Hiếu Tân (Bản tiếng Việt)
1.Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bị hãm vào trong một cuộc tranh chấp thầm lặng nhưng ngày càng gay gắt nhằm dành quyền lực và ảnh hưởng không chỉ ở châu Á mà trên khắp thế giới. Mặc dầu những gì mà nhiều nhà bình luận nghiêm chỉnh và thiện chí dường như tin tưởng,
sự kình địch giữa Hoa-Mỹ mới nảy sinh không phải chỉ là kết quả
của những chính sách sai lầm hay những sự hiểu lầm, trái lại nó bị thúc
đẩy bởi những lực lượng đã bắt rễ sâu trong cấu trúc đang thay đổi của
hệ thống quốc tế và trong chính những chế độ chính trị trong nước hết
sức khác nhau của hai cường quốc Thái Bình Dương.1.Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bị hãm vào trong một cuộc tranh chấp thầm lặng nhưng ngày càng gay gắt nhằm dành quyền lực và ảnh hưởng không chỉ ở châu Á mà trên khắp thế giới. Mặc dầu những gì mà nhiều nhà bình luận nghiêm chỉnh và thiện chí dường như tin tưởng,
Trong
suốt lịch sử, những mối quan hệ giữa các nước đã vượt trội và những
nước đang vươn lên không bao giờ là dễ dàng – và thường là bạo lực. Các
cường quốc đã định hình, có xu hướng tự coi mình là những kẻ bảo vệ một
trật tự quốc tế mà chúng đã giúp tạo ra và đang tiếp tục hưởng lợi từ
nó; các cường quốc đang vươn lên cảm thấy bị kiềm chế, thậm chí bị lừa
bịp, bởi tình hình hiện tại và đấu tranh chống lại nó để giành lấy cái
mà chúng nghĩ rằng đúng ra phải là của chúng. Thật vậy, câu chuyện này,
với những ngụ ý kiểu Shakespeare về tuổi trẻ và tuổi già, vững mạnh và
suy tàn, là thứ chuyện lâu đời nhất trong lịch sử thành văn của loài
người. Ngay từ thế kỷ 5 trước CN nhà sử học vĩ đại người Hy Lạp
Thucydides bắt đầu nghiên cứu về cuộc Chiến tranh Peloponnesia với nhận
xét tưởng chừng như đơn giản rằng nguyên nhân sâu xa nhất, thật sự nhất
của chiến tranh là “sự lớn lên của sức mạnh Athena và nỗi sợ mà nó gây
nên trong Sparta.”
Cái sự thật rằng
mối quan hệ Mỹ-Hoa là quan hệ cạnh tranh không có gì đáng ngạc nhiên.
Nhưng hai nước này đâu phải là hai cường quốc bất kỳ: từ khi kết thúc
Chiến tranh Lạnh Hoa Kỳ đã là nước giàu nhất và mạnh nhất thế giới;
ngược lại Trung Hoa là nước mà các khả năng vươn lên nhanh nhất. Hoa Kỳ
vẫn còn là “số một,” nhưng Trung Hoa nhanh chóng giành được đất. Cuộc
ganh đua đang ở mức cao nhất, và đặc biệt đầy tiềm năng xảy ra xung đột.
Ít
nhất cho đến nay dưới mắt các cường quốc vượt trội, các nước đang lên
có xu hướng là những kẻ gây rối. Khi những khả năng của một nước lớn
lên, các lãnh đạo của nó nói chung xác định lợi ích của họ rộng rãi hơn
và đi tìm mức độ ảnh hưởng lớn hơn đối với tình hình diễn ra xung quanh
họ. Điều này có nghĩa là những nước đang lên này thông thường không chỉ
mưu đồ giữ nguyên đường biên giới của chúng mà còn muốn vượt ra bên
ngoài những đường biên giới ấy, đi những bước đi cần thiết để đảm bảo
đến được các thị trường, vật liệu và các đường giao thông, để bảo vệ
công dân của chúng ở xa nhà, bảo vệ các bạn bè và đồng minh nước ngoài
của chúng; để truyền bá các tôn giáo và niềm tin ý thức hệ của chúng;
và, để có những gì chúng coi là quyền hợp pháp chính đáng của chúng
trong công việc ở địa phương của chúng và của thế giới bên ngoài.
Khi
chúng bắt đầu tự xét đoán mình, các nước vượt trội thường cảm thấy buộc
phải thách thức các đường biên giới lãnh thổ các thiết chế quốc tế và
hệ thống tôn ti trật tự về uy tín đã được sắp xếp khi chúng còn tương
đối yếu ớt. Giống như Nhật Bản cuối thế kỷ mười chín, hay Đức ở bước
ngoặt sang thế kỷ hai mươi, các cường quốc mới nổi muốn có chỗ đứng
dưới mặt trời. Tất nhiên đây là điều đặt chúng đối đầu với các cường
quốc đã định hình – cái gọi là các nước status quo, đã nghiễm nhiên như
thế – vốn là những nhà kiến trúc, những kẻ thừa kế chủ yếu và những
người bảo vệ chính của bất kỳ hệ thống quốc tế hiện tồn nào.
Cuộc
va chạm sinh ra từ đó giữa các lợi ích của hai bên rất hiếm khi được
giải quyết một cách hòa bình. Nhận thấy mối đe dọa đang lớn lên đối với
địa vị của chúng, các cường quốc vượt trội (hay một liên minh của các
nước có địa vị ấy theo thực tế – status quo) đôi khi cố tấn công và phá
hoại một đối thủ trước khi nó có thể lớn lên, đủ mạnh để thành một nguy
cơ. Những nước khác – hy vọng tránh được chiến tranh – đã theo một lập
trường ngược lại: cố gắng xoa dịu những kẻ ngầm thách thức mình, họ tìm
cách thỏa mãn những đòi hỏi và tham vọng của chúng và tìm cách đưa chúng
vào trật tự quốc tế hiện tồn một cách hòa bình.
Nhưng
dù có chân thành đến mấy, những cố gắng của họ hầu như luôn luôn kết
thúc trong thất bại. Đôi khi lý do rõ ràng nằm trong những đòi hỏi của
nước đang lên. Điều này cũng đúng với nước Đức của Adolf Hitler, một kẻ
xâm lược có thể có những tham vọng quá lớn đến mức các nước status quo
không thể đáp ứng mà không thực tế tự dấn mình vào tình trạng nô lệ hay
tự sát dân tộc. Ngay cả khi những đòi hỏi của chúng không quá nặng nề,
các nước vượt trội cũng thường rất khó chấp nhận nhượng bộ, do đó đổ
thêm dầu vào đám lửa oán giận và thất vọng của nước đang lên, hoặc quá
hăm hở nhượng bộ, thì lại nuôi dưỡng những tham vọng của nó và khiến cho
các đòi hỏi leo thang theo đường xoắn ốc. Các chính sách nhượng bộ để
xoa dịu mà thắng lợi có thể hiểu được về mặt lý thuyết, nhưng việc thực
hiện chúng trong thực tế tỏ ra vô cùng khó khăn. Đó là lý do tại sao
những thời kỳ chuyển tiếp, khi một cường quốc đang lên bắt đầu vượt các
nước trước kia là vượt trội, đã luôn luôn được đánh dấu bằng chiến
tranh.
Trong khi họ cẩn thận không
nói trực tiếp, các nhà cầm quyền hiện nay của Trung Hoa dường như đang
cố xác định đất nước họ như cường quốc nỗi trội ở Đông Á và có lẽ cả
châu Á nói chung. Mục đích là làm cho Trung Hoa thành nước mạnh nhất và
có ảnh hưởng nhất trong vùng lân cận của mình, một nước có khả năng ngăn
chặn các cuộc tấn công và các mối đe dọa; giải quyết các tranh chấp
lãnh thổ theo các sở thích của nó; ép buộc hoặc thuyết phục các nước
khác tán thành những ý muốn của nó trên những vấn đề từ thương mại và
đầu tư đến liên minh và bên thứ ba dựa trên những sự dàn xếp đối xử với
những cư dân người Hoa; và, ít nhất trong một số trường hợp, ảnh hưởng
đến tính cách và thành phần các chính phủ của họ. Bắc Kinh có thể không
tìm cách chinh phục hay trực tiếp kiểm soát về mặt vật chất đối với
những nước xung quanh nó, nhưng, nó chắc chắn đi tìm một hình thức bá
quyền khu vực, mặc dầu luôn mồm khẳng định ngược lại.
Trung
Hoa không phải là nước duy nhất có những tham vọng như thế. Trong suốt
lịch sử, đã có một tương quan chặt chẽ giữa việc lớn lên mau chóng của
cải vật chất và sức mạnh tiềm tàng của một nước, phạm vi địa lý của
những lợi ích của nó, tính dữ dội và đa dạng của những mối đe dọa đã
biết đối với những lợi ích đó, với mong muốn mở rộng các khả năng quân
sự và dùng ảnh hưởng lớn hơn để bào vệ chúng. Sự lớn mạnh có xu hướng
khuyến khích bành trướng, điều này dẫn đến mất an ninh, nuôi dưỡng ước
muốn có nhiều quyền lực hơn nữa. Mẫu hình này được thiết lập rất rõ
trong thời trung cổ. Samuel Huntington khi nhìn lại các thế kỷ mười chín
và hai mươi đã thấy rằng mọi cường quốc lớn khác, Anh và Pháp, Đức và
Nhật, Mỹ và Liên xô, đã gắn liền với sự bành trướng, yêu sách ra bên
ngoài, và chủ nghĩa đế quốc trùng khớp với hoặc tiếp ngay theo sau những
năm công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng.
2.Về
phần Trung Hoa, Huntington kết luận “không có lý do gì để nghĩ rằng
việc có được sức mạnh quân sự và kinh tế không có những tác động” lên
các chính sách của nó.
Tất nhiên hành
vi trong quá khứ của các nước khác có tính gợi mở, nhưng nó hầu như
không phải là một dẫn hướng dứt khoát đến tương lai. Đơn giản là vì các
cường quốc khác đã hành động theo những cách nhất định không nhất thiết
có nghĩa là Trung Hoa cũng sẽ làm như vậy. Có lẽ, trong một thế giới thị
trường toàn cầu và vũ khí hạt nhân, những nỗi lo sợ và những tham vọng
thúc đẩy các cường quốc nổi lên trước đây không còn mạnh mẽ như thế nữa.
Có lẽ các lãnh đạo Trung Hoa đã học được từ lịch sử rằng những cường
quốc mới nổi thường khuấy lên những bất đồng và chống đối.
Nhưng
Trung Hoa không phải là một cường quốc mới nổi bất kỳ nào, và lịch sử
của nó cung cấp thêm một lý do để tin rằng nó sẽ tìm một hình thức ưu
thắng trong khu vực. Nó là một dân tộc có một quá khứ lâu dài và tự hào
là một trung tâm chủ đạo của nền văn minh Đông Á, và gần đây hơn nó có
một kinh nghiệm ít vẻ vang hơn, về sự đô hộ và nhục nhã trong tay những
kẻ xâm lược nước ngoài. Như một số nhà sử học gần đây đã chỉ ra, Trung
Hoa không chỉ “nổi lên” mà nó còn trở về cái địa vị vượt trội trong khu
vực mà có thời nó đã giữ, mà các lãnh đạo và nhiều người trong số nhân
dân của nó vẫn nghĩ như thế là tự nhiên và thích hợp. Cái mong muốn
thiết lập lại hệ thống lấy Hán làm trung tâm có thể nhất quán với điều
mà nhà báo Martin Jacque mô tả như một giả định phổ biến về phần người
Trung Hoa, rằng địa vị tự nhiên của họ nằm ở trung tâm Đông Á, rằng nền
văn minh của họ không có ai trong khu vực sánh nổi, và rằng cái địa vị
xứng đáng của họ mà lịch sử ban cho, sẽ được khôi phục tại một thời điểm
nào đó trong tương lai.
Học giả bảo
thủ Yan Xuetong đặt vấn đề một cách ngắn gọn: Nhân dân Trung Hoa tự hào
về quá khứ vinh quang của đất nước mình và tin rằng việc nó rơi khỏi địa
vị ưu thắng là “một sai lầm lịch sử mà nó nên sửa chữa.” Đúng ra là
ngược lại, cái “thế kỷ nhục nhã” trong đó Trung Hoa yếu ớt và dễ bị tổn
thương càng làm cho việc theo đuổi quyền lực của nó thêm khẩn thiết. Đối
với một dân tộc với một lịch sử như của Trung Hoa, việc giành lại một
địa vị sức mạnh vô địch không được xem một cách đơn giản là vấn đề tự
hào mà đúng hơn như một điều kiện tiên quyết thiết yếu để tiếp tục lớn
lên, an ninh và, hoàn toàn hợp lý, sống còn.
Những
mẫu hình ngấm ngầm của chính sách vũ lực như thế đang đẩy Hoa kỳ và
Trung Hoa đến chỗ nghi ngờ và tranh đua, nếu không phải là nhất định
tiến đến xung đột công khai. Nhưng câu chuyện này không phải chỉ có thế.
Ngược với điều khẳng định của một số người có óc thực tế, các vấn đề tư
tưởng hệ ít nhất cũng quan trọng như vấn đề quyền lực trong việc quyết
định tiến trình của các quan hệ giữa các dân tộc. Cái sự kiện Hoa Kỳ là
một nền dân chủ tự do trong khi Trung Hoa vẫn còn dưới nền thống trị
toàn trị là một sức đẩy thêm rất mạnh cho đối kháng, một chướng ngại cho
ổn định và các quan hệ hợp tác, và tự nó là một nguồn gốc của thù địch
và nghi ngờ lẫn nhau.
Các quan hệ
giữa các xã hội dân chủ và không dân chủ luôn được thực hiện trong cái
mà nhà lý thuyết chính trị Michael Doyle mô tả là một “không khí hiềm
nghi” phần nào vì “nhận thức của các nước tự do rằng các nước không tự
do luôn ở trong một tình trạng xâm lược gây hấn chống lại chính nhân dân
của chúng.” Các nền dân chủ, nói ngắn gọn, xem các nước không dân chủ
là ít hợp pháp hơn bởi vì chúng không được hưởng sự đồng thuận được để
tự do của chính nhân dân của chúng. Trong thâm tâm, phần lớn các công
dân tự trị đơn giản không tin rằng tất cả các nước được tạo ra bình
đẳng, hay tin rằng họ có quyền được tôn trọng đến cùng mức độ như nhau,
bất kể họ bị cai trị như thế nào.
Nhìn
dưới ánh sáng này, những tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa trên những
vấn đề như kiểm duyệt và tự do tôn giáo không chỉ gây khó chịu ngoài mặt
có thể hóa giải hay rũ bỏ. Ngược lại chúng là triệu chứng của những khó
khăn sâu hơn nhiều. Đối với phần đông người Mỹ, sự vi phạm nhân quyền
của Trung Hoa không chỉ sai trái về thực chất, chúng còn là những dấu
hiệu của bản chất khó chịu về đạo đức của chế độ Bắc Kinh. Trong khi Hoa
Kỳ có thể quan hệ giao dịch với một chính phủ như vậy ít ra trên một số
vấn đề, thì cái khả thể của một quan hệ ổn định nồng ấm tin cậy là xa
vời, ấy là nói nhẹ nhất.
3.Các
xã hội dân chủ cũng có xu hướng coi các xã hội không dân chủ là vốn dĩ
không đáng tin và ngờ một cách nguy hiểm về xâm lược bên ngoài. Vì những
hành động của chúng được che giấu trong màn bí mật, nên những mưu toan,
và qui mô đầy đủ của những khả năng quân sự của những nước không dân
chủ rất khó nhận biết. Trong những năm gần đây, các quan chức Hoa Kỳ đã
thúc ép đối tác Trung Hoa của họ phải minh bạch hơn về các chương trình
quốc phòng, nhưng ít có hy vọng những yêu cầu này sẽ được đáp ứng theo
bất kỳ cách nào có ý nghĩa. Và thậm chí nếu Bắc Kinh bỗng nhiên xả ra
một trận lụt những sự kiện và những con số, thì các nhà phân tích Hoa Kỳ
sẽ nhìn chúng với thái độ nghi ngờ sâu sắc, xăm soi các dữ liệu để tìm
ra những dấu hiệu lừa dối và đánh lạc hướng. Và họ làm thế là đúng;
chính phủ Trung Hoa tập quyền và kiểm soát ngặt nghèo được đặt vào hoàn
cảnh tốt hơn nhiều để làm những âm mưu như thế, so với đối tác Hoa Kỳ
của nó, vốn phân quyền, công khai và hay để lộ bí mật.
Khả
năng giữ bí mật của các xã hội không dân chủ cũng khiến nó dễ dàng hơn
trong việc sử dụng vũ lực mà không báo trước. Kể từ 1949, các nhà cầm
quyền Trung Hoa đã bộc lộ một thiên hướng đặc biệt về tấn công bất ngờ
và đánh lừa. (Hãy nghĩ đến việc Bắc Kinh lao vào Chiến tranh Triều Tiên
tháng Chạp năm 1950, hay cuộc tấn công Ấn Độ của nó tháng Mười 1962.)
Cái khuynh hướng này có thể đã bắt rễ sâu trong văn hóa chiến lược Trung
Hoa từ thời Tôn Tử, nhưng nó cũng hoàn toàn nhất quán với tính cách của
chính sách đối nội đương thời của nó. Thật ra, đối với hầu hết các nhà
phân tích Hoa Kỳ, bản chất độc đoán của chính phủ Trung Hoa là mối lo
ngại lớn hơn nhiều so với văn hóa của nó. Nếu Trung Hoa là một xã hội
dân chủ, những nền tảng văn hóa xã hội sâu xa của chiến lược và hành vi
chính trị của nó có thể ít thay đổi, nhưng các nhà vạch kế hoạch của Hoa
Kỳ có thể đỡ lo lắng hơn nhiều rằng một ngày nào đó nó có thể thử một
đòn tấn công sấm sét lên các lực lượng và các căn cứ Hoa Kỳ ở tây Thái
Bình Dương.
Những nỗi lo xâm lược như
thế đang dâng cao bởi một nhận biết rằng lo lắng về thiếu tính hợp pháp
bên trong có thể khiến các nước không dân chủ cố gắng lái chệch nỗi
thất vọng và bất bình của dân chúng sang các kẻ thù bên ngoài. Chẳng hạn
một số nhà quan sát phương Tây lo ngại rằng nếu nền kinh tế Trung Hoa
vấp ngã, các nhà cầm quyền của nó có thể đổ lỗi cho nước ngoài và thậm
chí ngụy tạo ra những cuộc khủng hoảng với Đài Loan, Nhật Bản hoặc Hoa
Kỳ để tập hợp nhân dân của họ và làm chuyển hướng cơn giận dữ của dân
chúng. Dù Bắc Kinh định làm gì, thì những cuộc đối đầu như thế có thể dễ
dàng văng ra khỏi tầm kiểm soát. Các lãnh đạo dân chủ khó lòng tránh
khỏi sự cám dỗ [lao vào] những cuộc phiêu lưu nước ngoài. Tuy nhiên, vì
sự đặt cược cho họ thấp hơn nhiều (bị bỏ phiếu bất tín nhiệm chứ không
phải bị lật đổ hay thậm chí ngồi tù, hoặc xấu hơn), ít có khả năng họ
lao vào những mạo hiểm cùng cực để cố níu giữ lấy quyền lực của mình.
Sự
nghi ngờ giữa Washington và Bắc Kinh không phải một chiều – và với
những lý do chính đáng. Các nhà cầm quyền hiện nay của Trung Hoa không
như trước đây tự coi mình là những lãnh đạo của phong trào cách mạng thế
giới, tuy nhiên họ vẫn tin rằng họ bị lôi kéo vào một cuộc đấu tranh ý
thức hệ, mặc dù trong cuộc đấu tranh đó, cho đến thời gian gần đây họ đã
hầu như chỉ hoàn toàn ở thế phòng thủ. Trong khi họ coi mối quan tâm
của Washington về nhân quyền các quyền tự do cá nhân là vô liêm xỉ và cơ
hội, các nhà lãnh đạo Trung Hoa không nghi ngờ gì rằng Hoa Kỳ được thúc
đẩy bởi nhiệt tình tư tưởng chân chính. Được nhìn từ Bắc Kinh,
Washington là một cường quốc nguy hiểm, viễn chinh, tự do và nửa đế quốc
chủ nghĩa, nó không yên chừng nào nó chưa áp đặt được các quan điểm của
nó và lối sống của nó lên toàn hành tinh. Ai chưa nắm được cái nhu cầu
này của nó chỉ cần đọc những diễn văn của các quan chức Mỹ với những lời
hứa hẹn mở rộng tầm ảnh hưởng của dân chủ và loại trừ chuyên chế bạo
quyền ra khỏi thế giới.
Thật ra, vì
khuynh hướng tư tưởng mà Hoa Kỳ nghi ngờ và thù địch Trung Hoa nhiều hơn
là vì riêng các lý do chiến lược, nó cũng có xu hướng làm mạnh hơn ở
Washington ý muốn sẵn sàng giúp các nền dân chủ khác khi họ cảm thấy bị
đe dọa bời sức mạnh Trung Hoa, ngay cả khi điều này không phải là những
gì mà những tính toán chính trị thực dụng thuần túy về những lợi ích của
nó dường như đòi hỏi. Như vậy sự giúp đỡ kiên trì – thật ra là đang sâu
thêm – cho Đài Loan trong những năm 1990 không thể giải thích được nếu
không tham chiếu sự kiện là hòn đảo này đã phát triển lên từ một thành
trì chuyên chế của phe chống cộng thành một nền dân chủ tự do. Bỏ đi
những liên hệ cuối cùng của Hoa Kỳ với Đài Loan sẽ gỡ bỏ nguồn gây xích
mích chủ yếu với Trung Hoa và một nguyên nhân tiềm tàng của chiến tranh.
Một động thái như thế thậm chí vẫn có thể hiểu được nếu Đài Loan vẫn
còn hiện ra trong mắt nhiều người Mỹ như nó đã hiện ra trong những năm
1970, như một nền độc tài tham nhũng và xâm lược. Nhưng sự kiện là Đài
Loan ngày nay được coi như nền dân chủ chân chính (nếu không hoàn thiện)
sẽ khiến Washington vô cùng khó khăn ngay cả trong việc sẵn sàng cắt
đứt với nó.
Sau khi theo dõi Mỹ đánh
đổ Liên Xô thông qua sự kết hợp giữa đối đầu và lật đổ, từ cuối Chiến
tranh Lạnh các nhà chiến lược Trung Hoa đã sợ rằng Washington có ý định
làm như thế với họ. Niềm tin này làm méo mó nhận thức của Bắc Kinh về
hầu như mọi khía cạnh của chính sách Hoa Kỳ đối với nó, từ nhiệt tình
giao hảo về kinh tế đến những cố gắng nhằm cổ võ sự phát triển hệ thống
pháp luật của Trung Hoa. Nó cũng định hướng sự đánh giá của ban lãnh đạo
về những hoạt động của Mỹ trên khắp châu Á, mà Bắc Kinh tin là nhằm bao
vây nó bằng những nước dân chủ ủng hộ Mỹ, và điều đó thâm nhập vào các
chính sách của chính Trung Hoa chống lại ảnh hưởng ấy.
4.Vì
Trung Hoa nổi lên trên vũ đài thế giới, nó đang trở thành nguồn cảm
hứng và trợ giúp vật chất cho các nền độc tài đang lâm trận ở Trung
Đông, châu Phi và châu Mỹ Latin cũng như châu Á – các đấu thủ chống dân
chủ được coi là hướng đến đống rác lịch sử sau khi Liên Xô sụp đổ. Người
Mỹ có thể từ lâu đã tin rằng tăng trưởng đòi hỏi tự do lựa chọn trong
địa hạt kinh tế (điều được giả định là nhất định dẫn đến mở rộng các
quyền tự do chính trị), nhưng, ít nhất vào lúc này, lục địa này đã pha
trộn thành công nền cai trị độc tài với kinh tế thị trường. Nếu nó đi
đến chỗ được coi như đưa ra một mô hình phát triển thay thế, sự tiếp tục
lớn lên của Trung Hoa dưới nền cai trị chuyên chế có thể làm phức tạp
và làm chậm lại những cố gắng lâu dài của Hoa Kỳ khuyến khích mở rộng
các thiết chế chính trị tự do trên khắp thế giới.
Nỗi
sợ rằng Hoa Kỳ mưu mô thay đổi chế độ cũng đang đóng một vai trò ngày
càng quan trọng trong việc vạch chính sách của Trung Hoa đối với các
nước ở những nơi khác trên thế giới. Nếu Hoa Kỳ có thể ép buộc và có lẽ
hạ bệ các lãnh đạo hiện nay ở Venezuela, Zimbabwe và Iran, nó có thể
được khuyến khich trong những cố gắng làm cái gì đó tương tự với Trung
Hoa. Bằng cách giúp cho những chế độ này sống còn, Bắc Kinh có được
những bạn bè và đồng minh cho những cuộc đấu tương lai, làm yếu đi cái
nhận thức rằng dân chủ đang trên đường tiến lên và làm chệch một số năng
lực phi thường của Hoa Kỳ khỏi bản thân nó. Những cố gắng của
Washington làm cô lập, ép buộc và có thể làm xói mòn những nhà nước
chuyên chế “tàn độc” (như Iran và Bắc Triều Tiên) đã bị làm cho phức tạp
nếu không nói là thất bại, bởi sự sốt sắng của Bắc Kinh gắn kết với
chúng. Đồng thời, tất nhiên, những hành động của Trung Hoa cũng làm tăng
cao mối lo ngại ở Washington về những động cơ và những dự định của nó,
bằng cách đó đổ thêm dầu vào ngọn lửa đua tranh.
Cũng
rất có thể là bất kỳ một sức mạnh đang lớn lên nào trong lập trường địa
chính trị của Bắc Kinh sẽ tìm ảnh hưởng quan trọng trong vùng láng
giềng liền kề với nó. Cũng có thể là thật, dưới ánh sáng của lịch sử của
nó, và bất chấp nó được cai trị như thế nào, Trung Hoa sẽ đặc biệt quan
tâm đến việc tự khẳng định mình và được các láng giềng thừa nhận là
đứng đầu giữa những kẻ ngang hàng. Nhưng chính đặc điểm của chính trị
trong nước cuối cùng sẽ là quyết định trong việc xác định chính xác nó
hạn định những mục tiêu bên ngoài của nó như thế nào, và nó làm thế nào
để theo đuổi chúng.
Như Ross Terrill
của Trung tâm Fairbank Đại học Harvard đã chỉ ra, khi chúng ta nói về
các ý định hay chiến lược của Trung Hoa, chúng ta thật sự đang nói về
các mục tiêu và kế hoạch của các lãnh đạo chóp bu hiện nay của nó, như
ông mô tả họ, “chín nhà thiết kế làm thành Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Trung quốc.” Mọi điều chúng ta biết về những người này
gợi lên rằng họ được thúc đẩy trên hết bởi niềm tin của họ về sự cần
thiết của việc duy trì sự cầm quyền của CCP (Đảng Cộng sản Trung quốc).
Theo một nghĩa nào đó, điều này hoàn toàn là một vấn đề tự lợi. Những
lãnh đạo hiện nay và gia đình họ được hưởng những đặc quyền và các cơ
hội mà những người khác trong xã hội Trung Hoa bị từ chối, và các nguồn
của quyền lực chính trị được lấy trực tiếp từ giới thân cận của họ. Sự
kết thúc nhiều thập kỷ ngự trị của CCP sẽ có những hậu quả ngay lập tức,
đau đớn và có lẽ bi thảm đối với những người đang ở trên đỉnh cao của
hệ thống. Những ngôi sao đang lên hy vọng một ngày nào đó sẽ chiếm những
vị trí này và ngay cả những quan chức nhỏ với những tham vọng khiêm tốn
có lẽ cũng sẽ làm những phép toán tương tự. Sự hội tụ quyền lợi cá nhân
này và một cảm giác chung số phận đem đến cho nhà nước-đảng này một sự
dính kết không thể thiếu. Các đảng viên biết rằng nếu họ không đoàn kết
với nhau họ rất có thể gặp nguy hiểm riêng rẽ – và điều hiểu biết này
thấm nhuần suy nghĩ của họ trên mọi vấn đề họ đối mặt.
Nhưng
động cơ để CCP tiếp tục cầm quyền không chỉ có gốc rễ trong tự lợi.
Giới lãnh đạo chân thành sâu xa trong niềm tin của họ vào những thành
tựu quá khứ và sự cần thiết không thể thiếu được của đảng trong tương
lai. Dù sao, chính đảng cộng sản Trung Quốc đã cứu Trung Hoa khỏi xâm
lược nước ngoài, đã đưa nó ra từ một thế kỷ bị áp bức và nhục nhã, và
nâng nó lên hàng những cường quốc lớn nhất thế giới. Trong con mắt của
những lãnh đạo của nó, và một bộ phận nhân dân Trung Hoa, những thành
tựu này tự bản thân chúng đã cho CCP thẩm quyền đạo đức vô song và hợp
pháp hóa sự cầm quyền của nó.
Nhìn về
phía trước, các quan chức đảng tin rằng tất cả họ đang đứng giữa một
bên là tiếp tục ổn định, thịnh vượng, tiến bộ và vươn lên tầm vĩ đại
không thể chặn lại, và một bên là quay trở lại hỗn loạn và yếu ớt. Như
một phân tích của hồ sơ cá nhân bí mật bị rò rỉ của “thế hệ thứ tư” các
lãnh đạo Trung Hoa hiện nay (với Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, và
Giang Trạch Dân là ba thế hệ lãnh đạo đầu) của các nhà Hán học Andrew
Nathan và Bruce Gilley kết luận rằng, về vấn đề này, không có dấu hiệu
bất đồng hay nghi ngờ. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, các đồng nghiệp của ông và
những người có khả năng kế tục ông nhận rõ nhiều thách thức bên trong và
bên ngoài họ đang phải đối mặt, nhưng họ tin rằng họ và chỉ có họ mới
có thể tìm ra giải pháp cần thiết để giữ cho đất nước của họ tiến lên và
làm cho nó có thể giành được số phận của nó. Quả thật, họ tin rằng
chính tầm cỡ và sự phức tạp của những vấn đề đang đối diện với Trung Hoa
làm cho việc tiếp tục cầm quyền của họ là tuyệt đối cần thiết.
5.Ước
muốn của đảng tiếp tục cầm quyền định hướng cho mọi khía cạnh của chính
sách quốc gia. Khi động đến vấn đề đối ngoại, nó muốn nói rằng mục đích
cuối cùng của Bắc Kinh là “làm cho thế giới an toàn cho chủ nghĩa độc
đoán” hay ít nhất để tiếp tục sự cai trị một đảng ở Trung Hoa. Trong
nhiều thập kỷ gần đây, sự tập trung vào an toàn của chế độ đã dẫn đến,
trước hết, đến việc duy trì những điều kiện quốc tế cần thiết để tiếp
tục tăng trưởng kinh tế. Khả năng của đảng tạo ra sự cải thiện nhanh
chóng về thu nhập và phúc lợi cá nhân là thành tựu thật nhất trong ba
mươi năm qua và là nguồn gốc của những đòi hỏi mạnh nhất của nó về lòng
biết ơn và trung thành của nhân dân Trung Hoa. Đồng nghiệp Thomas
Christensen của tôi ở Princeton lập luận rằng, tăng trưởng kinh tế “tạo
ra sự thỏa mãn và xao lãng của dân chúng, và, do đó thu được sự ủng hộ
trong nước đối với Đảng (hay ít nhất cũng làm giảm sự tích cực chống
đối)” Tăng trưởng còn tạo ra thu nhập mà chính phủ có thể dùng để “mua
chuộc đối lập và tài trợ cho những địa phương nghèo hơn và các vùng dân
tộc thiểu số để cố gắng ngăn ngừa những cuộc nổi dậy bạo lực.”
Vì
Trung hoa đã trở nên giầu hơn và mạnh hơn, sự theo đuổi an ninh của nó
cũng đã dẫn nó đi tìm biện pháp tăng cường kiểm soát đối với thế giới
nằm bên ngoài những đường biên giới của nó. Sức đẩy ra ngoài này có cả
động cơ tấn công và phòng thủ. Là người quản trị sự vĩ đại của dân tộc,
đảng có trách nhiệm đưa Trung Hoa trở về vị trí đúng của nó ở trung tâm
của châu Á. Sự chiều ý rõ ràng của những nước khác sẽ cung cấp bằng
chứng về sự thành công của chế độ trong khía cạnh này và sẽ giúp củng cố
tính hợp pháp của nó ở trong nước. Đặc biệt nếu tăng trưởng kinh tế có
thể vấp ngã, thì sự “đứng lên” trước kẻ thù truyền thống và giải quyết
vấn đề Đài Loan và các cuộc tranh chấp khác theo quan điểm của Bắc Kinh
dễ trở thành những phần quan trọng trong chiến lược của CCP để duy trì
sự nắm quyền của nó. Các lãnh đạo Trung Hoa tin rằng đất nước họ càng tỏ
ra mạnh ở bên ngoài, thì chế độ của họ sẽ càng mạnh ở trong nước.
Ngược
lại, vẻ ngoài yếu ớt và nhận thức phổ biến rằng nước này đã bị thất bại
hay bị khinh miệt có thể là cực kỳ nguy hiểm đối với tiền đồ tiếp tục
cầm quyền của đảng. Những lo lắng ngấm ngầm về tính hợp pháp của nó
khiến chế độ nhạy cảm hơn với sự khinh miệt và thất bại, và thậm chí
kiên quyết hơn trong việc ngăn chặn những thách đố và tránh thất bại. Sự
bảo đảm tốt nhất chống lại những nguy cơ như thế đối với Trung Hoa là
tích lũy một ưu thế sức mạnh áp đảo trong khu vực láng giềng của nó.
Hơn
nữa, sự nhạy cảm quá đáng của CCP đối với những gì nó coi là “chủ nghĩa
ly khai” là một kết quả trực tiếp của niềm tin của nó rằng nó phải duy
trì kiểm soát tập trung ở mọi nơi mọi lúc. Yêu cầu tự trị nhiều hơn ở
Tây Tạng và Tân cương như vậy được xem như mối đe dọa khủng khiếp đối
với thống nhất quốc gia và như vậy đối với sự tiếp tục cầm quyền của
đảng. Chế độ tin rằng nếu nó buông lơi dù chỉ một chút sự nắm chặt của
nó thì cả nước sẽ vỡ tung ra. Các lãnh đạo Trung Hoa thấy cần thiết phát
triển đủ sức mạnh để ngăn chặn các nước láng giềng của nó khỏi cung cấp
viện trợ và nhu yếu cho các nhóm ly khai và sẽ tạo ra những khả năng để
can thiệp trực tiếp nhằm ngăn chặn chúng, nếu điều đó trở nên cần
thiết.
Ngay cả khi nó đã mạnh hơn và
trong một số khia cạnh nào đó, tự tin hơn, CCP tiếp tục lo sợ sự ô nhiễm
tư tưởng. Các nước dễ bảo và có cùng khuynh hướng dọc theo biên giới
của nó có thể giúp Bắc kinh đối phó với nguy cơ này hơn là những nền dân
chủ tự do có quan hệ chặt chẽ với phương Tây. Ý muốn ra tay trước để
ngăn chặn “diễn biến hòa bình” cho chế độ một lý do thuyết phục hơn để
muốn định hướng sự phát triển chính trị của các láng giềng của nó.
Tóm
lại: những người cầm quyền hiện nay ở Trung Hoa tìm kiếm ưu thế, không
chỉ vì họ là lãnh đạo của một cường quốc đang lên hay đơn giản họ là
người Trung Hoa. Mong muốn của họ thống trị và kiểm soát ở một mức độ
lớn là một sản phẩm phụ của loại hệ thống chính trị mà họ là chủ. Một
Trung Hoa dân chủ tự do mạnh chắc chắn sẽ tìm kiếm một vai trò lãnh đạo
trong khu vực của nó và có lẽ một quyền phủ quyết hiệu quả đối với những
sự phát triển mà nó thấy là thù địch với những lợi ích của nó. Nhưng nó
cũng sẽ ít sợ hãi về sự mất ổn định bên trong, it bị đe dọa bởi sự hiện
diện của các nước láng giềng dân chủ, và cũng ít ngả về tìm kiếm tính
hợp pháp trong nước thông qua sự chi phối và lệ thuộc của những nước
khác.
Mặc dầu không phải tất cả mọi
người đều tin như thế, nhưng một nước Trung Hoa dân chủ hơn cuối cùng sẽ
tạo ra một môi trường hòa bình hơn, ít ngả về chiến tranh hơn ở châu Á.
Theo quan điểm của nhiều người có đầu óc thực tế, những cải cách trong
nước sẽ chỉ làm cho Bắc Kinh thêm giầu hơn, mạnh hơn và vì vậy là một
đối thủ cạnh tranh có uy lực hơn mà không làm nó chệch khỏi ý muốn chi
phối Đông Á và giải quyết những tranh cãi với một số láng giềng của nó.
Có một sự thật chắc chắn rằng ngay cả nếu trong dài hạn, Trung Hoa trở
thành một nền dân chủ hòa bình và ổn định đi nữa thì cuộc chuyển đổi của
nó cũng sẽ đầy chông gai. Việc mở cửa hệ thống chính trị của đất nước
cho những bất đồng và tranh luận dễ đưa một yếu tố bất ổn vào chính sách
đối ngoại của nó khi các tiếng nói khác được nghe và các lãnh đạo đầy
tham vọng tranh giành nhau sự ủng hộ của dân chúng. Như một nhà quan
sát, nhà kinh tế học David Hale buồn bã chỉ ra: “Một nước Trung Hoa độc
tài có thể dễ dàng đoán trước. Một nước Trung Hoa mở cửa và dân chủ hơn
có thể sinh ra những bất trắc mới trong cả chính sách đối nội và các
quan hệ quốc tế.”
6.Chủ
nghĩa dân tộc, có lẽ dưới dạng độc hại và hung hăng nhất của nó, là một
nhân tố có thể đóng vai trò nổi bật trong việc định hướng chính sách
ngoại giao của một Trung Quốc (Middle Kingdom – vương quốc ở giữa) tự do
hóa. Nhờ có sự lan tràn của mạng lưới Internet và nới lỏng kiềm chế
trên ít nhất một số dạng biểu hiện chính trị của “lòng yêu nước”, chế
độ hiện nay đã thấy mình là đối tượng phê phán bất cứ khi nào nó giữ lập
trường mà một số “cư dân mạng” cho là dễ dãi quá đáng đối với Nhật Bản,
Đài Loan và Hoa Kỳ. Bắc Kinh lâu lâu lại tìm cách khuấy động tình cảm
yêu nước, nhưng, sợ rằng cơn giận dữ đối với các nước ngoài cũng có thể
dễ dàng quay trở lại chống lại đảng, chế độ cũng đã hết sức giữ gìn
những cơn cuồng nhiệt của quần chúng trong vòng kiểm soát. Một chính phủ
được bầu ra một cách dân chủ có thể ít rụt rè hơn nhiều. Nhà khoa học
chính trị Fei Ling Wang cho rằng một chế độ hậu cộng sản thực tế sẽ mạnh
hơn trong việc đòi chủ quyền đối với Đài Loan, Tây Tạng và Biển Nam
Trung Hoa. Như ông giải thích:
Một
chế độ ”dân chủ” ở Bắc Kinh, thoát khỏi những nỗi lo lắng làm suy nhược
về sự sống còn của chính nó nhưng chắc chắn sẽ bị lôi kéo bởi những tình
cảm của dân chúng, có thể làm cho cường quốc Trung Hoa đang lên thành
một sức mạnh quả quyết, nôn nóng, tham chiến và hung hăng hơn, ít nhất
trong thời kỳ bất ổn leo nhanh lên vị trí của một cường quốc đẳng cấp
thế giới.
Điều cuối cùng là chủ chốt.
Ngay cả những người tin tưởng nhất vào những tác động làm hòa dịu của
quá trình dân chủ hóa cũng thừa nhận khả năng của một cuộc chuyển đổi
hỗn loạn. Trong tác phẩm Tương lai Dân chủ của Trung Hoa, Bruce Gilley
thừa nhận rằng các cuộc cách mạng dân chủ trong các nước khác đã luôn
luôn dẫn đến bùng nổ các cuộc xâm lược nước ngoài, và ông nhận xét rằng
từ đầu thế kỷ hai mươi, phong trào ủng hộ dân chủ ở Trung Hoa cũng có
tính dân tộc chủ nghĩa cao độ. Bất chấp những tiền lệ này, Gilley tiên
đoán rằng sau một quãng cách có lẽ một thập kỷ, một nước được chuyển đổi
sẽ yên hàn đi vào những mối quan hệ hợp tác và ổn định hơn với Hoa Kỳ
cũng như với các nước dân chủ láng giềng của nó.
Tất
nhiên một kết quả như thế không hề là chắc chắn, và phụ thuộc vào những
sự kiện và những tương tác khó biết trước và thậm chí khó kiểm soát.
Nếu những va chạm ban đầu giữa một nền dân chủ non trẻ và những đối tác
được thiết lập tốt hơn của nó bị xử lý tồi dẫn đến một cuộc xung đột vũ
trang thật sự, lịch sử có thể xoay sang những hướng rất khác và ít hứa
hẹn hơn nhiều [so với] nếu chúng được giải quyết thỏa đáng. Tuy nhiên,
giả sử cuộc chuyển đổi có thể được dẫn hướng không gây ra thảm họa, có
đầy đủ lý do để tin rằng các quan hệ sẽ được cải thiện với thời gian.
Một người Trung Hoa ủng hộ cải cách chính trị, Liu Junning, đã tổng kết
tóm tắt rõ ràng các viễn cảnh. Trong khi một nước Trung Hoa “dân tộc chủ
nghĩa và độc tài” sẽ là một mối đe dọa đang hiện hình,” thì một nước
Trung Hoa dân chủ, tự do cuối cùng sẽ chứng tỏ là một “đối tác xây
dựng.”
Điều hy vọng này không phải
chỉ bắt nguồn từ lối suy nghĩ mơ tưởng. Khi các giá trị và các thiết chế
của dân chủ tự do trở nên được bảo vệ vững chắc hơn, sẽ bắt đầu có cuộc
tranh biện công khai và mang ý nghĩa chính trị và cuộc tranh đua thật
sự các mục tiêu quốc gia và sự phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia.
Các nhà lãnh đạo có tham vọng và những người tạo dư luận bận tâm với uy
tín, danh dự, quyền lực và thanh toán nợ nần sẽ phải cạnh tranh với
những người khác, nhấn mạnh đến tính ưu việt của sự ổn định quốc tế, hợp
tác, hòa giải và thúc đẩy tăng tiến phúc lợi xã hội. Những yêu cầu của
quân đội và những liên minh công nghiệp của nó sẽ được đối trọng, ít
nhất đến một mức độ nào đó, bởi các nhóm muốn chi tiêu nhiều hơn vào
giáo dục y tế và chăm sóc người già. Phiên bản dân tộc chủ nghĩa thái
quá và quyết đoán của lịch sử Trung Hoa và những nỗi bất bình của nó sẽ
bị thách thức bởi những quan điểm thừa nhận sự có tội của chế độ cũ
trong việc đàn áp các dân tộc thiểu số và từ chối tìm kiếm sự dàn xếp
trên các vấn đề chủ quyền. Một giàn lãnh đạo bị ám ảnh với sự sống còn
của chính nó và với những mối đe dọa từ các cường quốc bên ngoài sẽ được
thay thế bởi một chính phủ vững vàng trong tính hợp pháp của nó và
không có lý do gì để sợ hãi rằng các nền dân chủ trên thế giới đang tìm
cách bao vây và lật đổ nó.
Một nước
Trung Hoa dân chủ có thể sẽ thấy dễ dàng sống hòa thuận với Nhật Bản, Ấn
Độ, và Nam Triều tiên, cùng nhiều nước khác. Sự tin cậy và tôn trọng
lẫn nhau cuối cùng lớn lên giữa các nước dân chủ và xua tan nỗi sợ rằng
người ta sẽ dùng sức mạnh chống lại nhau, sẽ làm tăng lợi thế của việc
đạt được những dàn xếp thông qua thương lượng đối với những tranh chấp
về biên giới, biển đảo và các nguồn tài nguyên. Một chính phủ dân chủ ở
Bắc Kinh cũng sẽ đồng ý với một cơ hội tốt hơn để đạt được một giải pháp
hai bên cùng chấp nhận cho sự xa cách sáu mươi năm với Đài Loan. Trái
với những nhà cầm quyền CCP hiện nay, một chế độ ở lục địa được dân bầu
sẽ có ít cái để được nhờ duy trì những cuộc xung đột, nó sẽ có nhiều khả
năng bày tỏ sự tôn trọng đối với một chính phủ dân chủ khác được ưa
thích hơn, và nó cũng sẽ hấp dẫn hơn đối với nhân dân Đài Loan như một
đối tác trong một số kiểu bố trí liên bang có thể sẽ thỏa mãn những
mong muốn và xoa dịu những nỗi sợ hãi của cả hai bên.
Chừng
nào mà Trung Hoa còn được cai quản như hiện nay, thì sự lớn lên của sức
mạnh của nó còn đặt một thách thức sâu xa lên các quyền lợi của Hoa Kỳ.
Nếu họ muốn ngăn chặn xâm lược, ngăn cản áp bức và duy trì một trật tự
mở, đa phương thì Washington và các nước bạn và đồng minh của nó sẽ phải
hành động tích cực hơn, và hợp tác chặt chẽ hơn, để duy trì sự cân bằng
thuận lợi của sức mạnh trong khu vực. Trong dài hạn, Hoa Kỳ có thể học
cách sống với một nước Trung Hoa dân chủ như một cường quốc vượt trội ở
Đông Á, như nước Anh đã đi đến chấp nhận Hoa Kỳ như một cường quốc vượt
trội ở Tây Bán cầu. Từ nay đến ngày đó, Washington và Bắc Kinh sẽ vẫn
còn bị hãm trong một cuộc đấu tranh ngày càng mãnh liệt để giành ngôi
bá chủ ở châu Á.
Nguồn: National Interest, 21/6/2011,
http://www.pagewash.com//nph- index.cgi/000010A/uggc:/=
© Hiếu Tân
(Bản tiếng Việt)
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment