Trịnh Xuân Tín - Trong khi Vietnamnet từ chối đăng bài báo của Vũ Cao Đàm, thì ngay sau khi bài được đăng trên Bauxite Vietnam (4/8/2011), ngày 8/8/2011 Vietnamnet đã đăng bài của tác giả Phạm Văn Hội, giảng viên Đại học Nông nghiệp Hà Nội bênh vực Giáo sư Võ Tòng Xuân về quan điểm phải “cảm ơn thương nhân Trung Quốc”.
Bài báo nêu hai ý quan trọng:
Thứ nhất, bài báo của Vũ Cao Đàm thể hiện một sự lo lắng thái quá về một hàm ý chính trị của Trung Quốc.
Thứ hai, bài báo của Vũ Cao Đàm không đủ căn cứ để nêu lên cái hàm ý chính trị đó.
Tuy nhiên, bài báo của tác giả Phạm Văn Hội đã đăng một bức ảnh của báo Dân Việt với lời chú “Nếu thương lái TQ ngừng mua khoai, người dân Vĩnh Long sẽ khốn đốn”.
Bức
ảnh với lời chú này hoàn toàn đủ sử dụng làm căn cứ đầy sức thuyết phục
để bổ sung thêm căn cứ cho bài viết của tác giả Vũ Cao Đàm: Với chính
sách thu mua khoai với giá hời như hiện nay, Trung Quốc sẽ thành công
trong việc xúi giục nông dân Việt Nam phá lúa trồng khoai, Việt Nam sẽ
chết trên thị trường xuất khẩu gạo. Khi đó Trung Quốc mới đột ngột chấm
dứt các hợp đồng thu mua khoai, và nông dân Việt Nam sẽ điêu đứng, như
đã từng điêu đứng trong nhiều thương vụ nông sản khác,
Thưa ông Phạm Văn Hội và Vietnamnet, chúng ta không thể mất cảnh giác đến như vậy trước những mưu ma chước quỷ của thương lái Trung Quốc.
Nhà
nước đã bỏ cả ngàn tỷ để nâng đỡ các tập đoàn công nghiệp quốc doanh
trên bờ phá sản, như kiểu Vinashin. Vậy, chúng tôi thiết nghĩ, Nhà nước
nên bỏ số tiền đó để cứu hiểm họa nền kinh tế bị triệt phá trước bàn tay
thâm độc bọn đế quốc Trung Cộng.
T.X.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
–––––––––––––––
Để rộng đường dư luận, BVN xin đăng toàn văn bài viết của ông Phạm Văn Hội trên Vietnamnet.
Trung Quốc trồng khoai ở ta: Lo lắng thái quá
Phạm Văn Hội (*)
(VEF.VN) – Việc mở rộng sản xuất khoai lang ở Vĩnh Long mới đây hàm chứa ít “rủi ro” nhất trong số các đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam, trong chừng mực mà các chính sách và thực thi chính sách của Việt Nam đảm bảo rằng quyền lợi của người nông dân và tài nguyên của ta không bị lợi dụng và xuyên tạc.
LTS:
Hầu hết các bài viết đều bày tỏ mối lo ngại về việc Trung Quốc sang
trồng khoai lang tại tỉnh Vĩnh Long – Việt Nam. Nhưng, ở góc nhìn thị
trường, tác giả Phạm Văn Hội cho rằng đó là chuyện bình thường, giống
như Việt Nam sang Campuchia thuê đất trồng lúa. Hay nói như GS Võ Tòng
Xuân, ở một khía cạnh nào đó, Việt Nam nên cảm ơn những thương nhân
Trung Quốc.
Để
có cái nhìn đa chiều về hiện tượng này, Diễn đàn Kinh tế Việt Nam – báo
VietNamNet giới thiệu bài viết dưới đây. Mời độc giả cùng theo dõi và
tham gia tranh luận. Mọi ý kiến xin gửi về: vef@vietnamnet.vn hoặc phần thảo luận phía dưới.
Khi thị trường bị xuyên tạc
Các
mối quan hệ thị trường thường phức tạp hơn là những định nghĩa thị
trường thuần túy của các nhà kinh tế học. Bởi quan hệ cung cầu thường
thì không chỉ đơn thuần chịu chi phối của khả năng cung cấp hàng hóa,
nhu cầu tiêu thụ hàng hóa mà còn của các yếu tố kinh tế, xã hội, môi
trường và thậm chí chính trị.
Thiếu
vắng tác động của các yếu tố “phi” thị trường này sẽ phá hủy chính thị
trường, bởi những mong muốn lợi nhuận thuần túy sẽ gây bất ổn (tình
trạng cá lớn nuốt cá bé, tư thương chèn ép người sản xuất, móc túi người
tiêu dùng, sử dụng hoá chất độc hại, v.v.), phá hủy môi trường (môi
trường và tài nguyên bị khai thác theo kiểu “cha chung không ai khóc”),
và cuối cùng là những trì trệ gây nên nền kinh tế và những khủng hoảng
khác.
Tuy nhiên, một khi bị chi phối quá lớn bởi các yếu tố “phi” thị trường này, thì thị trường khi đó được gọi là bị xuyên tạc (distorted market).
Bởi vậy, sau khủng khoảng tài chính thế giới năm 2009, nhiều học giả Âu
– Mỹ đã kêu gọi sự can thiệp nhiều hơn của nhà nước, ví dụ và hệ thống
ngân hàng – hệ thống mà hầu hết do các tập đoàn (tư nhân) kiểm soát và
vận hành hiệu quả trong suốt thời gian dài ở các quốc gia dân chủ và
giàu có này.
Nhưng,
xác định mức độ, quy mô, và cách tiếp cận can thiệp hợp lý sẽ cần những
chuyên gia giỏi, chính sách mềm dẻo của nhà nước, và hệ thống thông tin
tự do.
Mới đây, xuất hiện những mối quan hệ thị trường mới của Trung Quốc đối với sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, cụ thể là việc tư nhân Trung Quốc đầu tư sản xuất (và bao tiêu sản phẩm) khoai lang ở Vĩnh Long.
Nếu thương lái TQ ngừng mua khoai, người dân Vĩnh Long
sẽ khốn đốn (Ảnh: Dân Việt)
|
Về vấn đề này, hiện có 2 luồng ý kiến trái chiều:
(1)
Coi đây là quan hệ thị trường có ảnh hưởng tích cực đối với đời sống
của nông dân Nam Bộ (ví dụ bài: “Chúng ta nên cảm ơn thương nhân Trung
Quốc” của GS Võ Tòng Xuân).
(2)
Đây không chỉ là quan hệ thị trường thuần túy mà nó hàm chứa các mục
tiêu chính trị (ví dụ bài: “Vài lời với Giáo sư Võ Tòng Xuân và bà con
nông dân” của TS Vũ Cao Đàm).
Trong
quan hệ thị trường, đặc biệt là thị trường nông sản, người thiệt thòi
nhất là người nông dân, nhất là những người nông dân nhỏ (small-scale farmers), sản xuất cá thể và thiếu tổ chức như ở Việt Nam.
Bởi
vậy, họ xứng đáng nhận được lời cảm ơn hơn là các tư thương (kể cả tư
thương Việt Nam hoặc Trung Quốc). Tuy nhiên, sự xuất hiện của các tư
thương Trung Quốc mới đây ở Vĩnh Long không những mang lại thu nhập
(thực tế) cao hơn và những hứa hẹn cho người dân Vĩnh Long, mà còn có
thể làm thay đổi cấu trúc ngành sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Long nói
riêng và ĐBSCL nói chung.
Sự
lo lắng của TS. Vũ Cao Đàm về những hàm ý chính trị có thể có trong thị
trường mới nảy sinh này có lẽ chưa đủ căn cứ. Trong nhiều năm trở lại
đây, Trung Quốc tăng cường đầu tư mạnh vào lĩnh vực nhiêu liệu tái tạo,
bao gồm cả nhiên liệu sinh học, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội, cũng như chiến lược an toàn nhiêu liệu của Trung Quốc. Đối với
nhiên liệu sinh học, Trung Quốc đã chính thức cấm sử dụng ngũ cốc (chủ
yếu là ngô) vào năm 2008. Hiện tại, sắn được sử dụng nhiều nhất cho việc
sản xuất cồn sinh học ở quốc gia này (tương tự Việt Nam).
Tuy
nhiên, các nghiên cứu ở Trung Quốc đã cho thấy rằng chính khoai lang
mới là đầu vào cho hiệu quả sản xuất cồn sinh học cao hơn các sản phẩm
nông nghiệp khác như sắn, ngô, mía đường (Cheng Zhong et al., “Biofuels
in China: past, present and future”, Society of Chemical Industry and
John Wiley&Sons, Ltd., 2010). Đây có lẽ là câu trả lời đối với việc
mở rộng sản xuất khoai lang của tư nhân Trung Quốc ở Vĩnh Long. Tuy
nhiên, để có câu trả lời chính xác sẽ cần dựa vào điều tra của các đại
diện thương mại của Việt Nam ở Trung Quốc.
Sự
xuất hiện của các tư thương Trung Quốc, ở góc độ thị trường thuần túy,
cũng giống như sự xuất hiện của tư thương Việt Nam ở các nước Lào,
Campuchia, hoặc Senegal, v.v. Việc áp hoặc nghi ngờ các mục tiêu chính
trị hàm chứa trong các quan hệ thị trường thiếu căn cứ xác đáng sẽ là
không công bằng đối với tư thương Trung Quốc, mà còn có thể kéo theo
những hệ lụy cho tư thương Việt Nam trong những cố gắng mở rộng đầu tư
ra nước ngoài.
Động lực để Việt Nam thay đổi
Dù
là vựa lúa, đóng góp phần lớn vào gạo xuất khẩu của Việt Nam, nông dân
ĐBSCL có lẽ đã không thực sự được hưởng lợi công bằng trong hơn 20 năm
qua. Khi mà việc xuất khẩu lúa gạo do Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA)
chi phối và trong nhiều trường hợp, VFA chấp nhận xuất khẩu gạo thấp
hơn giá thị trường thế giới. Người dân ĐBSCL đã buộc phải bán sản phẩm
cho VFA với giá có lẽ là thấp hơn so với giá bán mà họ có thể nhận được
nếu “luật chơi của VFA sòng phẳng và minh bạch hơn”.
Mới
đây, quyết định của chính phủ về đảm bảo giá lúa gạo cho người dân cũng
đã không thực sự mang lại cho người dân ĐBSCL thu nhập tốt hơn như kỳ
vọng của họ cũng như thiện chí của chính phủ.
Sự
xuất hiện của tư nhân Trung Quốc ở ĐBSCL, bởi vậy không chỉ dẫn đến
những thay đổi trong cấu trúc ngành nông nghiệp ở ĐBSCL mà còn khởi tạo
những thay đổi trong quan hệ giữa VFA và người nông dân – quan hệ mà
trong rất nhiều năm qua đã chứng minh là thiếu công bằng với người nông
dân.
Một
khi thu nhập của người dân trồng khoai lang cao hơn, họ sẽ bỏ lúa
chuyển sang trồng khoai lang ở bất cứ nơi nào mà điều kiện cho phép. Đây
là xu hướng chủ đạo của thị trường tự do.
Tất
nhiên, khi giá khoai lang tăng (do nhu cầu sản xuất nhiên liệu sinh học
tăng), giá các loại lương thực khác cũng sẽ tăng, bao gồm cả lúa gạo.
Sân chơi cho VFA vẫn duy trì rộng lớn trừ khi người dân ĐBSCL vẫn tiếp
tục bị thiệt thòi trong mối quan hệ “lúa gạo” với VFA như đã thấy. VFA,
bởi vậy, buộc phải có những điều chỉnh về chính sách trong quan hệ với
người nông dân để mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội tốt hơn cho người
dân, hơn là những cố gắng lobby để có các công cụ chính sách ép người
dân phải gắn chặt vào mối quan hệ về “lúa gạo” đã và đang hiện hữu.
Ý
kiến cho rằng đến một lúc nào đó, nền sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL sẽ sụp
đổ, thị trường khoai lang bị đình trệ do tư thương Trung Quốc chấm dứt
mua sản phẩm có lẽ cũng thiếu căn cứ.
Thực
tế thì bất cứ đầu tư nào cũng bao hàm những rủi do, chỉ khác nhau về
mức độ và quy mô mà thôi. Khoai lang là cây trồng hàng năm, chu kỳ vụ
ngắn (khoảng 3 tháng/vụ), việc chuyển sang trồng khoai lang cũng không
dẫn đến những tổn thương lớn cho cấu trúc đất (so với nguyên bản trồng
lúa), đến những thay đổi trong cấu trúc xã hội của địa phương, quan hệ
giữa người dân với đất, cũng như kinh nghiệm và kỹ năng trồng trọt của
người dân, v.v.
Bởi
vậy, nếu thực sự có viễn cảnh rằng tư thương Trung Quốc dừng mua khoai
lang, khả năng quay trở lại sản xuất lúa là hoàn toàn có thể trong điều
kiện của người dân. Bên cạnh đó, khoai lang là cây lương thực, hiện được
sử dụng đa mục đích (chế biến snacks, thức ăn gia súc, nhiên liệu,
v.v.) với nhu cầu được dự báo là ngày càng tăng.
Khác
với việc phá lúa trồng đay, thu mua râu ngô, hoặc móng trâu (như được
nói đã từng xảy ra trước đây), việc mở rộng sản xuất khoai lang của tư
thương Trung Quốc ở Vĩnh Long mới đây là một trong số những đầu tư hàm
chứa ít “rủi ro” nhất trong số các đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam,
trong chừng mực mà các chính sách và thực thi chính sách của Việt Nam
đảm bảo rằng quyền lợi của người nông dân và tài nguyên của Việt Nam
không bị lợi dụng và xuyên tạc.
P.V.H.
(*) Tác giả công tác tại Đại học Nông nghiệp Hà NộiNguồn: http://vef.vn/2011-08-07-tq-trong-khoai-o-ta-goc-nhin-tich-cuc
No comments:
Post a Comment