Trần Gia Phụng"...Từ
đó, trước mặt Trung Quốc, đảng CSVN trở nên mềm nhủn, nhu nhược, và
liên tiếp ký hai hiệp ước nhượng đất và nhượng biển cho Trung Cộng. Thứ
nhất là “Hiệp ước về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Trung Quốc”
ngày 30-12-1999 (mất ải Nam Quan)..."
1.- Chuyện dài Trung Quốc
Đối
với người Việt Nam, Trung Quốc là chuyện dài bất tận, bắt đầu ngay từ
thời tổ tiên chúng ta lập quốc, và có lẽ không khi nào chấm dứt, vì
không thể nào thay đổi khu vực địa lý chính trị. Các nhà cầm quyền Trung
Quốc, dù bất cứ chế độ nào, luôn luôn tìm cách thôn tính Việt Nam, bành
trướng xuống Đông Nam Á. Điều này không cần chứng minh, người Việt Nam
nào cũng biết.
2.- Trung Quốc và phản quốc
2.- Trung Quốc và phản quốc
Chuyện
dài Trung Quốc chia thành hai tập rõ rệt. Tập thứ nhất, từ thời lập
quốc đến thế kỷ 19, là những thiên anh hùng ca giữ nước của dân tộc, với
các chương nổi bật như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường
Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Quang Trung… Tập thứ hai,
từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay, chuyện dài Trung Quốc hoàn toàn đổi chiều,
chỉ là những trang thảm sử nhục nhã do đảng CSVN dựng nên. Tập hai này
có thể chia làm hai chương chính từ 1924 đến 1954 và từ 1954 đến 1975.
Chương
thứ nhất bắt đầu với Nguyễn Ái Quốc. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (người
Việt Nam có tên Nga là Lin hay Linov), ủy viên Đông phương bộ, phụ trách
cục phương Nam, một cán bộ lãnh lương của Đệ tam Quốc tế Cộng sản
(QTCS), từ Liên Xô qua Trung Hoa để phát triển cộng sản xuống vùng Đông
Nam Á. Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc với đảng Cộng Sản
Trung Hoa (CSTH) và mời Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai đến giảng dạy tại những
khóa huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc lập ra để đào tạo cán bộ. Nguyễn Ái
Quốc chính là người đại diện QTCS đứng ra thành lập đảng CSVN tại Hương
Cảng ngày 6-1-1930 (Sau vâng lệnh đảng CS Liên Xô, đổi thành ngày
3-2-1930.)
Cuộc giao du giữa hai đảng
CSVN và CSTH bắt đầu từ đây. Khi đến Trung Hoa lần thứ ba, Nguyễn Ái
Quốc đến căn cứ Diên An, nơi đặt bộ chỉ huy CSTH, trong nhiều tuần lễ
vào mùa thu năm 1938, có thể để học tập và huấn luyện. Trong giai đọan
đầu của cuộc chiến chống Pháp, Việt Minh (một mặt trận của CSVN) thất
bại, phải co cụm lên rừng núi và về nông thôn.
Vì
vậy, vừa được tin Mao Trạch Đông chiến thắng và thành lập nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa ngày 1-10-1949, Hồ Chí Minh gởi liền hai đại diện là
Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh vào cuối năm đó để xin viện
trợ. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University
of North Carolina Press, 2000, tt. 10-15.)
Tiếp
theo, đích thân Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow vào đầu năm 1950.
Tại Moscow, Hồ Chí Minh lãnh chỉ thị về thực hiện Cải cách ruộng đất sắt
máu theo kiểu cộng sản. Trên đường về, trở lại Bắc Kinh, Hồ Chí Minh ký
với các nhà lãnh đạo Trung Quốc Hiệp ước Phòng thủ Hỗ tương giữa hai
bên. Từ đó, CSTH cử La Quý Ba sang làm cố vấn cho Hồ Chí Minh, và ào ạt
viện trợ cho VM.
Từ tháng 4 đến tháng
9-1950, Trung Quốc viện trợ cho VM 14,000 súng, 17,000 súng tự động,
150 trọng pháo đủ lọai, 2,800 tấn lúa, cùng đạn dược, quân phục, máy
truyền tin, thuốc men…(Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập B, Houston:
Văn Hóa, 1997, tr. 191.)
Theo tài
liệu của CSVN, từ tháng 12-1950 đến tháng 6-1954, “chính phủ nước Việt
nam Dân chủ Cộng Hòa đã nhận được viện trợ của quốc tế là 21,517 tấn vật
chất, bao gồm vũ khí, đạn dược, nguyên liệu quân giới, vận tải, xăng
dầu, gạo, thực phẩm, quân trang, quân y, thông tin, công binh (trong đó
vũ khí đạn dược là 4,253 tấn; vận tải xăng dầu là 5,069 tấn; gạo, thực
phẩm – 9,590 tấn.) Tổng số viện trợ trị giá 136 triệu đồng nhân dân tệ
(34 triệu rúp) theo thanh tóan giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong số đó,
vũ khí trang bị kỹ thuật gồm có 24 khẩu sơn pháo 75 ly, 24 khẩu lự pháo
105 ly, 76 khẩu pháo cao xạ 37 ly (của Liên Xô), 12 khẩu pháo hỏa tiễn
H6 (của Liên Xô, 715 xe ô tô vận tải (trong đó có 685 xe của Liên Xô).”
(Lê Mậu Hãn chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Giáo
Dục, 2001, tr. 103.)
Viện trợ nhiều,
thì ân tình nhiều. Sau năm 1954, Bắc Việt tiến lên xã hội chủ nghĩa,
càng ngày càng nghèo đói, lấy gì trả nợ ân tình? Để đền ơn đáp nghĩa,
nhà cầm quyền Hà Nội không có gì ngoài việc lấy của gia bảo là đất đai
do cha ông để lại, để hiến dâng cho Bắc Kinh.
Theo
tài liệu về phía Trung Quốc, “Vào tháng Sáu năm 1956, hai năm sau khi
chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã thành lập tại Hà Nội, thứ trưởng Ngoại
giao Việt Nam Ung văn Khiêm đã nói với ông Li Zhimin, tham tán sứ quán
Trung Quốc tại Việt Nam, rằng theo dữ liệu của Việt Nam thì đảo Tây Sa
(tức Paracels, Hòang Sa) và đảo Nansha (tức Spratleys, Trường Sa) là một
phần thuộc Trung Quốc theo lịch sử.” (Quan điểm của Bắc Kinh về chủ
quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, RFA 12-12-2007.)
Tài
liệu tuyên truyền của Trung Quốc có thể không đáng tin, nhưng thư của
thủ tướng Phạm Văn Đồng đề ngày 14-9-1956, gởi cho thủ tướng Chu Ân Lai,
thì là thật đáng tin vì chứng tích rõ ràng còn để lại, nguyên văn như
sau:
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố
ngày 4 tháng 9 năm 1959 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ
thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận
12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Chương
hai tập hai chuyện dài Trung Quốc từ 1954 đến 1975 được tiếp nối bằng
viện trợ của Trung Quốc để tấn công Việt Nam Cộng Hòa.
Trung Quốc chẳng những viện trợ súng ống, đạn dược mà cả quân viễn chinh nữa.
Trong
cuộc họp báo tại Bắc Kinh ngày 30-7-1979, một viên chức ngọai giao
Trung Quốc cho biết tứ năm 1954 đến 1971, 300,000 binh sĩ Trung Quốc đã
chiến đấu bên cạnh binh sĩ Bắc Việt, trong đó hàng ngàn người đã tử trận
và hàng chục ngàn người đã bị thương. (Jacques Massu, Jean-Julien
Fonde, L’aventure Viet-Minh, Paris: Plon, 1980, tr. 293, phần chú thích.)
Tiết
lộ của của viên chức ngọai giao Trung Quốc được một tài liệu của một
cựu cán bộ CSVN là ông Nguyễn Minh Cần xác nhận khi ông cho biết Bắc
Việt đã mời quân Trung Cộng vào đóng giữ từ khu Việt Bắc xuống tới Hà
Nội. (Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi, California: Văn Nghệ, 1997, tr.
114.)
Trở lại cuộc họp báo của viên
chức bộ Ngọai giao Trung Quốc, ông ta còn xác định số lượng võ khí Trung
Quốc viện trợ cho CSVN từ 1950 đến 1977 lên đến 2,000,000 súng hạng
nhẹ, 27,000 đại pháo, 270 triệu băng đạn, 18 triệu đạn đại pháo, 179
chiếc máy bay và 145 chiến hạm.(Jacques Massu, Jean-Julien Fonde, sđd.
tr. 293, phần chú thích.)
Tuy nhiên
tất cả những tài liệu tạm dẫn đó cũng đủ để giải thích vì sao, CSTH rất
tức giận khi CSVN quay mặt với Trung Quốc, để chạy theo Liên Xô năm
1978. Sau đó, vì Liên Xô sụp đổ năm 1991, CSVN đành trở lại quy thuận
Trung Quốc.
Từ đó, trước mặt Trung
Quốc, đảng CSVN trở nên mềm nhủn, nhu nhược, và liên tiếp ký hai hiệp
ước nhượng đất và nhượng biển cho Trung Cộng. Thứ nhất là “Hiệp ước về
biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Trung Quốc” ngày 30-12-1999 (mất
ải Nam Quan) và thứ hai là “Hiệp ước phân định lãnh hải” ngày
25/12/2000 (mất khoảng 10,000 Km2 mặt biển Vịnh Bắc Việt). Chuyện biên
giới là chuyện dai dẳng cả trăm năm chưa giải quyết, mà vì quá nhu nhược
trước mặt Trung Quốc, đảng CSVN ký liền hai hiệp ước, làm mất đất đai
do tổ tiên dày công xây dựng.
Lễ ăn mừng hoàn thành cốt móc nhượng đất
Như
thế, vì tham vọng quyền lực, vì muốn duy trì sự lãnh đạo của đảng CSVN,
nên CSVN chạy theo cầu cạnh Trung Quốc, phục vụ quyền lợi Trung Quốc,
nhượng đất cho Trung Quốc và phạm tội phản quốc. Nói ngắn ngọn: Đi với
Trung Quốc nên phản quốc. Chuyện Tam sa ngày 2/12/2007 chỉ là diễn biến
mới trong câu chuyện phản quốc của CSVN. Câu chuyện này chắc chắn sẽ
chưa kết thúc nếu CSVN cứ tiếp tục cầm quyền tại Việt Nam.
3.- Dẹp phản quốc để chống Trung Quốc
Trung
Quốc là một trong những đại nạn của lịch sử Việt Nam. Đại nạn này càng
gia trọng khi những kẻ phản quốc cầm quyền, luôn luôn manh tâm bán đứng
đất nước để mưu đồ quỵền lực và quyền lợi riêng tư. Hãy trở lui với phản
ứng của nhà cầm quyền CSVN đối với vụ Tam Sa.
Có ba điều cần nhấn mạnh:
1)
Trong sinh họat dân chủ, cấp cao nhất là Quốc hội. Việc Tam Sa do Quốc
hội Trung Quốc quyết định. Vậy cấp cao hơn là ai? Phải chăng là Bộ Chính
trị đảng CSTH? Bộ Chính trị đảng CSTH cũng nằm trong Quốc hội và điều
khiển Quốc hội, thì còn ai cao hơn?
2)
Đúng là lịch sử Việt Nam có đủ bằng chứng rằng các đảo Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, TRUNG QUỐC nói rằng
họ cũng có đủ bằng chứng cho thấy Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, và đảng
CSVN đã nhượng các vùng đất và biển này cho Trung Quốc. Đảng CSVN trả
lời sao đây? Đối với người Việt Nam, những bằng chứng này là bằng chứng
PHẢN QUỐC của đảng CSVN.
3) Nói đến
công ước Liên Hiệp Quốc, thì hiện nay, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam vừa mới giữ ghế không thường trực hai năm trong Hội đồng Bảo an Liên
Hiệp Quốc. Giải quyết những vụ tranh chấp, xâm lăng lãnh thổ giữa các
nước trên thế giới, nằm trong chức năng của HĐBALHQ. Việt Nam đang ngồi
trong Hội đồng mà không dám đưa vấn đề ra Hội đồng. Việt Nam cũng không
đưa ra kiện tụng ở Tòa án Quốc tế đặt tại Den Haag (The Hague) (Hòa
Lan). Thế thì nói công ước quốc tế làm gì?
“Giặc
đến nhà đàn bà cũng đánh”. Thế mà CSVN quá sợ Trung Quốc, nên không dám
đánh. Quân đội Nhân dân “anh hùng” của CSVN đứng bất động. Không lẽ
“anh hùng” Quân đội nhân dân chỉ là công cụ để CSVN đàn áp dân chúng,
giúp CSVN bán dần và bán rẻ đất đai của tổ tiên cho Trung Quốc?
Chúng
ta cần chú ý rằng nguồn gốc của vụ Tam Sa, hay của những hành động xâm
lăng ngang ngược của CSTH, chẳng những do bản chất hiếu chiến và xâm
lăng của tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh, mà còn bắt nguồn từ kẻ nội thù của
người Việt. Kẻ nội thù đó chính là đảng CSVN, kẻ đã thụ ơn Trung Quốc,
làm tay sai cho Trung Quốc, sợ sệt Trung Quốc, từ từ nhượng bộ Trung
Quốc hết điểm này đến điểm khác.
Trong
khi nhu nhược với Trung Quốc, CSVN hết sức độc tài ở trong nước. Cho
đến nay, vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam vẫn chưa có tự do chính trị, chưa
có tự do bầu cử, chưa có tự do báo chí, nghĩa là CSVN vẫn duy trì chế
độc độc tài. Ở trong nước càng độc tài, càng đàn áp, CSVN càng bị phản
đối từ nhiều phía, từ dân chúng trong nước, đến dư luận thế giới. Càng
bị phản đối, CSVN lại càng bám gót Trung Quốc để tiếp tục tồn tại. Càng
bám gót Trung Quốc, CSVN càng nhượng bộ, càng phản quốc.
Hồ
Chí Minh đã từng mượn biệt hiệu Áí Quốc của các nhà cách mạng yêu nước
chân chính để làm tên riêng, nhưng khi qua Liên Xô, lãnh lương của ĐTQT,
lãnh sứ mạng phát triển cộng sản xuống Đông Nam Á, đưa chủ nghĩa
Mác-xít về làm hại đất nước, Ái Quốc trở thành phản quốc.
Học
trò của Hồ Chí Minh trong đảng CSVN tiếp tục sách lược của ông, làm tay
sai cho Trung Quốc, tiếp tục phản quốc. Vì vậy, muốn chống Trung Quốc
hữu hiệu, trước tiên phải dẹp bỏ phản quốc. Chỉ khi nào kẻ phản quốc
không còn, thì mới chấm dứt tình trạng nhượng bộ đất đai, mới có thể nói
chuyện tập hợp tổng lực toàn dân, chống Tung Quốc một cách hữu hiệu,
như trước kia nhà Lý, nhà Trần đã làm.
Trần Gia Phụng
No comments:
Post a Comment