Khi nói tới sức mạnh của
một chế độ độc tài, tự biên tự diễn, ta thấy sức mạnh ấy tập trung vào
một nhúm người qua cách tổ chức chính quyền mặc định chỉ có đảng quyền,
đảng trị, còn nhà nước, quốc hội, tòa án, bầu cử, xét xử …
chỉ là một thứ copy tam quyền phân lập thô vụng giả vờ nhằm che mắt thế gian vừa là công cụ trấn áp quần chúng. Đó là các chế độ cộng sản còn sót lại trên thế giới: Việt cộng, Trung cộng, Bắc Hàn (Hàn cộng) hay độc tài quân phiệt như Miến Điện, Lybia …
chỉ là một thứ copy tam quyền phân lập thô vụng giả vờ nhằm che mắt thế gian vừa là công cụ trấn áp quần chúng. Đó là các chế độ cộng sản còn sót lại trên thế giới: Việt cộng, Trung cộng, Bắc Hàn (Hàn cộng) hay độc tài quân phiệt như Miến Điện, Lybia …
Ngoài
“sức mạnh” có được do vô hiệu hóa khả năng dự phần vào chính sự quốc
gia của quần chúng, rồi “cấu trúc” tổ chức cai trị một cách quái đản man
rợ chỉ thuần dựa vào bạo lực đàn áp, ngồi xổm trên luật lệ … (từ thời
cộng sản Nga -khởi từ Staline 1924, Tàu -khởi từ Mao trạch Đông 1949),
người ta còn liên tưởng tới một sức mạnh khác không thể thiếu: đó là bộ
máy quân sự của chúng.
Bài viết này có chủ đích thu gọn trong chủ đề quân sự (việc binh bị, quốc phòng) của Cộng Sản Việt Nam (VC) hiện tại, 2011. Để bài viết cô đọng, ngắn gọn, một số luận cứ liên quan trong bài sẽ không được chú dẫn vì đã trở nên một thứ “kiến thức phổ thông” mà bạn đọc nếu có theo dõi, thao thức với hiện tình đất nước, ắt phải biết, hoặc chịu khó cập nhật qua mấy tài liệu dẫn chứng chú thích ở cuối bài.
Thông thường, sức mạnh quốc phòng của một nước nằm ở 2 bình diện chính, là đường lối chính trị (chính sách), và khả năng quân sự (vũ khí cho việc binh bị)
Cán
binh CSVN bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến biên giới 1979. Vũ khí,
người cán binh này dùng là súng M79 và súng tiểu liên của Mỹ. Nguồn ảnh:
http://baochivn.com/forum.php
A. Khả năng quân sự trước 1975
Sau
Genève 1954, VC miền Bắc dành 4 năm để nô dịch hóa dân chúng, triệt hạ
sạch thành phần trí thức chống đối với chủ trương phi nhân của đường lối
cộng sản… xong, là họ bắt đầu nghĩ tới việc gây chiến tranh với anh em
miền Nam dưới chiêu bài giải phóng, trong khi thực tế, miền bắc rơi vào
cảnh đói kém lạc hậu một cách thê thảm, từ đời sống, xã hội, sản xuất…
cho đến các bình diện khác như kỹ thuật, công nghiệp, giáo dục, y tế (1)
kéo dài cho tới năm 1975 khi chiến tranh kết thúc, thì thử hỏi làm gì
còn có thể “giải phóng” cho ai???
Một
miền Bắc đói nghèo 1960, không lo phục hưng kinh tế, xây dựng nhân sinh
phú cường trong thời bình, lại đi gây việc binh đao, thì thật quá đỗi
phi lí…
Nhưng dù sao mặc lòng, điều
trước tiên là họ phải vận động sao cho có súng đạn mà không phải mua,
thì mới tiến hành chiến tranh được!
Cho
tới nay, về việc này (động cơ chiến tranh), dữ liệu của lịch sử từ các
nguồn khác nhau vẫn chưa cho ta một sự thực hữu lý thống nhất. Ý định
chiến tranh, theo tôi, không chỉ phát xuất từ Hồ Chí Minh với việc ông
ta qua xin Krouchtchev viện trợ vũ khí để đánh miền Nam hồi 1959 (2), mà
trong cái nhìn toàn cục, để tiếp tục nhuộm đỏ thế giới theo chủ trương
của Staline (và đàn em là Mao trạch Đông), thì việc Nga cộng và Tàu cộng
hậu thuẫn cho Bắc Việt tiến đánh miền Nam Việt Nam là xuất phát từ chủ
đích của 2 nước cộng sản lớn này. Đồng thời, nhằm duy trì thế đối đầu
gây hấn với Mỹ và phương Tây, cộng sản quốc tế không ngừng tiếp tay cho
các đảng cộng sản manh mún tại các quốc gia Đông Nam Á (Indonesia,
Philippines, Malaisia …) trong ý định không chút dấu diếm: Nhuộm đỏ thế
giới. Thế nhưng ý định này gặp phải 2 bức tường ngăn là Minh Ước Bắc Đại
Tây Dương (NATO) thành lập 1949 và Liên Phòng Đông Nam Á (SEATO) thành
lập 1954, nhằm tạo một “hàng rào” liên minh quân sự ngăn làn sóng đỏ của
cộng sản mà vào lúc bấy giờ, khí thế cộng sản đang hồi sung mãn sau khi
chiếm được Hoa Lục (Tưởng Giới Thạch thua trận, chạy ra bán đảo Đài
Loan thành lập Trung Hoa Dân Quốc 1949) và Bắc Hàn (Hiệp Ước Bàn Môn
Điếm 1953)!
Do vậy, VC miền Bắc, thực
chất là cánh tay nối dài của cộng sản quốc tế, chỉ là kẻ lấy gươm đao
từ người ngoài mà đánh anh em trong Nam qua chiêu bài “chiến tranh thần
thánh” mà thôi. Sử VC còn ghi, HCM từng đòi “đốt cả dãy Trường Sơn”,
hoặc bất chấp “sông cạn, núi mòn” cho mục đích cõng rắn cắn gà nhà đầy
phản quốc và nhơ nhuốc này. Tác giả Đêm Giữa Ban Ngày, Vũ Thư Hiên, (con
trai của ông Vũ Đình Huỳnh từng là bí thư của Hồ) cũng tiết lộ 1 chi
tiết quan trọng: Lê Duẩn từng tuyên bố trong một cuộc họp với thuộc hạ ở
bắc bộ phủ về việc chiến tranh với miền Nam: “Chúng ta đánh đây là đánh
cho Liên Xô, đánh cho Trung quốc…”. Đây là những nhận thức tối thiểu để
nhận ra tính cách Vô Tổ Quốc của người cộng sản.
Hồi
cách đây 40 năm, người Việt 2 miền còn bị lừa, thế giới tự do còn bị
lừa về tiêu ngữ tuyên truyền nào là “giải phóng”, nào là “đánh Mỹ”,
nhưng tới nay sau 36 năm chiến tranh kết thúc, sự thực đã được phơi bày
rõ tới nỗi chỉ những người tự lấy tay bịt mắt mới không nhận ra.
Do
vậy, trong suốt cuộc chiến từ 1960 – 1975 với miền Nam, một sự thực
hiển nhiên là VC hoàn toàn được Nga và Trung cộng tiếp tế đạn dược, khí
tài chiến tranh. Lượng khí tài này được tiếp tế theo nhiều đợt trong
nhiều năm, và chấm dứt –một cách tự nhiên- năm 1975.
Không Có Hòa Bình Sau 1975:
VC
mừng vui lãnh “chiến thắng” từ việc Mỹ bỏ rơi miền Nam 30/4/1975 chưa
được mấy ngày thì “người anh em” Campuchia, được người “anh lớn” Trung
cộng viện trợ cố vấn quân sự và vũ khí, đã bắt đầu các hoạt động quân sự
“gặm nhấm” ngay từ 5/5/1975 với việc đột kích vào đảo Phú Quốc như chỗ
không người, rồi tiến chiếm đảo Thổ Chu… cho tới lúc cao điểm là tiến
sâu vào nội địa VN, cướp bóc và tàn sát hàng ngàn dân VN ở Ba Chúc, An
Giang tháng 4/1977, thì Hà Nội mới phát động chiến tranh với người anh
em cộng sản này.
Vậy trong chiến
tranh Tây Nam với Khmer đỏ (1977 – 1988), hiển nhiên là VC không thể nào
còn được Trung cộng cho vũ khí nữa. Nguồn vũ khí còn mới toanh mà họ
được Nga, Trung cọng cho trước 75 còn đó, cộng với “chiến lợi phẩm” thu
được ở miền Nam (của Mỹ và các nước đồng minh, VNCH … để lại) sau 75, đã
là “vốn liếng” chủ chốt cho cuộc chiến này.
Thế nhưng vốn liếng này không ở lâu trong túi Hanoi.
2
năm sau phát động chiến tranh Tây Nam với Khmer đỏ, thì Hà Nội lại chạm
trán với đàn anh cộng sản Trung Quốc khi Đặng tiểu Bình “dạy cho VC 1
bài học” kéo dài 26 ngày từ 17/2/1979.
VC,
tới lúc này, phải duy trì cuộc chiến tranh kép: Tây Nam và Tây Bắc. Do
đó, lượng vũ khí mà họ xử dụng đã hao tổn rất nhiều, mặc dù khi chiếm
được Phnom Penh 7/1/1979, họ đã thu được nhiều chiến lợi phẩm do quân
Pon Pot bỏ chạy vì rã ngũ, không kịp phá hủy hay mang theo vũ khí, đạn
dược, mà thực ra số lượng vũ khí này cũng đồng chủng với thứ mà VN đang
có: đều do Trung cộng (phần nhiều) và Nga cộng, Tiệp Khắc (ít hơn) chế
tạo.
Bằng chứng việc nguồn vũ khí
ngày càng trở nên thiếu thốn khi chống đỡ cuộc chinh phạt của Trung cộng
1979, là họ kêu cứu khẩn cấp điện Kremlin, và Nga xô đã nhanh chóng đáp
ứng. Ngày 19/2/1979, nhóm cố vấn quân sự cao cấp của Nga Xô tới Ha Nội
hậu thuẫn cho VC, viện trợ gấp vũ khí cho Việt Nam qua cảng Hải Phòng,
đồng thời vận chuyển một số sư đoàn bộ binh chủ lực của Việt Nam đang
đánh nhau với Khmer đỏ từ Campuchia về bằng máy bay vận tải. Ngày
21/2/1979, một tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak của
Nga cộng tiến về phía vùng biển Việt Nam. Nga cũng đã bắt đầu dùng máy
bay giúp Việt Nam chở quân và vũ khí từ Nam ra Bắc. Hai chuyến bay đặc
biệt của Nga Xô và Bulgaria chở khí tài chiến tranh bay tới Hà Nội. Nga
cũng yêu cầu Trung Quốc rút quân, như một tín hiệu ngoại giao cho thấy
họ đứng đàng sau Ha Nội, trong khi Jimmy Cater đứng đằng sau Đặng Tiểu
Bình trong trận chiến Tây Bắc 1979 này.
Theo
các tài liệu ghi lại từ nhiều nguồn, cho tới nay, tất cả đều tương đối
thống nhất rằng, trận chiến Tây bắc với Trung cộng, VC đã thắng nhưng
phải hao tổn quá nhiều nhân mạng (26.000 lính, chưa kể số lớn thường
dân, mà để che đậy thực chất phi nhân độc ác của mình, chế độ Hà Nội
luôn bưng bít thông tin một cách vô nhân đạo với quần chúng cũng như
thân nhân của các gia đình có người đi lính tử nạn trong cuộc chiến
1979).
Do đó, một điều hiển nhiên là
nguồn vũ khí của Hà Nội cũng lưng vơi rất nhiều nhưng họ không còn biết
dựa vào đâu để bổ sung, vì nhiều lẽ.
Thứ
nhất, Nga xô chỉ viện trợ “nóng” khi có chiến tranh (như 1979) chứ
không có lý do gì để tiếp tục tăng viện cho Hà Nội khi đã hết chiến
tranh; bản thân Nga cộng cũng đang lún vào suy thoái và khủng hoảng trầm
trọng trong chế độ khét tiếng độc tài phi nhân này (tiền đề cho cách
mạng nhung 1990 sau này) cho nên họ tự lết đi cũng còn chưa muốn nổi,
lấy gì cưu mang đàn em Hà Nội!
Thứ
nhì, về phần mình, Hanoi cũng khủng hoảng không kém với chính sách quái
đản “ngăn sông cấm chợ”, đánh Hoa kiều ở Chợ Lớn, triệt tư sản (thực
chất là để cướp bóc của cải), trả thù, bỏ tù người tài ở miền Nam…
Năm
1979, chỉ mới 4 năm sau 1975, mà Hà Nội đã “đổi tiền” tới 3 lần. Việt
nam chỉ còn là một vùng đất chết, từ Nam chí Bắc một bầu khí nghẹt thở
ảm đạm đói kém lan tràn (3), tới nỗi dân chúng dấy lên phong tào tự
phát: Vượt biển!. Đây là lúc những tên tội đồ bắc bộ phủ lại nảy ra sáng
kiến quái ác mới: bán bãi cho người vượt biên lấy vàng lá chở ra Ha Nội
nhập kho! Nhưng đây lại là một đề tài tôi sẽ viết vào một lúc khác!
Chiến Tranh 1984
Giữa
lúc Ha Nội áp dụng một chính sách quái đản như thế, thực lực kinh tài
của cả nước đang lao xuống dốc nhanh chóng, thì xảy ra tranh chấp biên
giới 1984 với Trung cộng qua vụ núi Lão Sơn, Vị Xuyên, Hà Tuyên (đây là
cuộc chiến biên giới với Trung cộng lần thứ nhì, lần này, Trung cộng chủ
đích gây hấn cốt làm cho VC chảy máu. Chú ý là hiện trạng lúc này,
“hiến pháp” của VC có ghi 1 điều khoản quan trọng: “Trung quốc là kẻ thù
truyền kiếp của VN”).
Một lần nữa
nguồn vụ khí dự trữ ít ỏi còn lại của Hà Nội sau cuộc chiến 1979 lại
phải đem ra dùng đánh nhau với Trung cộng cho tới 1989 mới đi đến 1 kết
thúc bại trận với nhiều thua thiệt cho VN: hao người (con số mà Hà Nội
công nhận là 3700 lính tử trận, thực tế chắc chắn cao hơn gấp bội!) hao
của, mất hằng trăm cây số đất về tay Tàu cộng (so với biên giới chính
thống vì kẻ chiến thắng vừa đánh vừa dời cột mốc biên giới lùi sâu vào
nội địa VN), sau 2 cuộc chiến “anh em cộng sản” tương tàn này!
Nhưng
nổi bật hơn hết sau biến cố này là nguồn vũ khí họ còn trong tay lại
trở nên thiếu hụt hơn nữa. Các nguồn tài liệu còn ghi lại cho tới nay,
cho thấy không có sự hậu thuẫn hay viện trợ nào cho Hanoi từ phía Nga
cộng như hồi 1979 nữa. Đây là thời điểm xảy ra thảm họa nhà máy điện
hạch tâm Chernobyl (1986) và chỉ còn vẻn vẹn 4 năm nữa là đế quốc cộng
sản USSR đi vào cõi thiên thu! Thì lấy đâu ra “nguồn” sữa ngọt cho Hanoi
bám vào mà ký sinh như những năm xưa nữa! Cũng phải thôi!
Cho đến thời điểm 1989, VC ở vào tình thế cô độc nhất so với trước đó, ta tạm điểm mục một vài như sau:
1
– Trở thành kẻ thù với Trung cộng, do đó thay vì được Trung cộng tiếp
tế quân trang quân dụng như thời chiến tranh với miền Nam quốc gia trước
đây, VC bị làm chảy máu thêm tới 2 lần, cả vũ khí cho tới các nhu yếu
dân sự, lẫn hậu thuẫn về ngoại giao trên thế giới.
2 – Nga cộng, và các nước trong khối Varsovie đang đi vào cõi chết, do đó toan tính “làm đĩ” 2 nơi của VC bị phá sản. Nghĩa là không còn dựa dẫm và Trung cộng hay Nga cộng được nữa!
3 – Lệnh cấm vận của Mỹ áp dụng cho Hà Nội sau 75 đang còn hiệu lực sờ sờ ra đó, như 1 bức tường chắn sừng sững không lối thoát!
Với thế giới bên ngoài, chế độ Hà Nội bị cô lập bởi thù cũng như bạn.
Trong
nước thì lộ rõ mặt thực là một chế độ tráo trở tàn ác mất lòng dân, mất
lòng đồng đội (vụ hãm hại Trần Xuân Bách 1990, Bùi Tín tị nạn chính trị
ở Pháp, CLB Những người kháng chiến cũ Nguyễn Hộ li khai 1991, Trần Độ
manh nha đối kháng để rồi bị khai trừ khỏi đảng 1999 …, Vũ Thư Hiên đào
thoát tị nạn ở Nga và viết hồi ký Đêm Giữa Ban Ngày vạch trần bộ mặt
VC), phi nhân trước dư luận thế giới (“boat people”-thuyền nhân- một
“thuật ngữ” bi thương ra đời như để chỉ mặt trâng tráo vô nhân của VC…)
Lúc
này, Hà Nội đang đăm đăm một nỗi canh cánh duy nhất: tránh thoát sụp
đổ! Vì thế, tập đoàn bắc bộ phủ lại trơ tráo vô liêm sỉ quay lại với
Trung cộng, kẻ mà mới hơn 1 năm trước còn là kẻ thù ở cách 1 tầm đạn.
Cái gọi là “hiến pháp” 1992 ra đời kế đó đã xóa bỏ hẳn cái điều khoản
ghi vào sau cuộc chiến 1979 “coi Trung quốc là kẻ thù truyền kiếp”! Tất
cả mọi mầm quy thuộc một cách vững chắc vào “thiên triều” Trung cộng bắt
đầu từ đây. Nhưng đó là từ phía VC.
Còn
phía Trung cộng? Làm sao “tên vô ơn phản trắc” vừa mới đọ súng với mình
mà được Trung cộng chấp nhận dễ dàng? Nhưng tình thế thế giới đã biến
đổi quá lẹ và toàn diện sau khi Nga và cộng sản Đông Âu sụp đổ, do đó,
cục diện thế giới cũng thay đổi theo. Các nước cộng sản ít ỏi còn lại
này ngay lập tức tìm về tựa lưng nhau như một phản xạ tự nhiên! Trung
cộng tuy chấp nhận cho tập đoàn bắc bộ phủ khấu đầu quy thuộc, để có vây
cánh, thuộc hạ trong một thế cục thế giới mới, nhưng có điều chắc chắn:
Trung cộng sẽ không bao giờ là nguồn cung cấp vũ khí cho Hà Nội nữa dù
là bán (chứ huống gì là cho không như xưa nữa)!!! Đây là một sự thật
hiển nhiên.
Sau biến cố Đông Âu sụp
đổ 1990, VC đã thở phào khi thoát nạn sụp đổ nhưng ta hãy ghi nhận như
sau đây các hiệu ứng kèm theo từ các sự kiện vừa kể trên:
-
Theo đà chuyển tự nhiên của tình hình, một khi VC đã quy thuộc thiên
triều Trung cộng rồi thì hệ quả rõ nhất là không còn đối kháng (có thể
ví von như một nàng girl, khi đã cho trai vào buồng rồi thì làm gì còn
“dấu” dao dưới gối để thủ tiết?), nghĩa là việc binh bị Hà Nội gần như
“bỏ ngỏ”. Tại đây, người đọc sử có thể thấy rõ tính phản quốc của VC:
nói gì, làm gì…là cốt để sống còn chứ không hề quan tâm tới tổ quốc,
đồng bào!
- Giả sử VC không “bỏ ngỏ”, thì việc tìm mua vũ khí để củng cố quốc phòng với Hanoi là điều không thể do các lí do sau:
a/
Không có tiền. Thực tế, Hà Nội chưa bao giờ có thể tự trang bị khí tài
chiến tranh (mà họ luôn là kẻ đi xin). Và để có khả năng đó, Hà Nội phải
là một chế độ dân chủ biết huy động toàn lực nhân tài của đất nước, khi
“ăn nên làm ra”, chính quyền trung ương mới hoạch định ngân sách mua
dần súng đạn, quân trang, quân dụng để phòng bị việc binh cho đất nước.
Vì số ngân khoản chi dụng cho quốc phòng rất lớn mà lại “vô dụng” nằm ì
(khi chưa có “biến”), cho nên phải có sách lược kín kẽ trong thời gian
dài mới làm đầy kho chứa được! Lời kêu gào “vẫn còn nghèo” của Nguyễn
Tấn Dũng mới đây tại Hội nghị thường niên ADB (Asian Development Bank)
lần thứ 44, trưa thứ Năm, 5/5/2011 ở Hà Nội hòng tiếp tục “ngửa tay ăn
mày” thế giới đã nói lên thực trạng đó: từng cây cầu, từng con đường,
từng “dự án” nhỏ to nào về dân sinh trên toàn quốc, VC đều đi xin thế
giới. Vậy thì không làm sao Hanoi có tiền để đi mua vũ khí được!
b/
Không biết mua ở đâu, bởi theo thống kê của Viện nghiên cứu hòa bình
quốc tế Stockholm SIPRI, thì các tập đoàn sản xuất vũ khí lớn nhất thế
giới đều ở Mỹ và Châu Âu. Mỹ lại là nước kiểm soát vô cùng chặt chẽ việc
mua bán vũ khí trên thế giới, nhất là với các nước cộng sản, hoặc độc
tài quân phiệt như Miến Điện, hay Hồi giáo quá khích ở Trung Đông. Việc
Ha Nội có thể mua được vũ khí từ các hãng của Mỹ và Châu Âu là không bao
giờ! Nếu có chăng, Ha Nội chỉ mua “chui” được một ít lẻ tẻ từ Miến, Ấn
Độ, cũng chả là bao! Còn mua từ những nước khác “bất hảo” quy tụ quanh
Trung cộng thì chắc chắn Bắc kinh đã cấm cửa!
-
Năm 1994, TT Bill Clinton xóa lệnh cấm vận cho Hà Nội. 1996, Mỹ thiết
lập bang giao cấp đại sứ với VC. Việt Nam trở nên một “thị trường” rẻ
bèo về nguồn nhân công, năng lượng, dịch vụ… cho tư bản Mỹ và phương Tây
theo chân Mỹ ùa vào mà khai thác. Quan chức VC tranh tiên nhanh hơn hết
khi đổi áo từ quân sự, chuyên chính… sang kinh tế… cho tới nay! Việc
các đơn vị quân đội VC bỗng chuyển sang làm ăn kiếm chác tranh nhau
những “vố” lớn trong các lĩnh vực dân sự như viễn thông (điện thoại di
động, Internet…), địa ốc, du lịch, nhà hàng, chứng khoán, dẫn tới biết
bao tha hóa nặng nề trong hàng ngũ “tướng tá” của VC là cả một “cuốn sổ
thiên đình” dày cộm!
Nhưng quan trọng hơn hết, việc binh bị bỏ ngỏ, vì tướng hư thì binh hỏng.
Người
ta có thể ghi nhận hằng ngàn khách sạn, quán nhậu, resort, đua nhau
ngốn tiền tỉ, nhưng không hề thấy mọc mới các trường hay trung tâm huấn
luyện binh lính, sỹ quan ứng phó cho thời chiến, hầu như tất cả chúng
đều được dùng lại từ những gì có sẵn cũ mèm từ trước ở miền Bắc, và
chiếm dụng từ quân đội quốc gia ở miền Nam sau 1975. Chỉ có hoạt động
“nghĩa vụ quân sự” chiếu lệ, nhưng dần dà theo đà tha hóa nhanh chóng
của cán bộ VC, các cuộc bắt lính trở nên lỏng lẻo vì rất dễ hối lộ cho
các đơn vị “tỉnh đội, huyện đội, xã đội” để thoát lệnh bắt lính. Các em
nhỏ (không tiền hối lộ) sau khi “hoàn thành nghĩa vụ” 3 năm trở về, đã
thuật lại những thảm trạng sa đọa trụy lạc ngày càng phổ biến từ những
“doanh trại” bộ đội thời bình này: có đủ hết những hư hỏng bên ngoài như
web sex, CD phim sex, cờ bạc, hối lộ, ma túy nữa!
-
Thời hạn (date) của vũ khí: hầu hết các vũ khí mà 2 bên Nam Bắc VN đánh
nhau trong 15 năm từ 1960 – 1975, đều là vũ khí cũ từ thời đệ nhị thế
chiến còn sót lại. Các siêu cường Tư bản – Cộng sản thế giới quả nhiên
đã đánh nhau qua 1 nước thứ ba, là Việt Nam, đồng thời là nơi “tiêu thụ”
vũ khí của họ còn thừa sau đệ nhị thế chiến.
* * *
Qua
những chuyển biến thế giới từ 1990 tới nay, đã là hơn 20 năm, thì hạn
dùng (date) của mớ vũ khí ít ỏi mà Hà Nội còn trong kho, đã quá date lâu
lắm rồi. Trong 3 năm qua, đã có mấy vụ thử máy bay Mic 21 của Nga bị
rơi trong có vài chuyến bay thử là một dẫn chứng! (12/11/2009 ở Yên Báy,
29/5/2010 ở Bình Định, 7/7/2010 tại Mê Linh, Hà Nội). Vả lại, vũ khí,
nhứt là súng trường, đại liên, đại bác…nếu không dùng, thì nhất thiết
phải tuân thủ một quy trình bảo dưỡng chặt chẽ mới mong tránh khỏi hư
hỏng, rỉ sét. Riêng đạn, chắc chắn số bị hư thúi rất nhiều. Đó là chưa
kể trong 20 năm qua, khi Hà Nội quy thuộc Trung cộng, các đơn vị tài
binh thi nhau cởi áo lính nhào vô lĩnh lực dân sự mà kinh doanh, buôn
bán kiếm ăn, thì các cấp nhỏ bên dưới dần dà lén lút lấy cắp các kho
quân cụ quân nhu mà bán ve chai kiếm ăn lẻ, những gì có thể bán, hoặc
giả vờ báo cáo hư để bán …
Thời gian
càng trôi, số vũ khí càng hao mòn hoặc có nguy cơ trở nên vô dụng mà
Hanoi thì không thể có nguồn mua bổ sung, do đó hiện giờ, tình trạng
binh bị của chế độ là vô cùng yếu, khi họ tự biết ngày càng bị “bá quyền
bành trướng bắc kinh” bắt nạt không cần dấu diếm, với các mật ước bán
đất nhượng biển của tổ tiên cho Tàu cũng như khả năng quá kém về quân
sự.
Trước thực tế đó, tin tức ghi
nhận tháng 12/2009 Hanoi đã “hô hoán” với thế giới việc họ tái vũ trang
bằng cách mua lại vũ khí (chiến đấu cơ Sukhoi Su-30MK2), tàu ngầm từ
Nga với các hợp đồng lớn … làm cho láng giềng Thái Lan lên tiếng phản
đối. Theo nhật báo South China Morning Post ở Hongkong nhận định, đây
là hợp đồng mua bán vũ khí lớn nhất kể từ khi cuộc chiến
Việt Nam kết thúc 35 năm trước.
Sau
việc Trung cộng uy hiếp biển đông VN qua việc tàu “ngư chính” 311 xông
vào cắt cable thăm dò dầu mỏ của tàu Bình Minh 2 (26/5/2011) và Viking 2
(9/6/2011), Ha Nội lại vội vàng mua thêm vũ khí “Hệ thống tên lửa phòng
không S-300PMU1” từ Nga mà theo tờ Tuổi Trẻ 19/6 thì “được thiết kế
riêng cho VN”. Đây là một giọng điệu tuyên truyền “nổ” rẻ tiền ấu trĩ
nhằm trấn an nhau và “khè” dư luận của Ha Nội, vì việc thiết kế rồi sản
xuất “riêng” 1 “hệ thống” hỏa tiễn phòng không đâu chỉ là việc của vài
ngày??!!!
Những hành vi mua vội vũ
khí từ Nga của Hà Nội lại càng cho thấy thực trạng của họ là: kho khí
tài sau nhiều cuộc chiến tranh sau 1975 tới nay đã cạn, hoặc gần như
trống rỗng vì hạn dùng đã hết.
Những câu hỏi sau đây sẽ rất xác đáng khi nêu lên để điểm mặt việc binh của nhà nước VC hiện giờ:
Nếu
lại xảy ra chiến tranh với Trung cộng, quân đội VC cầm cự được mấy ngày
thì hết đạn? Khi hết đạn thì bổ sung từ đâu? Bạn bè của VN hiện giờ là
ai, nếu không muốn nói là chỉ 1 mình Trung cộng? thì lấy ai mà VN dựa
dẫm, hỗ trợ???
Nếu kêu thanh niên
nhập ngũ, lấy đâu súng ống, đạn dược, áo, quần, dày vớ… các thứ quân
trang quân dụng nói chung để đủ trang bị cho họ???
Lấy
đâu xe tải quân sự (như Molotova của Nga, GMC của Mỹ), hay tàu chiến,
phi cơ chiến đấu… mà chuyển quân, mà tham chiến? Không thể dùng xe car
dân sự được! Và nhiên liệu đâu cho máy bay chiến đấu, cho tàu (thủy)
chiến? Kể cả các phi hành đoàn không quân lấy đâu ra mà lái máy bay?
Trong khi hàng không dân sự (chở khách kiếm ăn) của VN cũng phải thuê
rặt những phi công ngoại quốc?…
Trên đây chỉ là vài câu hỏi gợi ý…
B. Đường Lối Chính Trị:
Với
vị thế nước nhỏ mà tan hoang vì chinh chiến kéo dài, nhà nước cộng sản
phải ý thức được thực tại đó, sau 1975, nếu họ tuy vẫn tham quyền ăn
trên ngồi trước, nhưng còn có tí gì nghĩ tưởng tới quốc gia dân tộc, thì
hẳn họ đã (dù giả vờ cũng được) dang tay tìm lại anh em miền Nam, là
những người hiền tài với trình độ học vấn cũng như truyền thống nền tảng
quá ư tốt đẹp nhân bản của miền Nam sẵn có, cùng nhau ngồi lại vạch
định tương lai cho xứ sở, mà trong lúc ấy, như ta đã biết, Ha Nội và
Trung cộng đang là kẻ thù ngấm ngầm của nhau! Hà Nội, hơn ai hết biết rõ
khi chiến tranh kết thúc, thì chỉ còn tình anh em một nhà mới là có
thực, còn Tàu cộng vĩnh viễn cũng chỉ “giặc Tàu trăm năm độ hộ” ta mà
thôi! Nhưng họ đã tự dối lòng, từ chối anh em!
Tôi
tin chắc gần như toàn thể các tướng lãnh, viên chức, trí thức, nhân sĩ
VNCH sẽ không hề ngần ngại thù hằn gì, sẵn sàng ngồi lại ở vị thế thứ
yếu, nhường đặc quyền đặc lợi cho VC “lãnh đạo” quốc gia, nếu Hà Nội
thực tâm tìm hơi ấm anh em đặng thiết kế hướng đi phú cường cho VN sau
1975. Người Việt suýt nữa đã có thể thoát một cơn hiềm thù vô duyên vô
bổ…thế mà Không! Chính Hà Nội đã dung dưỡng, tô đậm thù hằn đang còn di
hại cho tới ngày nay sau 36 năm chiến tranh kết thúc.
Thiết
tưởng, ngoài tác dụng tái thiết xứ sở sao bao năm bị tàn phá bởi chiến
tranh, đây còn là hướng duy nhất mạnh và bền trong việc lèo lái xứ sở mà
chưa nhất thiết phải lo ngóng về việc chuẩn bị khí tài cho quốc phòng.
Vì, một đường lối hợp lý, trong đồng thuận anh em, ngoài khoan hòa khiêm
cung mềm dẻo với các lân quốc, chắc chắn sẽ là giải pháp tối ưu cho một
sách lược “phòng thủ” mà chưa hoặc không phải dùng tới vũ lực! Bài học
ấy nhan nhản trên thế giới như Nam Hàn, Singapour, Đài Loan, Thái Lan mà
ngày nay đã hiển hiện thành quả. Trong khi Hà Nội say cơn vĩ cuồng
hoang tưởng “chiến thắng”, “vô địch” của họ, thì các nước ấy biết liên
kết với Mỹ không những để giao thương học hỏi những kỹ thuật, công nghệ
tân kỳ của xứ người mà còn tạo một thế liên minh, dùng vỏ bọc “mạnh” của
Mỹ để che chắn cho mình an tâm phục hưng nước nhà. Việc Thái Lan trước
1975 thua xa miền Nam VN về trình độ cũng như văn minh, mà đến 1990 (15
năm sau) trở nên một thiên đường so với VN…đã quá đủ để nói lên điều đó!
TẠM KẾT
Việc
đời luôn biến thiên theo lẽ vô thường của cuộc sống mà người làm chính
trị không thể không biết: “Không có bạn muôn đời, cũng như không có kẻ
thù truyền kiếp”. Kiểm điểm lại quá trình chiến tranh Việt Nam qua những
gì phía VC nói, rồi làm, với Trung cộng, rồi với Mỹ, từ 1960 tới nay,
đã chứng tỏ chân lý hiển nhiên từ câu nói trên mà không cần phải thêm
bớt gì.
Mới cách đây gần hai tháng
trở về trước, VC và Trung cộng còn 16 chữ vàng, 4 tốt, mà giờ đây sau 2
lần Trung cộng uy hiếp vỗ mặt cắt cable của 2 tàu dò dầu VN, bắt ngư dân
vòi tiền chuộc, bắn chết ngư dân, cướp tàu, cướp ngư cụ, cấm đánh bắt
trên vùng biển thuộc lãnh hải VN, và đe dọa dùng quân sự để chiếm mặt
biển của VN … mà Hà Nội ngoan ngoãn im re không hề dám làm một động thái
nào, thì thử hỏi đó là chân lý gì? Vũ khí để mà làm gì?
Khi
chế độ Hà Nội bị Trung cộng vỗ mặt, thì dân chúng biểu tình đả đảo
Trung quốc xâm lược. Lẽ ra Hà Nội không còn mong muốn nào hơn, trong khi
người dân bị đảng viên của họ khắp các tỉnh thành từ Bắc chí Nam bạc
đãi, đánh chết, cướp đất suốt thời gian dài…mà khi nước nhà lâm nguy với
kẻ phương bắc ỷ mạnh hiếp yếu hòng bành trướng, dân vẫn một lòng đứng
lên cùng nói tiếng nói phản ứng với nhà cầm quyền, hỗ trợ nhà nước trong
việc đồng thuận 1 lòng chống địch, thì Hà Nội lại cho người đàn áp thô
bạo, bắt bớ dân chúng … như phường cướp giật giữa thanh thiên bạch nhật,
bất chấp liêm sỉ tự trọng… thì thử hỏi đó là chân lý gì? Vũ khí để mà
làm gì? Để bắn dân sao?
Số ít các
nhân viên công an lừa nòi lộn giống đang còn nhắm mắt vô lương cúi đầu
phục vụ cho bạo quyền phản quốc kia thực ra chỉ là kẻ tội đồ hạng 2.
Kẻ
tội đồ chánh phạm phải kể là cái bộ chính chọe của Hà Nội, nơi đã không
còn khả năng vệ quốc, mà ngược lại, họ có vẻ sẵn sàng dùng số vũ khí
chẳng còn bao lăm kia mà bắn vào dân chúng. Họ mới chính là một nhúm
những kẻ phản quốc ghê tởm nhất trong sử Việt, nhưng dù vậy, số đạn họ
đang còn có thể bắn vào dân trong mấy ngày nếu từ Nam chí Bắc đồng loạt
biểu tình hỏi tội phản quốc của họ???
LTC [Nguồn: Đàn Chim Việt]
Saigon, 23/6/2011
Chú Thích:
(1): Xin xem:
MỘT NGÀY TẠI HÀ NỘI -Bút Ký- Trung Tá PHẠM HUẤN
TỪ THỰC DÂN ĐẾN CỘNG SẢN -Biên Khảo- Hoàng văn Chí
ĐIỀU TRA ĐỜI SỐNG CƯ DÂN ĐÔ THỊ BẮC VIỆT giai đoạn 1954-1975- VŨ NGỌC TIẾN
TỪ THỰC DÂN ĐẾN CỘNG SẢN -Biên Khảo- Hoàng văn Chí
ĐIỀU TRA ĐỜI SỐNG CƯ DÂN ĐÔ THỊ BẮC VIỆT giai đoạn 1954-1975- VŨ NGỌC TIẾN
(2): Xin xem: Các Lực Lượng Ngoại Quốc Tham Dự Chiến Tranh Việt Nam 1960-1975 Trần Gia Phụng
(3):
Giáo Sư Ramses Amer nhận định : Những ai ghé Hà Nội vào thập niên 80
đều thấy rằng miền Bắc Việt Nam thiếu thốn đủ điều, từ lương thực cho
đến các mặt hàng tiêu dùng khác vì trước đó các thứ này đều đến từ Trung
Quốc. (http://www.rfi.fr/actuvi/articles/110/article_2554.asp)
Các Tài Liệu Tham Khảo:
http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/CuocchienTrungViet/ChientranhBiengioiVietTrung.htm
http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/CuocchienTrungViet/CuochienVT.htm
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/indepth/cluster/2009/02/090210_border_war_1979.shtml
http://ucchau.ndclnh.com/index.php?option=com_content&view=article&id=536:thm-kch-lao-sn&catid=21:bn-c-tam-tinh&Itemid=31
http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/CuocchienTrungViet/CuochienVT.htm
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/indepth/cluster/2009/02/090210_border_war_1979.shtml
http://ucchau.ndclnh.com/index.php?option=com_content&view=article&id=536:thm-kch-lao-sn&catid=21:bn-c-tam-tinh&Itemid=31
No comments:
Post a Comment