Ngô Nhân Dụng - Một bản
tin trên blog của một những người yêu nước đã đăng “Dự báo thời tiết”
ngày Chủ Nhật 21 tháng 8 năm 2011: “Bão từ biển Đông kéo mây đen khắp Hà
Nội. Bão… xuất phát từ Trung Hoa lục địa.” Quả nhiên, bão đã tới. Có
thể nói, Đại Sứ Quán Trung Quốc ở Hà Nội đã hết kiên nhẫn, sau khi Trung
tướng Nguyễn Đức Nhanh – Giám đốc Công an Hà Nội – họp báo lỡ lời công
nhận những người biểu tình trong mười tuần lễ qua đều là những người yêu
nước!
Nói như vậy không khác gì xác nhận một sự thật: Người yêu nước
thì chống Trung Cộng. Cộng sản Trung Hoa chính là kẻ thù của nước Việt
Nam!
Không ai ngạc nhiên khi Đảng
Cộng sản Việt Nam cho “đàn chó săn” đi dẹp và bắt bớ những người yêu
nước biểu tình vào Chủ Nhật vừa qua. Điều đáng ngạc nhiên là tại sao đến
bây giờ, hơn 2 tháng rưỡi họ mới thẳng tay đàn áp. Không một chế độ độc
tài nào lại để cho một phong trào của dân chúng thành hình và lớn lên.
Không chế độ độc tài nào lại để cho một phong trào tự phát của nhân dân
được phát triển hết tuần này sang tuần khác. Họ phải rập tắt càng sớm
càng tốt. Phải mạnh tay đàn áp toàn diện và triệt để, nhổ cỏ phải nhổ
tận rễ. Ra lệnh công an bắt người là việc rất dễ dàng, hàng ngàn người
cũng dễ; tại sao họ để đến tuần lễ thứ 10 mới quyết định ra tay?
Dân
Hà Nội đã thử đưa ra các giả thuyết để giải thích tình trạng chậm chễ
này. Có thể vì tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn
Sang thấy chế độ vững như bàn thạch; không ngại gì lỏng tay cho dân được
thỏa mãn, rồi ra tay dẹp tan lúc nào cũng được? Hay là họ cũng biết
kính trọng tinh thần yêu nước của thanh niên, trí thức Hà Nội cho nên họ
không thẳng tay trị từ những ngày đầu? Hay là họ cũng muốn lợi dụng một
phong trào yêu nước của người dân, dung túng các cuộc biểu tình để
chính họ có lý do xin Trung Nam Hải và Đại Sứ Quán Trung Quốc đừng đòi
hỏi nhiều điều khắt khe, khó theo quá? Hay là trong Bộ Chính trị cũng có
những người muốn chống lại Bắc Kinh, do đó muốn để yên cho dân được
biểu tình?
Những giả thuyết đó đều có
thể đúng, nhưng không đáng tin lắm. Giả thuyết vững chắc nhất để giải
thích tình trạng chậm trễ trong việc đàn áp dân là: Họ sợ, sợ rất nhiều
thứ, cho nên không dám quyết định. Không ai muốn lãnh trách nhiệm đưa ra
quyết định đàn áp ngay sau cuộc biểu tình đầu tiên vào tháng Sáu.
Chắc
chắn ngay sau cuộc biểu tình đầu tiên, Đại Sứ Quán Trung Quốc đã yêu
cầu Câu lạc bộ Ba Đình phải ngăn cản, không cho phép dân biểu tình chửi
Trung Quốc công khai như vậy. Nhưng trong đám 15 người của Bộ Chính trị
không ai dám đề nghị cho công an đàn áp. Họ sợ lãnh trách nhiệm cá nhân.
Năm, ba năm nữa, sẽ đến lúc các nhà nghiên cứu tìm ra trong cuộc họp
nào, trong Bộ Chính trị ai là người chủ trương thẳng tay đàn áp những
người dân biểu tình do lòng yêu nước thúc đẩy! Một người nào đó trong
tập đoàn thống trị có thể sẽ viết hồi ký kể chi tiết các cuộc bàn cãi,
trong đó ai nói gì, ai cứng, ai mềm, ai đóng vai ông thiện, ai làm ông
ác! Lúc đó, danh tánh sẽ được đưa ra công khai cho người dân luận tội.
Họ
mang nhiều nỗi sợ, nhưng chắc cũng không sợ sẽ bị lịch sử ghi tên với
tội đập dân và bán nước. Vì chắc họ không suy nghĩ xa xôi đến thế. Nếu
biết nghĩ tới hậu quả và lo sẽ ô danh ngàn năm thì họ đã không nuôi
dưỡng và bảo vệ một guồng máy tham nhũng, tàn bạo và dối trá để bảo vệ
quyền bính của mình; và họ cũng không đi bán rừng, bán biển, bán quặng
mỏ cho ngoại bang suốt bao năm qua. Họ run sợ không ai dám ra lệnh đàn
áp, chỉ vì không ai muốn sẽ làm một Mubarack! Đó là một nỗi sợ. Họ đã
thấy trước mắt cảnh tượng cựu tổng thống Ai Cập đang bị điều tra, bị đưa
ra trước tòa án xét xử về những tội tham ô, trong đó có tội giết dân đi
biểu tình. Thân có thể bị tù tội. Tài sản có thể bị tịch thu trước khi
được tẩu tán hết ra nước ngoài. Chính mối lo đó đã khiến cho trong hai
tháng qua trong Bộ Chính trị người nọ đùn người kia; có thể ai cũng nói
năng hùng hồn, nhưng chỉ hô những khẩu hiệu chung chung, không ai dám đề
nghị thẳng tay bắt bớ ngay lập tức!
Một
lý do khác khiến họ không dám đưa ra đề nghị đánh dẹp cụ thể, là anh nọ
vẫn sợ anh kia nhân lúc có loạn sẽ tìm cớ hất cẳng mình; đó là nỗi sợ
thứ hai. Chắc chắn không anh nào dám đề nghị đối thoại và thỏa hiệp với
những người yêu nước. Vì họ không thể giúp cho phong trào quần chúng này
lớn mạnh hơn. Cũng không anh nào dám đề nghị giải pháp Thiên An Môn. Vì
sợ phản ứng của dân chúng; lòng phẫn uất của dân Hà Nội có thể bùng nổ
không ngờ, đàn áp xong đợt này có thể sẽ còn những đợt khác! Đề nghị đàn
áp nhưng việc không thành thì không khác gì đưa con dao cho đứa khác
trong Bộ Chính trị nó cứa cổ mình! Tốt nhất là các đồng chí cứ dè dặt,
canh chừng lẫn nhau; ăn nói theo lối ba phải, chờ đợi rồi lựa gió chiều
nào xoay chiều đó. Theo dư luận người dân Hà Nội thì chính vì sợ mà các
đồng chí trong Bộ Chính trị phải giữ miếng với nhau, không ai dám quả
quyết đánh!
Năm 1989, khi sinh viên
và công nhân Bắc Kinh đi biểu tình kéo dài cả tháng, Bộ Chính trị Cộng
sản Trung Hoa cũng phản ứng rất chậm trễ; mà họ thật sự bất đồng ý kiến.
Lý Bằng muốn đàn áp biểu tình ngay, không cần bàn cãi. Triệu Tử Dương
thì muốn nhân dịp đám thanh niên đòi hỏi sẽ đem thi hành một số biện
pháp cải cách dân chủ hóa, cho nên ông ta chủ trương đối thoại và thỏa
hiệp với sinh viên Bắc Kinh. Nhưng đằng sau những ý kiến bất đồng về
chính sách đối phó, vẫn là cuộc tranh chấp quyền lực giữa hai cá nhân,
một bên là thủ tướng, một bên là tổng bí thư. Khi hai người to đầu nhất
không thể đồng ý với nhau, Bộ Chính trị Cộng sản Trung Quốc cũng không
thể quyết định. Cuối cùng, phải đến thỉnh ý Đặng Tiểu Bình, một người
không có chức vụ nào chính thức ngoài vai trò chủ tịch quân ủy trung
ương. Và sau cùng, chính Đặng Tiểu Bình phải quyết định chấm dứt tình
trạng lưỡng lự. Ông ta ra lệnh: Đánh! Tả lớ!
Tại
Hà Nội hiện nay không người nào trong Bộ Chính trị có địa vị mạnh như
Đặng Tiểu Bình trong vụ Thiên An Môn năm 1989. Chỉ có tòa Đại Sứ Quán
Trung Quốc có thể đảm nhiệm vai trò đó! Trong hai tháng qua, lòng kiên
nhẫn của Đại Sứ Quán đã bị thử thách, đến lúc họ cũng thấy cần nhúng tay
mới xong. Chính họ cũng lo bị bề trên ở Trung Nam Hải khiển trách. Cho
nên, cuối cùng, guồng máy đàn áp đã chuyển động.
Phải
đàn áp, nhưng cần che giấu bàn tay điều khiển, giật dây. Cho nên không
thấy một quyết định nào chính thức rõ ràng. Chắc không có một cuộc biểu
quyết nào trong Bộ Chính trị; không ai ký một văn bản nào ra lệnh cho ai
cả. Cách tốt nhất có lẽ là theo thói vô trách nhiệm xưa nay, dùng lệnh
miệng, dịch từng câu từ tiếng phổ thông sang tiếng Việt. Đưa từng việc
cần làm, ra lệnh cho từng bộ phận thi hành từng bước. Không cần một
quyết định chung đầy đủ và tổng quát. Rút kinh nghiệm Thiên An Môn, các
đồng chí Trung Quốc không muốn có xe tăng tham dự. Cảnh đổ máu sẽ tạo
hình ảnh xấu trên báo đài quốc tế, hơn 20 năm vẫn chưa hết. Cuộc bắt bớ
ngày Chủ Nhật 21 tháng Tám, cũng chỉ sử dụng công an mặc thường phục. Và
những người bị bắt lên những chiếc xe mang hình ảnh dân sự, với các
bảng quảng cáo mầu mè hai bên, chứ không phải xe công an bít bùng! Kinh
nghiệm Thiên An Môn đã được học tập rất kỹ càng, và thi hành đầy đủ!
Các
hành động có thể tuần tự diễn ra từng bước một, tốc độ nhanh hay chậm
tùy theo sự thúc đẩy của các đồng chí anh em. Có những chi tiết không
được kiểm soát và trù liệu trước, như cú đạp của bàn chân Đại úy Minh,
hay cái miệng mau mắn lỡ lời của Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh. Các diễn
viên này không diễn đúng bài bản, chỉ vì thực sự không có bài bản. Họ
không nhận được một chỉ thị chung tổng quát, cũng không biết những ai là
bộ chỉ huy đầu não cho toàn bộ chiến dịch. Có thể một kịch bản đã được
sơ thảo, nhưng người ta không muốn công bố. Chỉ cần lâu lâu dịch từng
đoạn sang tiếng Việt để cho một bộ phận nào đó thi hành, trong khi những
bộ phận khác không cần biết.
Bước
đầu tiên, như chúng ta biết, là một bài trên báo Quân Đội Nhân Dân chuẩn
bị dư luận. Báo này rút kinh nghiệm các cuộc cách mạng ở Đông Âu và Bắc
Phi để báo động: “Các thế lực thù địch đặc biệt chú ý thúc đẩy sự hình
thành và công khai hóa các tổ chức chính trị đối lập… Thông qua các tổ
chức đối lập, các thế lực thù địch tập hợp quần chúng, tiến tới tạo dựng
‘ngọn cờ’ và lực lượng đối lập trong xã hội, làm nòng cốt để tiến hành
‘cách mạng đường phố’, nhằm thay đổi thể chế chính trị.” Bài báo rất lý
thuyết này có thể coi như hành động của người đi săn huýt sáo chuẩn bị
trước khi cho đàn chó săn xông ra. Ý tưởng chính là: Coi chừng diễn biến
hòa bình!
Bước tiếp theo cụ thể hơn,
là một thông cáo của chính quyền thành phố Hà Nội yêu cầu chấm dứt mọi
hoạt động tụ tập, biểu tình, tuần hành tự phát trong Thành phố với lời
đe dọa mạnh hơn: “… lợi dụng tình cảm yêu nước của nhân dân, các thế lực
chống đối nhà nước Việt Nam trong và ngoài nước đã và đang kêu gọi,
kích động, hướng dẫn quần chúng biểu tình, tuần hành … tiềm ẩn các yếu
tố gây mất ổn định chính trị; … tác động tiêu cực tới việc thực hiện
đường lối, quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta … Âm mưu, ý đồ của họ
là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, kích động hằn thù dân tộc chia
rẽ quan hệ Việt – Trung.”
Cuối cùng,
hành động đàn áp xuất phát từ chính quyền một thành phố chứ không phải
do các cấp trên! Theo Nghị định 38/2005/CP của Nguyễn Tấn Dũng đã quy
định thì Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân có quyền cấp cho phép cho biểu tình và
hủy bỏ việc tập trung đông người! Bộ Chính trị không phải quyết định!
Đại sứ quán Trung Quốc cũng không có trách nhiệm!
Những
nhà trí thức và thanh niên Hà Nội chắc đã biết trước kết quả này trước
khi họ tham dự người cuộc biểu tình. Nhưng họ không sợ. Giống như những
người dân biểu tình chống thuế ở Quảng Nam hay những thanh niên từ Hà
Nội đến Sài Gòn đã đi biểu tình để tang Phan Châu Trinh trong thế kỷ
trước. Việc đàn áp diễn ra ngày Chủ Nhật vừa qua, may mắn không gây đổ
máu như ở Thiên An Môn năm 1989. Nhưng trong những tuần lễ tới, giới trí
thức và thanh niên còn đủ lực lượng biểu tình tiếp hay không? Nếu tiếp
tục biểu tình thì sẽ thực hiện với những hình thái nào? Chúng ta có thể
chờ coi lịch sử sẽ diễn ra trước mắt người dân Hà Nội.
No comments:
Post a Comment