Thái Văn Cầu Trong “Thư ngỏ” của 36 trí thức ở nước ngoài gửi lãnh đạo Việt Nam ngày 21 tháng 8 năm 2011 có đoạn:
“Sau
chiến tranh biên giới cực Bắc năm 1979, nguồn tư liệu do Nhà nước bạch
hóa về quan hệ Việt - Trung cho thấy mối quan hệ giữa hai nước không tốt
đẹp như nhiều người lầm tưởng” [1].
Nếu không
có chiến tranh biên giới cực Bắc năm 1979, dù nguồn tư liệu độc lập có
đề cập đến [2], nhân dân Việt Nam khó thể biết được bản chất nghiêm
trọng đằng sau mối quan hệ được ví như “môi răng” trong một thời gian
dài, điển hình như:
“…phản bội Việt Nam ở Hội
nghị Geneva năm 1954, ngăn cản Việt Nam thương lượng với Mỹ năm 1968,
dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 1974, phát động chiến tranh
biên giới năm 1979, dùng vũ lực đánh chiếm một phần Trường Sa năm 1988”
[3].
Sau một giai đoạn băng
giá trong quan hệ giữa hai nước, vào tháng 11 năm 1991, lãnh đạo Việt
Nam và Trung Quốc hội đàm và ra Thông cáo chung, trong có đoạn:
“Việt
Nam và Trung Quốc sẽ phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân
thiện, trên cơ sở 5 nguyên tắc: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình” [4].
Bất
cứ ai quan tâm đến an nguy và tương lai Việt Nam không thể không tự
hỏi, phải chăng lãnh đạo Trung Quốc từ năm 1991 cho đến ngày nay có một
chính sách khác biệt với người tiền nhiệm?
Thực
tế cho câu trả lời rất rõ ràng: Lời nói và hành động của Trung Quốc đối
với Việt Nam, trước sau như một, có sai lệch 180 độ!
Kể
từ khi bình thường hóa quan hệ, bắt đầu vào cuối năm 1991, Trung Quốc
tiến hành “từng bước lũng đoạn kinh tế, thu vét tài nguyên, thực hiện
mưu đồ đồng hóa, xâm phạm chủ quyền và đối xử tàn bạo đối với ngư dân
Việt Nam trên Biển Đông” [5].
Với chính sách
nhất quán, Trung Quốc không ngần ngại sử dụng mưu đồ thâm độc và toan
tính tinh vi, như đã thực hiện trong giai đoạn 1949-1979 [6].
Để đối phó, lãnh đạo Việt Nam cần bản lĩnh cao trong giao tiếp với ngoại bang nhằm bảo vệ hữu hiệu quyền lợi đất nước.
Thực
tế cho thấy có một bộ phận trong giới lãnh đạo không thể hiện điều kiện
tối cần thiết này; có những vấn đề trong hơn 20 năm nay đòi hỏi một quá
trình “xét lại toàn bộ quan hệ Việt - Trung và chỉnh sửa những quyết
định sai lầm trước đây khiến Việt Nam mất cân bằng, lệ thuộc vào mối
quan hệ này trên các lãnh vực khác nhau” [7].
Dưới đây là hai trường hợp cụ thể:
1. Thu vét tài nguyên:
Trong
hai năm liền, 2009-2010, đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng nhiều lão thành
cách mạng, nhân sĩ, trí thức công khai và mạnh dạn kêu gọi ngưng dự án
khai thác bô-xít ở Tây Nguyên do các hiểm họa tiềm ẩn trong dự án và sự
không thuyết phục trong nghiên cứu khả thi.
Nhà nước Việt Nam vẫn quyết định tiến hành dự án.
Nguyên do chính đến từ một cam kết trong Thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc cuối năm 2001:
“Nhân
dịp này, hai bên đã ký Hiệp định khung giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về
việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi và Hiệp định
hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; và nhất trí sẽ
tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít
nhôm Đắc Nông” [8].
Qua cam kết trên, Trung Quốc
đạt được mục đích thu vét tài nguyên của Việt Nam bất chấp mọi hiểm họa
đe dọa Việt Nam trong nhiều lãnh vực quan trọng: môi trường sinh thái,
an ninh quốc phòng, bản sắc khu vực, và yếu tố kinh tế.
Lãnh
đạo Việt Nam năm 2001 đồng ý với đòi hỏi của Trung Quốc bất chấp khuyến
cáo trước đấy của Liên Xô và khối Đông Âu không nên khai thác bô-xít ở
Tây Nguyên [9] và bất chấp sự thiếu vắng nghiên cứu cần thiết trước khi
có cam kết trong Thông cáo chung.
2. Xâm phạm chủ quyền:
Sau cuộc đối thoại chiến lược cấp Thứ trưởng giữa hai nước cuối tháng 8 năm 2011, lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam tuyên bố:
“Một
thực tế hiển nhiên là Trung Quốc cam kết không lấy đất, lấy biển của
Việt Nam, và Việt Nam cũng không bao giờ nhượng bộ vô nguyên tắc về chủ
quyền” [10].
Cái gọi là “cam kết” của Trung Quốc trong tuyên bố của lãnh đạo Bộ Quốc phòng hoàn toàn đi ngược lại với chứng cứ lịch sử.
Trong
vòng 40 năm qua, Trung Quốc không từ bỏ một cơ hội nào để lấy đất, lấy
biển, bất kể diện tích lớn bé, của Việt Nam: Hoàng Sa năm 1974, Trường
Sa năm 1988, Bản Giốc, Nam Quan, qua Hiệp ước Biên giới năm 1999, v.v.
Do
lãnh đạo Việt Nam, trong quá khứ, nhiều lần lên tiếng tố cáo với cộng
đồng quốc tế tham vọng bành trướng của Trung Quốc, và do độ chính xác
của những tố cáo này được kiểm chứng qua nguồn tư liệu độc lập, không ai
có thể tin tưởng vào cam kết đã bị lịch sử phủ nhận tính chất nghiêm
túc của nó.
Trước đòi hỏi lãnh hải ngang ngược
và hành động vô lối của Trung Quốc trên Biển Đông, cơ quan truyền thông
đưa tin Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sẽ viếng
thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 11-15 tháng 10, 2011.
Hơn
bao giờ hết, lãnh đạo Việt Nam cần xem lại các bài học trong quan hệ
Việt - Trung; hơn bao giờ hết, nhân dân Việt Nam đòi hỏi lãnh đạo thể
hiện bản lĩnh cao, để xứng đáng với hy sinh xương máu của bao thế hệ cha
ông và đáp ứng mong đợi của mọi người trong sự nghiệp bảo vệ và xây
dựng đất nước.
Vấn đề Biển Đông và tranh chấp
Hoàng Sa - Trường Sa khó thể không nằm trong chương trình làm việc giữa
lãnh đạo Việt - Trung hay trong Thông cáo chung.
Lãnh
đạo Việt Nam từng tuyên bố, “Chúng ta không tham của ai, nhưng một tấc
đất quê hương chúng ta cũng không nhân nhượng”, hay “…vấn đề chủ quyền
biển đảo với bất cứ quốc gia nào cũng thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Nước to, nhỏ cũng đều có nhận thức như vậy” [11].
Vì thế, vị thế của Việt Nam trong tranh chấp Hoàng Sa - Trường Sa - Biển Đông cần phản ánh rõ rệt các điểm sau:
1.
Về Hoàng Sa: Dù Trung Quốc có thái độ không hợp tác trong giải quyết
tranh chấp, do hậu thuẫn mạnh mẽ cho Việt Nam trên cơ sở luật pháp quốc
tế và chứng cứ lịch sử, Việt Nam cần một mặt tiếp tục thúc đẩy vấn đề
Hoàng Sa với Trung Quốc, mặt khác tranh thủ sớm đưa vấn đề Hoàng Sa ra
dư luận và tòa án quốc tế.
Ý tưởng để các thế hệ
tương lai giải quyết tranh chấp Hoàng Sa mang tính đầu hàng, trốn tránh
trách nhiệm. Có lẽ nào đối phó với kẻ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”
khó khăn hơn, phức tạp hơn là đương đầu với những tên “thực dân”, “đế
quốc” sừng sỏ nhất thế giới [12]?
2. Về Trường
Sa: Nỗ lực đa phương hóa, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và chứng cứ
lịch sử, mà Việt Nam đang tiến hành là giải pháp tốt đẹp nhất và cần sự
ủng hộ của nhiều nước liên quan.
3. Về Biển
Đông: Do tính chất phi lý trong đòi hỏi “đường lưỡi bò” của Trung Quốc,
nỗ lực tranh thủ các nước liên quan nhằm vô hiệu hóa đòi hỏi “đường lưỡi
bò” mà Việt Nam đang tiến hành là giải pháp tốt đẹp nhất.
Trong “Tuyên cáo” của 95 nhân sĩ và trí thức trong nước làm ngày 25 tháng 6 năm 2011 có đoạn:
“Sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân. Vì vậy bên cạnh biện
pháp chính trị, quân sự và ngoại giao, biện pháp đấu tranh hiệu quả nhất
vẫn là phải dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc, của tất cả mọi người
Việt Nam yêu nước ở trong nước cũng như ở ngoài nước nhằm chống lại
những hành động ngang ngược gây hấn, xâm lấn của nhà cầm quyền Trung
Quốc, bảo vệ nền độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt
Nam mà bao đời ông cha đã gầy dựng, gìn giữ” [13].
Cùng
với thế giới, Việt Nam đang chứng kiến những đổi thay nhanh chóng trong
xã hội do sức lớn mạnh của cuộc cách mạng tin học: Thống kê mới nhất
cho thấy hơn 30 triệu người Việt Nam sử dụng internet [14].
Sự
yếu kém trong bản lĩnh của một bộ phận lãnh đạo qua hai trường hợp nêu
trên không những có khả năng dẫn đến hệ quả tai hại lâu dài cho Việt Nam
mà còn khiến nhân dân cả nước, qua mạng lưới thông tin đa dạng, đa
nguồn, đánh mất niềm tin vào hiệu năng của lãnh đạo.
Thông
cáo chung Việt Nam - Trung Quốc năm 2011 theo tinh thần giữ vững chủ
quyền và sự toàn vẹn lãnh hải lãnh thổ là cơ hội hy hữu cho lãnh đạo
Việt Nam chứng tỏ họ là người có bản lĩnh trong giao tiếp với ngoại bang
và chứng tỏ họ là người luôn luôn đặt quyền lợi nhân dân và đất nước
trên hết.
Thực hiện được điều này đồng thời giúp
lãnh đạo Việt Nam phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để “bảo vệ nền độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam mà bao đời ông
cha đã gầy dựng, gìn giữ”.
Bằng không, như
Nguyễn Trãi, hơn 500 năm trước, viết, “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền
cũng là dân” hay như Hồ Chí Minh từng nói, “Nếu Chính phủ làm hại dân
thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
Khi sử dụng
facebook, twitter, internet, v.v., ngày càng phổ biến trong trào lưu
tiến bộ chung của khoa học kỹ thuật, không một thế lực nào, dù hung hãn,
mạnh bạo đến đâu, có thể mãi mãi ngăn chặn lời Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh
trở thành hiện thực.
T.V.C.
Phụ chú:
2.
Xem Francois Joyaux, “La Chine et le reglement du premier conflit
d'Indochine (Geneve 1954)”, 1979, Nayan Chanda, “Brother Enemy”, 1986,
hay Qiang Zhai, "China and the Vietnam Wars, 1950-1975", 2000.
3. “Thư ngỏ”
5. “Thư ngỏ”
6.
Xem Bộ Ngoại giao nước CHXHCNVN, “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc 30 năm qua”, hay “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc”,
1979 http://hoangsa.org/forum/downloads.php?do=file&id=167
7. “Thư ngỏ”
12. http://hanoimoi.com.vn/newsdetail/The-gioi/97860/quotvi7879t-nam--trung-hoa- v7915a-la-2737891ng-chi-v7915a-la-anh-em-!quot.htm
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment