ là một trong những quan hệ đối tác có ý nghĩa nhất của Thế kỷ
XXI, đặt cơ sở trên những giá trị chung và lợi ích chung. Cả hai bên vẫn
còn có những trở ngại phải vượt qua và những vấn đề cần được giải đáp,
nhưng Hoa Kỳ đang đánh cá chiến lược [đặt tin tưởng chiến lược] vào
tương lai của Ấn Độ – rằng một vai trò to lớn hơn của Ấn Độ trên sân
khấu thế giới sẽ gia tăng hòa bình và ổn định, rằng mở cửa thị trường Ấn
Độ cho thế giới sẽ dọn đường cho sự thịnh vượng khu vực và toàn cầu
rộng lớn hơn, rằng những tiến bộ khoa học và công nghệ của Ấn Độ sẽ cải
thiện đời sống và nâng cao kiến thức nhân loại khắp mọi nơi, và rằng thể
chế dân chủ sinh động và đa nguyên của Ấn Độ sẽ mang lại những kết quả
có thể đo lường được và những cải thiện cụ thể cho người dân và khuyến
khích các nước khác đi theo một đường lối cởi mở và bao dung tương tự.
Vì vậy, chính quyền Obama đã mở rộng quan hệ đối tác song phương của hai
nước; tích cực hậu thuẫn các nỗ lực Nhìn sang phía Đông (Look East
efforts) của Ấn Độ, kể cả bằng cách tham dự một cuộc đối thoại ba bên
(trilateral dialogue) với Ấn Độ và Nhật Bản; và phác họa một viễn kiến
mới mẻ cho một khu vực Nam và Trung Á hội nhập kinh tế và ổn định chính
trị hơn, với Ấn Độ ở vị trí then chốt.
Chúng
ta cũng đang thiết lập một quan hệ đối tác mới mẻ với Indonesia, nước
dân chủ lớn thứ ba thế giới, quốc gia Hồi giáo đông nhất thế giới, và là
một thành viên của Nhóm G-20. Chúng ta đã tiếp tục lại chương trình
huấn luyện hỗn hợp các đơn vị lực lượng đặc biệt và ký một số thỏa ước
về y tế, trao đổi giáo dục, khoa học và công nghệ, và quốc phòng. Và năm
nay, đáp lời mời của Chính phủ Indonesia, Tổng thống Obama sẽ mở đầu sự
tham dự của Mỹ tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (the East Asia Summit) –
Nhưng chúng ta vẫn còn một đoạn đường phải đi – chúng ta cần phải hợp
tác với nhau để khắc phục những trở ngại hành chính, những nghi ngờ còn
tồn đọng trong lịch sử, và những thiếu sót trong việc tìm hiểu quan điểm
và lợi ích của nhau.
Ngay
cả khi chúng ta tăng cường những quan hệ song phương này, chúng ta đã
nhấn mạnh sự quan trọng của hợp tác đa phương, vì chúng ta tin rằng muốn
đối phó các thử thách xuyên quốc gia như loại vấn đề mà châu Á đang gặp
phải hiện nay, chúng ta cần đến một loạt định chế có khả năng vận dụng
hành động tập thể. Và một cơ cấu khu vực vững mạnh và chặt chẽ hơn tại
châu Á sẽ tăng cường hệ thống luật lệ và trách nhiệm, từ việc bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ đến việc đảm bảo quyền tự do lưu thông trên biển,
những thứ quyền tạo cơ sở cho một trật tự quốc tế hữu hiệu. Trong các
bối cảnh đa phương, hành vi có trách nhiệm [của một chế độ] sẽ được
tưởng thưởng bằng tính chính danh và sự kính trọng của thế giới, và
chúng ta có thể cùng nhau làm việc để buộc những ai phá hoại hòa bình,
ổn định và thịnh vượng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Vì
thế, Hoa Kỳ đã bắt đầu tham dự đầy đủ các định chế đa phương trong khu
vực như Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), ý thức rằng sự hợp tác của chúng
ta với các định chế khu vực chỉ bổ túc chứ không thể thay thế các quan
hệ song phương. Có một đòi hỏi từ khu vực này rằng Mỹ cần phải đóng một
vai trò tích cực trong việc sắp xếp nghị trình của những định chế này –
và sự kiện các định chế này cần phải hoạt động hữu hiệu và sẵn sàng đáp
ứng với tình hình cũng nằm trong lợi ích của chúng ta.
Đó
là lý do tại sao Tổng thống Obama sẽ tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á
lần đầu tiên vào tháng Mười một này. Để chuẩn bị, Hoa Kỳ đã mở một Văn
phòng Đại diện mới tại ASEAN ở Jakarta và đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và
Hợp tác với ASEAN. Sự tập trung của chúng ta vào việc phát triển một
nghị trình nhắm vào kết quả (results-oriented agenda) đã rất hữu ích
trong các nỗ lực nhằm giải quyết các cuộc tranh chấp trong Biển Nam
Trung. Vào năm 2010, tại Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Hà Nội, Hoa Kỳ đã
giúp phát động một nỗ lực toàn khu vực nhằm bảo vệ quyền tiếp cận không
hạn chế và tự do thông thương trên Biển Nam Trung Hoa, và hỗ trợ những
luật lệ quốc tế quan trọng nhằm xác định các tuyên bố chủ quyền trong
vùng Biển Nam Trung Hoa. Với sự kiện một nửa trọng tải hàng hóa của thế
giới đi qua vùng biển này, đây là một nỗ lực rất quan trọng. Và trong
năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo vệ những lợi
ích quan trọng của chúng ta liên quan đến sự ổn định và tự do thông
thương và dọn đường cho một chính sách ngoại giao đa phương và bền vững
giữa những nước có tuyên bố chủ quyền trong Biển Nam Trung Hoa, cố gắng
đảm bảo rằng các tranh chấp sẽ được dàn xếp một cách hòa bình và phù hợp
với các nguyên tắc hiện hữu của luật pháp quốc tế.
Chúng
ta cũng có nỗ lực củng cố APEC như một định chế cấp lãnh đạo
(leaders-level institution) tập trung vào việc xúc tiến hội nhập kinh tế
và quan hệ mậu dịch xuyên Thái Bình Dương. Tiếp theo việc nhóm APEC
mạnh dạn kêu gọi thành lập một khu mậu dịch tự do của châu Á-Thái Bình
Dương, Tổng thống Obama sẽ là gia chủ của Cuộc họp các Lãnh đạo APEC năm
2011 tại Hawaii tháng Mười một này. Chúng ta cam kết xây dựng APEC
thành một định chế kinh tế khu vực hàng đầu của châu Á-Thái Bình Dương,
đưa ra nghị trình kinh tế theo một đường lối có thể kết hợp các nền kinh
tế tiên tiến và các nền kinh tế mới nổi nhằm đẩy mạnh tự do mậu dịch và
đầu tư, cũng như xây dựng khả năng và cải thiện các chế độ điều tiết
(regulatory regimes). APEC và hoạt động của nó giúp bành trướng các mặt
hàng xuất khẩu của Mỹ, tạo ra và yểm trợ các việc làm có chất lượng cao
tại Hoa Kỳ, đồng thời nuôi dưỡng mức tăng trưởng kinh tế trong khu vực.
APEC cũng cung cấp một phương tiện quan trọng để thúc đẩy một nghị trình
rộng lớn nhằm giải phóng tiềm năng tăng trưởng kinh tế mà phụ nữ là
tiêu biểu. Về phương diện này, Hoa Kỳ cam kết hợp tác với các đối tác
của chúng ta bằng những bước đầy tham vọng nhằm thúc đẩy sự ra đời của
Thời đại Tham gia (the Participation Age), trong đó mọi cá nhân, bất
chấp giới tính hay các đặc tính khác, đều là thành viên có đóng góp và
quý báu của thị trường toàn cầu.
Ngoài
cam kết của chúng ta đối với những định chế đa phương rộng lớn này,
chúng ta đã cố gắng tổ chức và phát động một số các cuộc họp “đa phương
nhỏ”, các nhóm nhỏ những quốc gia có quan tâm để đối phó những vấn đề
riêng biệt, chẳng hạn Sáng kiến Hạ lưu Sông Mê Kông (the Lower Mekong
Initiative) mà chúng ta đã phát động nhằm hỗ trợ giáo dục, y tế, và
những chương trình bảo vệ môi trường tại Căm Pu Chia, Lào, Thái Lan, và
Việt Nam, và Diễn đàn các Đảo Thái Bình Dương (the Pacific Islands
Forum), ở đó chúng ta đang hoạt động để hỗ trợ các thành viên trong khi
họ đương đầu với các thử thách, từ thay đổi khí hậu đến đánh bắt cá quá
mức quy định đến tự do thông thương trên biển. Chúng ta cũng đang bắt
đầu theo đuổi các cơ hội ba bên mới mẻ (new trilateral opportunities)
với những nước khác nhau như Mông Cổ, Indonesia, Nhật Bản, Kazakhstan,
và Nam Hàn. Và chúng ta cũng đang nhắm vào việc cải thiện việc điều hợp
(coordination) và tham gia của ba đại cường [ba anh khổng lồ] của châu
Á-Thái Bình Dương: Trung Quốc, Ấn Độ, và Hoa Kỳ.
Bằng
tất cả các đường lối khác nhau này, chúng ta đang cố gắng ảnh hưởng và
tham dự vào một cơ cấu khu vực linh động, hiệu quả, và có khả năng đáp
ứng tình hình – và đảm bảo rằng cơ cấu này nối kết với một cơ cấu toàn
cầu rộng lớn hơn, không những bảo vệ sự ổn định và thương mại quốc tế mà
còn phổ biến các giá trị của chúng ta.
Chúng
ta nhấn mạnh chức năng kinh tế của APEC trong việc theo đuổi những cam
kết rộng lớn hơn là để nâng cao chính sách kinh tế như là một cột trụ
của chính sách đối ngoại Mỹ. Sự tiến bộ kinh tế ngày càng lệ thuộc vào
các quan hệ ngoại giao vững mạnh, và sự tiến bộ ngoại giao ngày càng lệ
thuộc vào các quan hệ kinh tế vững mạnh. Và lẽ tự nhiên, một sự tập
trung vào việc thúc đẩy sự thịnh vượng của Mỹ có nghĩa là một sự tập
trung lớn hơn vào mậu dịch và sự cởi mở kinh tế tại khu vực châu Á-Thái
Bình Dương. Khu vực này đã tạo ra hơn nửa sản lượng toàn cầu và gần nửa
lượng mậu dịch toàn cầu. Trong khi chúng ta đang phấn đấu để đạt mục
tiêu của Tổng thống Obama là tăng gấp đôi lượng hàng xuất khẩu vào năm
2015, chúng ta cũng đang tìm kiếm cơ hội để phát triển doanh nghiệp Mỹ
hơn nữa tại châu Á. Năm ngoái, lượng hàng xuất khẩu của Mỹ đến các nước ở
Bờ Tây Thái Bình Dương (the Pacific Rim) lên đến tổng số 320 tỷ đôla,
hỗ trợ cho 850.000 việc làm tại Mỹ. Như vậy có rất nhiều yếu tố thuận
lợi khi chúng ta cân nhắc việc tái phối trí [chiến lược] này.
Khi
tôi nói chuyện với các đồng nhiệm châu Á của tôi, một đề tài thường
xuyên nổi bật: Họ vẫn muốn Hoa Kỳ là một đối tác tích cực và đầy sáng
kiến trong các tương tác thương mại và mậu dịch đang gia tăng trong khu
vực. Và khi tôi nói chuyện với các lãnh đạo doanh nghiệp khắp đất nước
chúng ta, tôi nghe rằng việc Hoa Kỳ mở rộng các cơ hội xuất khẩu và đầu
tư của chúng ta tại các thị trường năng động của châu Á là rất quan
trọng.
Tháng
Ba vừa qua tại các cuộc họp APEC tại Washington, và một lần nữa tại
Hồng Kông vào tháng Bảy, tôi đã nêu ra bốn thuộc tính (attributes) mà
tôi cho là mô tả tính cách của một sự cạnh tranh kinh tế lành mạnh:
thông thoáng, tự do, minh bạch, và công bằng. Qua sự tham gia tích cực
của chúng ta trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, chúng ta đang giúp
thể hiện những nguyên tắc này và chứng minh giá trị của chúng với thế
giới.
Chúng
ta đang theo đuổi những hiệp ước thương mại tiên phong có khả năng nâng
cao tiêu chuẩn cạnh tranh công bằng ngay cả khi những hợp đồng này mở
ra những thị trường mới mẻ. Chẳng hạn, Hiệp ước Tự do mậu dịch Mỹ-Hàn sẽ
loại bỏ thuế quan trên 95% hàng xuất khẩu tiêu thụ và hàng xuất khẩu
công nghiệp của Mỹ trong vòng 5 năm và hỗ trợ khoảng 75.000 việc làm tại
Mỹ. Nội việc giảm thuế quan này mà thôi cũng có thể gia tăng các mặt
hàng xuất khẩu của Mỹ thêm hơn 10 tỉ đôla và giúp kinh tế Nam Hàn tăng
trưởng thêm 6% của tỷ lệ tăng trưởng hàng năm. Hiệp ước này sẽ san bằng
sân chơi cho các công ty xe hơi Mỹ và công nhân Mỹ. Vì thế, bất luận bạn
là một nhà chế tạo máy móc Mỹ hay một người xuất khẩu hóa chất Nam Hàn,
hiệp ước này sẽ hạ thấp các rào cản đã ngăn cấm bạn với tới các khách
hàng mới.
Chúng
ta cũng đạt được tiến bộ về Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TTP), một thỏa ước sẽ tập hợp một số nền kinh tế xuyên Thái Bình Dương –
phát triển cũng như đang phát triển – thành một cộng đồng thương mại
đơn nhất [còn đang trong vòng đàm phán giữa Hoa Kỳ và 8 quốc gia khác
trong đó có Việt Nam – DG.] Mục đích của chúng ta là tạo ra tăng trưởng
không những nhiều hơn, nhưng còn tốt đẹp hơn. Chúng ta tin rằng các thỏa
ước thương mại cần phải có những điều khoản bảo vệ công nhân, môi
trường, quyền sở hữu trí tuệ, và sáng kiến. Những điều khoản này cũng
phải khuyến khích dòng giao lưu tự do của công nghệ thông tin và truyền
bá công nghệ xanh [bảo vệ môi trường], cũng như sự chặt chẽ trong hệ
thống điều tiết của chúng ta và hiệu năng của hệ thống cung cấp sản
phẩm. Sau cùng, sự tiến bộ của chúng ta sẽ được đo lường bằng phẩm chất
của đời sống dân chúng – là liệu cả đàn ông lẫn đàn bà có được việc làm
phù hợp với nhân phẩm, có kiếm được đồng lương đủ sống, có nuôi gia đình
được khỏe mạnh, có giáo dục được con cái, và có nắm bắt cơ hội để cải
thiện vận mệnh của chính họ hay của thế hệ tiếp theo hay không. Chúng ta
hy vọng một hiệp ước TTP với tiêu chuẩn cao có thể được dùng làm mẩu
mực cho các hiệp ước tương lai – và sẽ phát triển để trở thành một diễn
đàn cho sự tương tác rộng lớn hơn trong khu vực và sau cùng trở thành
một khu mậu dịch tự do của châu Á-Thái Bình Dương.
Muốn
đạt được quân bình trong những quan hệ mậu dịch, chúng ta cần có sự cam
kết hai chiều. Đó là bản chất của quân bình – nó không thể được áp đặt
một cách đơn phương. Vì thế, chúng ta đang làm việc thông qua APEC, nhóm
G-20, và các quan hệ song phương để cổ vũ thêm nhiều thị trường tự do
hơn nữa, giảm các hạn chế trên hàng xuất khẩu, tăng cường tính minh
bạch, và đòi hỏi một cam kết chung cho sự công bằng. Doanh nghiệp Mỹ và
công nhân Mỹ cần có sự tin tưởng là họ đang hoạt động trên một sân chơi
bằng phẳng, với những luật lệ có thể tiên đoán được trên mọi phương diện
từ sở hữu trí tuệ đến sáng kiến của người bản xứ.
Tăng
trưởng kinh tế ngoạn mục của châu Á trong thập niên qua và tiềm năng
tăng trưởng liên tục vào tương lai của châu Á tùy thuộc vào nền an ninh
và ổn định từ lâu được bảo đảm bởi quân đội Mỹ, bao gồm 50.000 lính Mỹ
phục vụ tại Nhật Bản và Nam Hàn. Những thách đố do tình hình biến chuyển
nhanh chóng trong khu vực hiện nay – từ những tranh chấp lãnh thổ và
lãnh hải đến những đe dọa mới mẻ đối với tự do thông thương trên biển
đến hậu quả thiên tai trầm trọng – đòi hỏi Hoa Kỳ phải theo đuổi các khả
năng quân sự được phân bố theo địa lý, có sức bật trong chiến đấu, và
có lợi thế chính trị.
Chúng
ta đang hiện đại hóa các căn cứ quân sự Mỹ với các đồng minh truyền
thống trong khu vực Đông Bắc Á – và sự cam kết của chúng ta trên vấn đề
này là rất vững chắc – trong khi chúng ta gia tăng sự hiện diện của mình
tại Đông Nam Á và vào trong Ấn Độ Dương. Chẳng hạn Hoa Kỳ sẽ triển khai
các chiến hạm đến Singapore, và chúng ta đang điều nghiên các phương
thức khác để gia tăng cơ hội cho hai quân đội huấn luyện và hoạt động
với nhau. Ngoài ra, Hoa Kỳ và Australia vào năm nay đã đồng ý thăm dò
một sự hiện diện quân đội Mỹ to lớn hơn tại Australia để gia tăng cơ hội
cho việc huấn luyện và thao diễn hỗn hợp. Chúng ta cũng đang thăm dò
phương cách để gia tăng khả năng tiếp cận hành quân của chúng ta tại
Đông Nam Á và khu vực Ấn Độ Dương đồng thời tăng cường những tiếp xúc
của chúng ta với các quốc gia đồng minh và đối tác.
Làm
thế nào để diễn dịch đường nối kết ngày càng phát triển giữa Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương thành một ý niệm hành quân là một câu hỏi chúng
ta cần phải trả lời nếu chúng ta muốn thích ứng với những thách đố mới
mẻ ở trong khu vực. Trong bối cảnh này, một sự hiện diện quân sự được
phân bố rộng rãi hơn nữa khắp khu vực sẽ tạo ra những lợi thế rất quan
trọng. Hoa Kỳ nhờ thế sẽ ở vào một vị trí thuận lợi hơn để hỗ trợ các sứ
mệnh nhân đạo. Cũng không kém phần quan trọng là, có thêm nhiều đồng
minh và đối tác để cùng làm việc sẽ tạo được một lực lượng phòng thủ
vững chắc hơn để chống lại những đe dọa hay các nỗ lực phá hoại hòa bình
và an ninh khu vực.
Nhưng
thậm chí còn hơn cả sức mạnh quân sự của chúng ta hay tầm cỡ của nền
kinh tế của chúng ta, tài sản giàu có nhất của chúng ta trong tư thế một
quốc gia là sức mạnh nội tại trong các giá trị của chúng ta – đặc biệt
là sự hậu thuẫn vững chắc của chúng ta cho dân chủ và nhân quyền. Điều
này chứng minh phẩm cách quốc gia sâu sắc nhất của chúng ta và nằm ngay
trung tâm của chính sách đối ngoại Mỹ, kể cả sự chuyển hướng chiến lược
của chúng ta nhắm vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Trong
khi chúng ta tăng cường sự cam kết của chúng ta với những đối tác mà
chúng ta bất đồng ý kiến về những vấn đề này, chúng ta sẽ tiếp tục thúc
đẩy họ chấp nhận các cải tổ nhằm cải thiện việc quản trị quốc gia, bảo
vệ nhân quyền, và gia tăng các tự do chính trị. Chẳng hạn, chúng ta đã
nói rõ với Việt Nam rằng nguyện vọng phát triển một quan hệ đối tác
chiến lược của chúng ta đòi hỏi quốc gia này phải có hành động bảo vệ
nhân quyền và đẩy mạnh tự do chính trị hơn nữa. Hay hãy xét đến Miến
Điện, một nơi mà chúng ta cương quyết đòi trách nhiệm giải trình của
Chính phủ về các vi phạm nhân quyền. Chúng ta chăm chú theo dõi những
diễn biến tại Nay Pyi Taw [thủ đô mới của Miến Điện] và những tương tác
đang gia tăng giữa Bà Aung San Suu Kyi và giới lãnh đạo Chính phủ. Chúng
ta đã nhấn mạnh với Chính phủ rằng họ phải thả tù chính trị, đẩy mạnh
các tự do chính trị và nhân quyền, và từ bỏ các chính sách trong quá
khứ. Còn về Bắc Hàn, chế độ Bình Nhưỡng đã chứng tỏ luôn luôn coi thường
các quyền của người dân trong nước, và chúng ta tiếp tục lên tiếng mạnh
mẽ chống lại các đe dọa mà họ đặt ra cho khu vực và các nơi khác.
Chúng
ta không thể và không muốn áp đặt hệ thống chính trị của chúng ta lên
các nước khác, nhưng chúng ta thực sự tin tưởng một số giá trị nhất định
là phổ quát – rằng người dân trong mọi quốc gia trên thế giới, kể cả
châu Á, trân quý chúng – và rằng những giá trị này gắn liền với các quốc
gia ổn định, hòa bình, và phồn thịnh. Cuối cùng, việc theo đuổi những
quyền tự do và nguyện vọng của mình là hoàn toàn tùy thuộc vào người dân
châu Á, y hệt như chúng ta nhận thấy người dân đã làm khắp nơi trên thế
giới.
Trong
thập kỷ vừa qua, chính sách đối ngoại của chúng ta đã chuyển biến từ
những lợi lộc nhờ hòa bình sau Chiến tranh Lạnh đến đòi hỏi những cam
kết tại Iraq và Afghanistan. Khi những cuộc chiến này tàn lụi, chúng ta
sẽ cần tăng tốc những nỗ lực để hướng về những tình hình thực tế mới mẻ
trên toàn cầu.
Chúng
ta biết rằng những thực tế mới mẻ này đòi hỏi chúng ta phải có sáng
kiến, phải cạnh tranh, và phải lãnh đạo bằng những đường lối mới. Thay
vì phải rút khỏi thế giới, chúng ta cần phải xốc tới và đổi mới cách
lãnh đạo của chúng ta. Trong một thời kỳ khan hiếm nguồn lực, hẳn nhiên
là chúng ta cần phải đầu tư những nguồn lực này một cách khôn ngoan vào
những nơi chúng có thể tạo ra nhiều lợi nhuận nhất, đó là lý do tại sao
khu vực châu Á-Thái Bình Dương tượng trưng cho một vận hội đích thực của
Thể kỷ XXI đối với chúng ta.
Tất
nhiên, những khu vực khác vẫn còn rất quan trọng. Châu Âu, quê hương
của hầu hết các đồng minh truyền thống của chúng ta, vẫn còn là một đối
tác hàng đầu, gần như hoạt động sát cánh với Hoa Kỳ trước mọi thử thách
toàn cầu khẩn cấp, và chúng ta đầu tư vào việc cập nhật hóa các cấu trúc
của liên minh chúng ta. Nhân dân Trung Đông và Bắc Phi đang vạch ra một
con đường mới, việc này đang có những hậu quả toàn cầu sâu sắc, và Hoa
Kỳ cam kết duy trì những quan hệ đối tác tích cực và bền vững trong khi
khu vực này đang chuyển mình. Châu Phi đang giữ tiềm năng to lớn chưa
được khai thác cho việc phát triển kinh tế và chính trị trong những năm
sắp tới. Và tất cả những quốc gia láng giềng của chúng ta tại Tây Bán
cầu không những chỉ là những đối tác xuất khẩu to lớn nhất của chúng ta;
họ còn đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong các vấn đề chính trị
và kinh tế toàn cầu. Mỗi một khu vực này đòi hỏi Hoa Kỳ phải tích cực
tham gia và lãnh đạo.
Và
chúng ta sẵn sàng lãnh đạo. Trong giờ phút này, tôi biết rằng có những
người đang hoài nghi khả năng tồn tại của chúng ta khắp thế giới. Khi
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một công nghiệp rất thịnh hành gồm các
bình luận gia đưa ra ý kiến cho rằng Hoa Kỳ đang tháo chạy, và đây là
một đề tài cứ lặp đi lặp lại mỗi vài thập niên. Nhưng bất cứ khi nào Hoa
Kỳ tạm thời gặp thất bại, chúng ta lại khắc phục chúng bằng tái phát
minh và sáng kiến. Khả năng hồi phục mạnh mẽ hơn trước của chúng ta là
vô địch trong lịch sử hiện đại. Khả năng này phát sinh từ mô hình dân
chủ tự do và tự do kinh doanh của chúng ta, một mô hình vẫn còn là nguồn
tạo ra phồn vinh và tiến bộ mạnh mẽ nhất mà nhân loại biết tới. Khắp
mọi nơi tôi đến, tôi nghe rằng thế giới vẫn còn trông đợi Hoa Kỳ lãnh
đạo. Quân đội của chúng ta rõ ràng là hùng mạnh nhất, và nền kinh tế của
chúng ta rõ ràng là lớn nhất. Công nhân của chúng ta có năng suất cao
nhất. Đại học của chúng ta nổi tiếng khắp hoàn cầu. Vì thế hiển nhiên
là, Hoa Kỳ có khả năng đảm bảo và duy trì quyền lãnh đạo của chúng ta
trong thế kỷ này cũng như đã từng làm trong thế kỷ trước.
Khi
chúng ta bước tới chuẩn bị tham gia các hoạt động tại châu Á trong 60
năm tới, chúng ta luôn luôn ý thức cái di sản lưỡng đảng đã ảnh hưởng sự
dấn thân của chúng ta trong 60 năm qua. Và chúng ta đang tập trung vào
những việc mà chúng ta phải thực hiện ở trong nước – tăng quỹ tiết kiệm,
cải tổ các hệ thống tài chính của chúng ta, giảm bớt việc vay nợ, khắc
phụ nạn chia rẽ đảng phái – để đảm bảo và duy trì quyền lãnh đạo của
chúng ta ở nước ngoài.
Tuy
rằng sự chuyển hướng này không phải là dễ dàng, nhưng chúng ta đã dọn
đường cho nó trong 2 năm rưỡi vừa qua, và chúng ta cương quyết phải thấy
nó hoàn thành như một trong những nỗ lực ngoại giao quan trọng nhất
thời đại chúng ta.
T.N.C. dịch
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment