Khi sang Trung Quốc ngày 25-06-2011, Thứ trưởng ngoại giao Việt Cộng Hồ Xuân Sơn đã gặp không chỉ Trương Chí Quân,
người tương nhiệm, mà cả Đới Bỉnh Quốc, Trưởng ban Đối ngoại Tàu cộng,
một trong 5 ủy viên Quốc vụ viện nước này, nhân vật có quyền lực cao
nhất trong ngành ngoại giao Bắc Kinh, vì đứng trên cả Ngoại trưởng Dương
Khiết Trì nữa. Hành động trái với thủ tục như thế tất nhiên không phải
để bàn bạc tay đôi, mà là để bái yết, để nghe chỉ thị, y như bao cuộc
triều kiến Bắc phương của hàng lãnh đạo Việt từ vụ khấu đầu tái phục tại
Thành Đô, Tứ Xuyên, tháng 09 năm 1990.
Thành
ra chẳng lạ gì mà sau đó nội dung “đàm phán song phương” -do phát ngôn
nhân bộ ngoại giao Tàu cộng công bố- đã gây thắc mắc phẫn nộ cho toàn
thể dân Việt, vì gồm ba chữ “đồng”: 1- Đồng thỏa thuận về những nguyên
tắc cơ bản giữa VN và TQ để giải quyết những tranh chấp trên Biển giữa
hai quốc gia, không cho nước ngoài (hiểu ngầm là Hoa Kỳ) can thiệp; b-
Đồng tuyên bố Hoàng Sa-Trường Sa và các vùng biển vây quanh thuộc chủ
quyền TQ, như TQ đã luôn khẳng định và Công hàm 1958 của VN từng thừa
nhận; c- Đồng hướng dẫn công luận và ngăn chặn những bình phẩm hoặc hành
động làm tổn hại tới tình hữu nghị và mối tin cậy giữa nhân dân hai
nước. Nội dung “đàm phán” lạ đời này một lần nữa làm lộ bộ mặt thật của
cộng đảng Việt, và người ta đã thấy ngay tất cả sự áp dụng của cam kết
khiếp nhược, đồng lõa đó.
Trước
tiên, ngày 02-07-2011, 18 nhà trí thức trong nước đã yêu cầu bộ Ngoại
giao cho biết thông tin do Hồng Lỗi đưa ra có đúng sự thật chăng, trình
bày rõ quan điểm của VN về bức công hàm Phạm Văn Đồng, và thông báo toàn
văn thỏa thuận đã đạt được giữa đại diện hai nước trong cuộc “đàm
phán”. Thế nhưng Bộ Ngoại giao Việt cộng đã tìm mọi cách làm cho cuộc
gặp gỡ với nhóm trí thức ấy sáng ngày 13-07-2011 bất thành để khỏi giải
thích hay tranh biện. Đây là gáo nước lạnh dội trên đầu nhân dân, cú bĩu
môi khinh thường ném vào mặt kẻ sĩ. Rõ ràng nó che giấu một hành vi ám
muội và tùy tiện (như đảng từng tùy tiện và ám muội trong vụ 2 hiệp định
lãnh thổ và lãnh hải năm 1999 và 2000), nó tránh né những vấn đề quan
trọng liên hệ đến Đất nước Dân tộc đang làm cho Quốc dân thấp thỏm, nhất
là vấn đề mang tính thời sự: ý nghĩa công hàm Phạm Văn Đồng, vốn luôn
được Tàu cộng dùng để bắt bí Việt cộng, dù rất nhiều chuyên gia luật và
sử cho rằng nó vô cùng phi pháp và phi lý. Để lấp liếm, đảng bày trò
khác. Một tuần sau, ngày 20-07-2011, lần đầu tiên dân Việt được đọc một
bài báo “chính thống” bàn về văn kiện lịch sử này. Đó là bài “Công hàm
1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam” của “Nhóm Phóng
viên Biển Đông” đăng trên tờ Đại Đoàn Kết thuộc Mặt trận Tổ quốc, cơ
quan ngoại vi của đảng. Nhưng với hình thức một bình luận (thay vì tuyên
bố), với tư cách bất chính thức của một tờ báo Mặt trận (thay vì thủ
tướng, ngoại trưởng…), với những luận điệu loanh quanh (như Nguyễn Mạnh
Cầm hồi 1992), nào “vừa là đồng chí vừa là anh em”… nào “tranh
thủ sự ủng hộ và giúp đỡ”, nào “chỉ là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp”…,
bài viết không che giấu nổi quan điểm cố hữu của đảng: “đồng tuyên
bố Hoàng Sa-Trường Sa và các vùng biển vây quanh thuộc chủ quyền TQ, như
TQ đã luôn khẳng định và Công hàm 1958 của VN từng thừa nhận” (tựa lần đảng im lặng khi Tàu cộng chiếm Hoàng Sa năm 1974 và lần đảng bất động khi Tàu cộng chiếm Trường Sa năm 1988).
Đến
lượt nhân dân phản ứng thì không trình bày ý kiến cách văn vẻ như hàng
kẻ sĩ. Các chủ nhật tiếp sau cuộc gặp Trung-Việt (03-07, 10-07, 17-07
rồi 24-07), ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn, hàng trăm hàng
ngàn công dân đủ giai tầng (có lẽ ngoại trừ các lãnh đạo tinh thần –
không muốn nhúng vào thế sự chăng? và các lãnh đạo chính trị – không dám
hành động khi chưa được phép đảng!) đã xuống đường, giăng cao biểu ngữ,
hô to khẩu hiệu, khoác áo in chữ phản đối Đại Hán gây hấn xâm lược.
Nhưng vì lời hứa với Tàu cộng: “đồng hướng dẫn công luận và ngăn chặn những bình phẩm hoặc hành động làm tổn hại tới tình hữu nghị và mối tin cậy”
Trung-Việt, nên cử chỉ yêu nước hết sức chính đáng và quý báu đó (mà
bất cứ nhà cầm quyền nào trên thế giới và trong lịch sử đều trân trọng
và vui mừng đón nhận) đã bị ngăn chận cách quyết liệt thô bạo (ở Sài Gòn
và nhiều tỉnh) hay đàn áp cách hung tợn dã man (ở Hà Nội) bởi công an,
dân quân, thanh niên tự quản, đoàn thanh niên CS, côn đồ lưu manh thuê
mướn, những công cụ tàn ác và tay sai mù quáng của cái thế lực luôn coi
nhân dân hoặc như kẻ thù (để triệt hạ) hoặc như nô lệ (để bóc lột). Hành
vi thường xuyên chửi rủa, đánh đập, bỏ tù những người ái quốc (đặc biệt
kể từ các cuộc biểu tình chống Tàu cộng năm 2007-2008) lần này gia tăng
cường độ bằng cách đạp thẳng vào mặt công dân yêu nước, (dù công dân
này cũng đang yêu đảng, tin đảng), không hề là chuyện tình cờ, không hề
là chuyện “trên đúng dưới sai”, không hề là chuyện “bản chất khác với
hiện tượng”. Tay công an cho anh Trí Đức ăn “bánh giày” trong cuộc biểu
tình ngày 17-07-2011 chỉ là một tên côn đồ làm theo lệnh của những kẻ
chỉ đạo y từ trụ sở công an quận Hoàn Kiếm và xa hơn từ trụ sở Ba Đình
của Bộ Chính trị. Việc này tiếp nối cả một truyền thống dài, bắt đầu từ
cuộc Cải cách ruộng đất, khi Hồ Chí Minh cho những tên đầu trộm đuôi
cướp, dốt nát thấp kém, đầy tớ bất mãn ngồi làm chủ tọa các tòa án nhân
dân, với quyền sinh sát tuyệt đối, để vừa giết các nhân sĩ uy tín, vừa
giết các nông dân tài giỏi, vừa giết những ai có tiềm năng làm tổn hại
đảng. Tất cả đều là dấu chứng cho thấy đảng Việt cộng là phường phản
nước hại dân như nhiều công dân đã nêu trong bản cáo trạng đanh thép và
chi tiết công bố ngày 21-12-2010.
Cũng để “hướng dẫn công luận và ngăn chặn những bình phẩm hoặc hành động làm tổn hại tới tình hữu nghị và mối tin cậy giữa hai nước”,
đảng đã ra lệnh cho tân Quốc hội khóa 13 thoát thai từ cuộc “đảng cử
dân bầu” phải hoàn toàn im lặng. Thành thử qua 8 cuộc biểu tình, chưa
bao giờ thấy một thành viên Quốc hội nào xuống đường bày tỏ tấm lòng yêu
nước chống giặc với nhân dân, ngay cả khi họ đã tụ tập tại Hà Nội để
bắt đầu nhóm họp (từ 21-07-2011). Rồi họp chỉ để được nghe (chứ không
được chất vấn) đảng trình bày vấn đề Biển Đông. Lời của nhân dân và trí
thức đề nghị Quốc hội ra nghị quyết về vấn đề này chưa tỏ ra có dấu hiệu
gì để hy vọng. Không khéo lại đi ngược lòng dân, y như “cơ quan bất
lực” ấy đã mau mắn thông qua hai hiệp định lãnh thổ và lãnh hải dâng đất
và nhượng biển năm nào. Cuộc bầu chọn 3 chức vụ quan trọng nhất của
Quốc gia: thủ tướng, chủ tịch nước, chủ tịch Quốc hội vẫn chỉ thể hiện ý
muốn của 2 đảng đang liên kết sinh mệnh cùng nhau, đưa lên những kẻ vô
tài bất tướng, chỉ giỏi thần phục Tàu cộng. Cả một dàn báo chí cũng được
lệnh im lặng trước các cuộc biểu tình. Cả những tấm bia vạch tội quân
Tàu như tại đầu cầu Khánh Khê (Lạng Sơn), tại đền thờ vua Quang
Trung trên núi Dũng Quyết ở thành phố Vinh (Nghệ An), cũng phải bị đục
bỏ.
Vẫn
nằm trong đường hướng này là việc đảng tiếp tục trừng phạt những ai
từng lên tiếng đòi hỏi chủ quyền đất nước trên các quần đảo Hoàng Trường
Sa, cảnh báo về hiểm họa Tàu cộng xâm lược: như ký giả Nguyễn Văn Hải
(Điếu Cày) tiếp tục bị giam giữ sau khi đã mãn án và nay thì hoàn toàn
biệt vô âm tín (có tin bị tàn hại thân thể); như linh mục Nguyễn Văn Lý,
sau thời gian được tại ngoại chữa bệnh, đã bị đưa vào tù trở lại dù sức
khỏe chưa hồi phục; như luật gia Cù Huy Hà Vũ sẽ bị phúc thẩm ngày
02-08 với không chút hy vọng được hoàn trả công lý; như giáo sư Phạm
Minh Hoàng sẽ ra tòa ngày 10-08 tới với những tội danh mơ hồ và áp đặt.
Đảng Việt cộng, tên đầy tớ của đảng Tàu cộng, quyết coi tất cả những
người yêu nước ấy (và nhiều công dân khác đang bị cầm tù, như Phạm Thanh
Nghiên, Vũ Hùng, Nguyễn Xuân Nghĩa…) đều là những kẻ thù nguy hiểm cần
phải triệt hạ và trừng trị.
Trong
khi đó, kẻ thù truyền kiếp của Đất nước được ung dung tiếp tục đẩy nguy
cơ diệt vong của Dân tộc đến gần (để đảng được trường tồn) qua vô số
hành động ngang ngược khắp đất Việt. Nào là vào Tây Nguyên khai thác
bauxite, gây nguy hiểm cho an ninh quốc phòng, văn hóa và cuộc sống đồng
bào thiểu số, sinh mệnh dân chúng bình nguyên Nam bộ. Nào là thiết lập
nhiều làng mạc, phố thị, bãi biển Tàu từ Nam chí Bắc, tạo ra vô số tô
giới, lãnh địa, khu ém quân bất khả xâm nhập giữa lòng đất Việt; nào là
thắng thầu 90 % các dự án trọng điểm quốc gia, để sau đó thực hiện cách
gian dối, khiến nền kinh tế và công nghiệp Đất nước bị thao túng lũng
đoạn, công ăn việc làm của dân lao động bị chiếm đoạt; nào là tung vào
thị trường VN vô số sản phẩm văn hóa, ẩm thực, gia dụng giả dổm và độc
hại (kể cả sách giáo khoa giới thiệu Đường lưỡi bò), giết chết bao ngành
sản xuất của Dân chúng và hủy hoại dần sinh khí lẫn tinh thần Dân tộc;
nào là sách nhiễu hành hung dân lành, thậm chí lường gạt cưỡng hiếp
thiếu nữ VN sống gần các khu vực các công nhân hay công dân Tàu (để gieo
giống Chệt); nào là thuê được hàng trăm ngàn hecta rừng đầu nguồn hay
rừng quốc phòng với giá rẻ mạt trong nửa thế kỷ, khiến an ninh đất nước
và an sinh quốc dân bị đe dọa; nào là tự tiện vạch đường lưỡi bò ở Biển
Đông, cho đủ loại tàu quân sự trá hình ngang dọc để chiếm cứ nguồn
khoáng sản và hải sản đất nước, khiến sinh kế và sinh mạng ngư dân lâm
nguy, nguồn dinh dưỡng và nguồn nguyên liệu của đất nước cạn kiệt.
Thế
nhưng, đang khi các nước lân bang phản ứng mạnh mẽ trước cuộc xâm lăng
nhiều mặt của Tàu cộng như thế, đảng và nhà cầm quyền Việt cộng vẫn khư
khư và mù quáng ôm lấy “16 chữ vàng”, “4 chữ tốt”, chỉ phản ứng một cách
chiếu lệ, khiếp nhược, đấu võ mồm, lừa mỵ nhân dân, đồng lõa với kẻ
thù, phục vụ ý đồ xâm lược của Tàu cộng.
Tất
cả các sự kiện ấy không cho thấy cộng đảng Việt đã lộ nguyên hình, lòi
cả mặt ư? Cớ sao vẫn chỉ phản kháng giặc ngoài mà chẳng cảnh giác thù
trong? Cớ sao vẫn chỉ chống đối Trọng Thủy ngoại thù và chẳng thanh toán
Mỵ Châu nội gián ? Hay tệ hơn, cớ sao vẫn bình chân như vại, chỉ biết
đến sự yên ổn của bản thân, gia đình hay cộng đoàn mình? Đợi khi thằng
Việt cộng leo lên gắn ngôi sao vàng vào lá cờ 5 sao của thằng Tàu cộng
thì mới phản ứng chăng???
BAN BIÊN TẬP
No comments:
Post a Comment