HARSH V. PANT - New Delhi coi Hà Nội là đối trọng với Bắc Kinh, cũng như Bắc Kinh coi Islamabad [là đối trọng của New Delhi].
Ấn
Độ là nước mới nhất bị cuốn hút vào tranh chấp Biển Đông. Trước đó
trong tháng này, Bắc Kinh tuyên bố với New Delhi rằng hãng dầu khí thuộc
sở hữu nhà nước Ấn Độ cần phải được phép của Trung Quốc, thì mới được
thăm dò dầu khí tại hai lô của Việt Nam ở vùng biển này. Hành động đó
diễn ra tiếp theo những thông tin về vụ một tàu Trung Quốc chặn một tàu
khu trục nhỏ của Hải quân Ấn Độ ở ngoài khơi Việt Nam hồi cuối tháng 7.
Việt
Nam nhanh chóng viện dẫn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982
để tuyên bố chủ quyền của mình đối với hai lô được đề cập. Hà Nội đã đấu
khẩu với Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông trong năm qua, nên một phản ứng
như vậy cũng dễ hiểu.
Chiến đấu cơ SU 30 của Không quân Ấn Độ
Điều
mới lạ ở đây là New Delhi không chấp nhận sự hiếu chiến của Trung Quốc ở
khu vực đó. Ngay lập tức, nước này quyết định ủng hộ các tuyên bố của
Hà Nội. Tuần trước, Ngoại trưởng Ấn Độ S.M. Krishna đã tới thăm Việt Nam
và tuyên bố rõ ràng rằng, tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước Ấn Độ sẽ tiếp
tục thăm dò ở Biển Đông. Sự phô trương sức mạnh giúp Ấn Độ tăng cường
các mối quan hệ với Việt Nam. Nếu Trung Quốc muốn mở rộng sự hiện diện ở
Nam Á và khu vực Ấn Độ Dương, thì theo nhận định của New Delhi, nước
này cũng có thể làm điều tương tự ở Đông Á.
Mấu
chốt của sự dịch chuyển hướng về phía đông đó sẽ là Việt Nam. Hà Nội đã
trải qua một cuộc chiến ngắn ngủi với Bắc Kinh năm 1979 và thận trọng
trước những ảnh hưởng về quân sự, kinh tế ngày càng gia tăng của Trung
Quốc. Đó là lý do ở một số nơi thuộc New Delhi, Việt Nam đã được coi là
đối trọng [với Trung Quốc], cũng như Trung Quốc xem Pakistan là đối
trọng với [Ấn Độ].
Như
vậy không phải để nói rằng các mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Ấn
Độ sẽ không tồn tại về mặt khác. Người Việt Nam xưa nay rất tôn trọng
người Ấn Độ, vì đã được Ấn Độ trợ giúp cho công cuộc giành độc lập từ
Pháp và phản đối sự dính líu của Mỹ ở nước mình. Và New Delhi đã công
thức hóa một chính sách có tên “Hướng Đông” ngay từ năm 1991, để tận
dụng sự phát triển kinh tế của Đông Á. Nhưng sự lớn mạnh của Trung Quốc
đã mang lại cho mối quan hệ này một tầm cỡ chiến lược to lớn – chưa cần
nói đến tính khẩn cấp.
Cả
hai bên đều nhận ra rằng, một mối quan hệ song phương tốt đẹp hơn khởi
đầu với các quan hệ kinh tế. Hai nước đã ký một thỏa thuận năm 2003,
theo đó họ hình dung tạo ra một “Cung của Thuận lợi và Thịnh vượng” ở
Đông Nam Á. Vì vậy, họ đã thúc đẩy phát triển thương mại, đặc biệt là
sau khi New Delhi ký một thỏa thuận thương mại tự do với Hiệp hội Các
quốc gia Đông Nam Á năm 2009. Khối lượng mậu dịch song phương hiện nay
đã vượt trên 2 tỷ USD.
Cả
hai bên vẫn có thể làm nhiều hơn nữa để mở rộng sự hợp tác kinh tế.
Thương mại song phương vẫn còn thấp hơn nhiều so với tiềm năng, ngay cả
khi Ấn Độ và Việt Nam là các nền kinh tế mới nổi chính. Hai nước cũng
cần phải tư duy một cách sáng tạo về việc mở rộng các cơ hội đầu tư, đặc
biệt là về năng lượng, thép, và dược phẩm. Điều này có thể được thực
hiện bằng cách thiết lập các cơ chế tổ chức mạnh mẽ hơn để thường xuyên
đánh giá mối quan hệ kinh tế và thực hiện các bước đi để mở rộng mối
quan hệ ấy.
Thế
nhưng, lợi ích lâu dài của New Delhi ở Việt Nam hiện nay đang nằm trong
lĩnh vực quốc phòng. Nước này muốn xây dựng các mối quan hệ với những
nước như Việt Nam vốn có thể hành động như những điểm áp lực nhằm vào
Trung Quốc. Với ý nghĩ đó trong đầu, Ấn Độ đang giúp Hà Nội tăng cường
các năng lực về không quân và hải quân.
Vì
Việt Nam và Ấn Độ đang dùng các nền tảng phòng thủ Xô Viết cũ và tương
tự của Nga, New Delhi có thể dễ dàng cung cấp các công nghệ quốc phòng
cho Hà Nội. Các cuộc hội đàm đang diễn ra để Ấn Độ bán tên lửa hành
trình siêu thanh BrahMos, một sản phẩm chung Nga-Ấn. Những vũ khí như
vậy cho phép Việt Nam phóng sức mạnh ra khu vực và cải thiện năng lực
ngăn chặn trước Trung Quốc.
Hai
nước cũng có lợi ích trong việc đảm bảo an ninh đường biển, đồng thời
chia sẻ những quan ngại về sự tiếp cận của Trung Quốc với Ấn Độ Dương và
Biển Đông. Vì lý do đó, Ấn Độ đang giúp Việt Nam xây dựng năng lực về
sửa chữa và bảo dưỡng các nền tảng phòng thủ. Cùng lúc đó, các lực lượng
vũ trang của hai nước bắt đầu hợp tác ở các lĩnh vực như công nghệ
thông tin và đào tạo tiếng Anh cho binh lính Việt Nam. Hai bên cũng đang
chia sẻ kinh nghiệm về chiến tranh ở núi rừng.
Sự
hợp tác hải quân, tuy nhiên, là trọng tâm. Ở đây, Việt Nam đã cho Ấn Độ
quyền dùng cảng Nha Trang ở miền nam nước này; Hải quân Ấn Độ đã có một
chuyến ghé thăm. Hiện chưa rõ ràng sự sắp đặt cuối cùng sẽ như thế nào,
nhưng chủ nghĩa tượng trưng của nó không phải là không gây tác động đến
Trung Quốc.
Hai
nước tiềm năng có chung một người bạn – Mỹ. New Delhi đã đều đặn xây
dựng các mối quan hệ với Washington trong thập niên qua, trong khi Việt
Nam đang tranh thủ Mỹ khi Biển Đông trở thành điểm nóng. Vì cả ba nước
đang cân nhắc cách kiểm soát sự trỗi dậy của Trung Quốc, họ sẽ xích lại
gần với nhau hơn.
Bằng
cách lên án Ấn Độ vì các mối quan hệ của nước này với Việt Nam, Trung
Quốc đã chứng tỏ rằng nước này sẽ cố gắng ngăn cản các đối thủ chiến
lược cộng tác với nhau chống lại mình. Nhưng nếu cả Ấn Độ và Việt Nam
giữ nguyên thái độ, họ có thể buộc Bắc Kinh phải giảm bớt các tuyên bố
bành trướng trên Biển Đông và chấp nhận một lập trường hòa giải hơn đối
với các vấn đề khác trong khu vực.
Ông Pant là giáo sư về nghiên cứu quốc phòng ở trường King’s College, London.
Trúc An dịch từ the Wall Street Journal
Nguồn: Blog Ba Sàm
No comments:
Post a Comment