Nguyễn Hoàng Hà - Mấy
tuần qua báo chí Trung Quốc và Hongkong liên tục đăng tin về vấn đề viển
Đông và đều đổ lỗi cho Việt Nam đã là kẻ giám cả gan chống lại một
Trung Quốc vĩ đại và không quên nhắn gửi những lời đe dọa như cấm vận
kinh tế hay sẽ cho Việt Nam thêm bài học v.v… và v.v…
trong khi đó báo
chí quốc tế là khu vực lại hoan nghênh những chính sách ngoại giao mền
dẻo và mới đây trước sự hung hăng của phía Trung Quốc cho tầu Ngư giám
và các tầu quân sự trá hình tầu đánh cá cắt cáp thăm dò của các tầu Việt
Nam trong khu vực chủ quyền lãnh hải của mình thì thái độ cứng rắn cần
thiết để tỏ rõ ý chí thái độ của mình. Điều đáng nói chính là báo chí
Trung Quốc đã giấu giếm không hề công bố về lịch sử những gì đã diễn ra ở
khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam mà lại hướng dư luận Trung Quốc
vào tinh thần đại Hán, nước lớn cho rằng Việt Nam ngang ngược chiếm đảo
biển của họ. Vì thế, cần phải nhắc lại những gì mới xẩy ra hôm qua cho
người dân Trung Quốc hiểu đâu là sự thật.
Trung Quốc từ cuộc chiến xâm lược đảo biển đến ý đồ hợp thức hóa chủ quyền không hề có của mình ở khu vực này
Thực
ra để thực hiện ý đồ bành trướng và thâu tóm biển Đông của Trung Quốc
đã có từ rất lâu, ngay khi Việt Nam đang trong cơn giao tranh quyết liệt
giai đoạn cuối những năm 1973-1975 thì họ đã đưa tầu chiến ra xâm lược
chiếm các đảo Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam lúc đó do Việt Nam cộng
hòa cai quản. Cuộc đổ máu để giữ đảo biển của Việt Nam đầu tiên đã xẩy
ra là ngày Ngày 19 tháng Giêng 1974 bằng trận Hải chiến với Trung Quốc
dù lúc đó thế lực nghiêng về phía Bắc kinh gấp rất nhiều lần. Người
lính hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã chọn cuộc tử chiến với Trung Cộng,
thể hiện tinh thần người Việt Nam không chịu để một tấc đất của tổ tiên
mất vào tay giặc và họ đã hy sinh anh dũng để lại tấm gương bất tử cho
đời. Vì thế trận không cân bằng nhưng sự hy sinh anh dũng ấy của những
người con Việt đã tạo một bằng cớ lịch sử, pháp lý quốc tế rằng Trung
Quốc đã cưỡng chiềm lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam, là tiền đề quan
trọng để chánh quyền trong tương lai có chứng lý đòi hỏi lại.
Trong
trận chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988, Việt Nam bị thiệt hại 3 tàu bị bắn
cháy và chìm, 3 người tử trận, 11 người khác bị thương, 70 người bị mất
tích. Sau này Trung Quốc đã trao trả cho phía Việt Nam 9 người bị bắt,
61 người vẫn mất tích và được xem là đã tử trận. Việt Nam bảo vệ được
chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao. Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma từ
ngày 16 tháng 3 năm 1988 và vẫn giữ cho đến nay. Trong năm 1988, Hải
quân Việt Nam đưa quân ra đóng giữ tiếp 11 bãi đá ngầm khác. Ngày 17
tháng 10, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ký văn bản 19/NQ-TƯ về việc bảo vệ
khu vực bãi ngầm trong thềm lục địa phía Nam (khu DK1). Ngày 5 tháng 7
năm 1989, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 180UT về việc xây dựng cụm
dịch vụ kinh tế – khoa học – kỹ thuật thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (DK1),
xác định lại chủ quyền Việt Nam đối với khu vực thềm lục địa này. Từ
tháng 6 năm 1989, Hải quân Việt Nam bắt đầu đóng giữ các bãi đá ngầm: Tư
Chính, Phúc Nguyên, Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Dương, Ba Kè. Và nguyên
nhân chính là sau khi chiếm được các đảo của Việt Nam Trung Quốc đã
nhanh tay vào thăm dò và khai thác dầu khí tại đây với danh nghĩa đưa
phái đoàn khoa-học Liên hợp quốc đi khảo sát. Sau này liên Hợp Quốc
khẳng định rõ là họ không có công tác khảo sát nào ở Trường Sa. Vào
tháng 4 năm 1988, Trung Quốc cũng đã thông qua một nghị quyết thành lập
tỉnh Hải Nam, trong đó bao gồm những đảo đã chiếm được qua các trận hải
chiến trước đó và cả Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc chủ quyền và canh
giữ của Việt Nam. Với sự đòi hỏi không biết đủ của cỗ xe kinh tế Trung
Quốc về nguyên liệu dầu hỏa, dầu khí và bằng khoa học hiện đại Trung
Quốc đã thấy hầu như nguồn dầu khí lớn đều nằm ở khu vực chủ quyền của
Việt Nam nên họ không từ bất kỳ thủ đọa nào nhằm thâu tóm cướp đảo biển
của Việt Nam và hy vọng sẽ nhanh chóng hợp thức hóa chủ quyền của họ ở
khu vực này.
Thủ đoạn cướp biển đảo bằng gây hấn dùng vũ lực cùng hành động tăng cường lực lượng quốc phòng và đe dọa, la làng
Trung
Quốctừ các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước cho đến các lãnh
đạo tham tán đại sứ quán Trung Quốc tại Hà nội mỗi khi nói đến tranh
chấp về chủ quyền đảo biển thì đều nói rằng “ với truyền thống hữu nghị
giữa hai Đảng hai Nhà nước chúng ta đều có thể vượt qua những khác biệt
để giải quyết vấn đề này một cách công bằng có lý có tình ” nhưng trong
các cuộc đàm phán thì lại luôn đưa ra những lập luận rất vô lý là “
chúng tôi khẳng định chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc về lãnh
hải đảo biển về Hoàng sa và Trường sa” rồi kéo chây cho đến nay đã hơn
20 năm trôi qua mà không tiến triển được bước nào. Trái lại họ dựng kịch
câu giờ để có thời gian vàng cho chuẩn bị sức mạnh quân sự chiếm đóng
và hợp thức hóa những gì họ thôn tính được cửa Việt Nam về đảo, biển. Do
thái độ ngang ngược đó việc đàm phán song phương tất yếu sẽ phải đổ vỡ
và các khẩu hiệu hữu nghị không còn đủ sức du ngủ những nhà đàm phán của
Việt Nam, nhất là khi Trung Quốc ngày càng đầu tư tiền của khổng lồ cho
việc tân trang quân đội từ tầu ngầm các loại lớn nhỏ tàng hình cho đến
các tuần dương hạm khổng lồ, các khu trục hạm được trang bị vũ khí tối
tân nhất và đặc biệt là các loại máy bay hiện đại tàng hình v.v…để đạt
được mục tiêu thôn tính biển đông theo ý đồ đãvạch sẵn, bất chấp sự lên
án của quốc tế và các nước trong khu vực đang có tranh chấp trong đó có
Việt Nam. Đặc biệt nguy hiểm là họ đã đưa các tầu chiến cũ tân trang lại
dưới bỏ bọc là tầu đánh cá để xâm nhập sâu vào vùng biển 200 hải lý
thuộc chủ quyền của Việt Nam và Philipine phá rối sự làm ăn của ngư dân
các nước này đang đánh bắt cá trên chính vùng biển của mình và tấn công
đe dọa cả các tầu của các quốc gia này đang thăm dò đại dương gây nên
tình trạng căng thẳng như báo chí Việt Nam và quốc tế đã đưa tin. Do
vậy, cho đến lúc này phía Việt Nam không thể còn đủ sự nhẫn chịu quá mức
giới hạn nên từ những đấu tranh trên diễn đàn ngoại giao mà người ta đã
thấy Việt Nam đã rất thành công trong việc tổ chức các hội nghị quốc tế
về biển tại Hà nội hay trên các diễn đàn khu vực hau quốc tế và ngày
càng nhiều các quốc gia đã thấy bản chất của sự việc thấy được thiện chí
của Việt Nam và những tham vọng vô lý của Trung Quốc, một quốc gia
không có bờ biển mà đòi chủ quyền đến 80 % diện tích biển Đông, và đang
là kẻ ngạo mạn dung sức mạnh thôn tính các đảo, biển ngay cả trong khu
vực chủ quyền của các nước lân bang mà quốc tế đã công nhận. Đi xa hơn,
họ vẽ ra bản đồ đường lưỡi bò tự cho mình cái quyền kiểm soát gần như
hết đường hàng hải quốc tế mà xưa nay tầu bè các nước vẫn đi qua. Điều
này đã khiến Hoa kỳ và các quốc gia khác như Nhật, Nam triều tiên, Úc,
Newdiland, Malaixia, Indonexia, Thái lan và Việt Nam v.v…phải vào cuộc,
lên án. Có thể nói trên diễn đàn quốc tế đa phương Trung Quốc đã bị cô
lập thảm hại nên ngay Hội nghị biển Đông họp ở Việt Nam ngày 26 – 27/11
năm ngoái, Trung Quốc đã tỏ ra rất cay cú họ đã thực hiện chính sách
tách từng nước như tách các cây đũa để bẻ và mũi nhọn họ tập trung vào
phản công Việt Nam về mọi mặt. Như tờ China Daily ngay sau đó đã có bài
cho rằng Việt Nam là “người đầu sỏ” thì lập tức phía Trung Quốc bắt đầu
tập trung chủ yếu vào công kích, cái mà họ gọi là ý đồ muốn quốc tế hóa
vấn đề biển Đông của Việt Nam và báo chí trong nước Trung Quốc hiện nay
ngày ngày quy tội cho Việt Nam chủ xướng chuyện quốc tế hóa biển Đông.
Như ông Dương Danh Dy, một chuyên gia về quan hệ Việt – Trung, người
từng nắm giữ chức vụ Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, nói rõ các
thông tin trên mạng Hoàn cầu Trung Quốc đều nói rằng: “ Họ dùng một câu
như thế này: “muốn bắt giặc thì phải bắt vua, bắt chúa”, tức là trong
cái ‘giặc’ Đông Nam Á này, thì anh ‘chúa’, anh ‘vua’ Việt Nam là nguy
hiểm nhất. Đánh tan Việt Nam rồi thì các nước khác dễ dẹp hơn.”
Trong
khi đó mới đây, một giới chức hải quân hàng đầu của Trung Quốc, Thiếu
tướng Doãn Trác, đã bày tỏ quan ngại về việc các quốc gia thành viên
thuộc Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đang tăng
cường các hạm đội tàu ngầm ở khu vực biển lân cận với Trung Quốc và coi
đó là ‘một mối đe dọa’ đối với nước này. Dư luận nay không chỉ có Việt
Nam mà các nước đều cho rằng, đó là một cách họ lên tiếng như vậy để cho
dư luận thế giới đỡ chú ý tới việc tăng cường của họ và để cho nhân dân
trong nước thấy rằng họ phải tăng cường ngân sách quốc phòng, cần tăng
cường hải quân, là vì những yếu tố bên ngoài như vậy thôi chứ thực ra 6
cái tàu ngầm Kilo của Việt Nam, mấy cái tàu ngầm của Malaysia… thì làm
sao địch nổi (với Trung Quốc)? Hiện nay Trung Quốc đã có hơn 60 tàu ngầm
trong đó có cả tàu ngầm nguyên tử.”
Trung Quốc đã sai lầm khi đáng giá sai về khả năng phòng thủ của Việt Nam
Trung
Quốc những tưởng với tài chính khổng lồ và với lực lượng hải quân hùng
mạnh họ có thể bắt Việt Nam và các nước trong khu vực phải cam chịu sự
hợp thức hóa chủ quyền mà họ đã vẽ ra hiện nay. Nhưng họ đã nhầm. Bài
học Bạch đằng năm xưa mà lịch sử vẫn vẫn còn ghi đó: “ các đoàn Thuyền
chiến khổng lồ của của nhà Nam Hán cho đến của đội quân Thoát Hoan năm
nào đã bị chính người Việt Nam chôn vùi phải bỏ thuyền chui vào trống
đồng cho quân khuân về đường Lạng sơn, về đến nước vẫn tim đập chân
run”. Ngày nay tình thế khác xưa rất nhiều nhưng người Việt Nam biết
đánh giặc theo phương sách của chính mình. Thời đại ngày nay, tầu càng
lớn càng dễ bị bắn trúng và Trung Quốc ở quá xa với nơi họ đang chiếm
đóng sao có thể đi lại dễ dàng ở đây khi mà dải bờ biển chữ S này là cả
một tuyến phòng thủ liên hoàn với các pháo bờ biển tầm xa, tầm trung và
hỏa tiễn đủ các loại mà chính Việt Nam có thể tự sản xuất hay mua sắm?
Một khi đất nước lâm nguy người Việt Nam tự nhiên có phản ứng kỳ lạ kết
lại thành một khối để chống kẻ thù. Điều này Trung Quốc không có truyền
thống ấy mà thường là trước khó khăn đất nước họ ly tán chia năm xẻ bẩy
hùng cứ theo bầy. Tam quốc, ngũ quốc nay lòng dân Trung Quốc đang ly
tán, người Ái Nhĩ lan, người Nội mong, người Tây Tạng đã không còn cam
chịu khuất phục nữa. Nếu cuộc chiến xẩy ra, kinh tế Trung Quốc lâm vào
khủng hoảng thì không thể nói là đất nước này chia năm mà mỗi một tỉnh
sẽ thành một quốc gia không ai bảo được ai đó là điều chắc chắn. Thực tế
hôm nay nhiều địa phương Trung Quốc không còn nghe theo sự lãnh đạo của
chính quyền Trung ương nữa.
Điều gì sẽ phải cần làm trước một Trung Quốc hung hăng và tham lam bành trướng?
Cha
ông ta xưa đã dạy bài học thứ nhất vẫn là phải dựa vào sức mạnh của
toàn dân mà điều này không thể nói lên bằng khẩu hiệu mà phải bằng từ
thực tế. Như Đức Thánh Trần khi đã về nghỉ nơi tuổi già, khi Trung Quốc
âm mưu đưa quân sang xâm lấn, vua Trần cho mời Ngài đến hỏi lấy kế gì để
giữ giang sơn? Ngài đã ngay tức khắc trả lời dứt khoát: “ Đó là lòng
dân, dân là người chở thuyền, dân là người lật thuyền bệ hạ phải chăm lo
vun đắp lòng dân an”. Ngày nay người Việt Nam không chỉ là 48 dân tộc
anh em chia nhau kẻ lên rừng, người xuống biển mà còn có cả một lượng
đàn con lớn nữa đang sinh sống ở nước ngoài. Dòng máu Việt hồng vẫn chảy
suốt, lòng yêu nước chẳng hề nguội lạnh. Cái chính đó là có ai đó hun
nóng lòng người dân Việt này lên hay không? Làm sao để mọi người con
Việt ở khắp nơi tin yêu hiến kế, góp công sức tiền của, trí tuệ đánh
giặc giữ nước? Đó là câu hỏi lớn đang được đặt ra và những người có trái
tim lớn, có trách nhiệm phải giải đáp. Chiến tranh trên đất nước này đã
kéo dài bao năm qua, sự nghi ngại vẫn còn đó dù đã được xóa đi nhiều
sau những năm tháng hòa bình thống nhất. Hãy đọc trên các trang báo,
nghe những góp ý của bạn đọc già có trẻ có, từ người nông dân đến người
trí thức lời nào cũng đều tâm huyết cả dù có khi nặng lời mặn nhạt
v.v…nhưng suy cho cùng vẫn là đau đáu lo cho vẫn mạng đất nước. Gạn đục
khơi trong tìm trong đó có rất nhiều lời vàng ngọc quý giá. Từ người
lính Việt Nam cộng hòa năm xưa chống Tầu xâm chiếm đảo biển đến anh bộ
đội năm nào đánh giặc trên biên giới Lạng sơn, Tấn mài, Pò hén, Thán
phún …hay các nhà trí thức tóc bạc râu dài và các ông Hai lúa ở tận Cà
mau, Năm căn v.v…Hãy lắng nghe và tiếp thu bỏ đi cái gì gai góc thì sẽ
tìm thấy ngọc quý chân châu của lòng dân. Mấy ngày qua khi nghe tin
Trung Quốc hai lần cho tầu chiến giả dạng tầu đánh cá cùng tầu Hải giám
ra đe dọa tầu của ta thăm dò đại dương, cắt cáp lớn miệng đe dọa là ngay
lập tức dù chưa được nhà nước cho phép mà hàng ngàn người đã tự nhiên
xuống đường phản đối Trung Quốc như một phận nhanh tức thì. Thế đủ biết
lòng yêu nước của người dân Việt Nam nồng nàn đến mức nào. Nếu được hun
đúc lại, chăm lo săn sóc động viên đoàn kết lại thì thử hỏi con số dân
Việt xuống đường cho Trung Quốc biết sẽ là bao nhiêu? Thực không có đủ
chỗ cho cờ và người đứng đó là điều chắc chắn.
Sau
cùng vẫn phải là trang bị vũ khí để đối phó với kẻ thù. Dân ta dù còn
nghèo nhưng một khi đất nước có giặc thì còn ai tiếc gì mà không đóng
góp cho đất nước? Nhưng muốn vậy thì phải làm dân tin, dân quý và dân tự
nguyện đóng góp vào bằng thuế, bằng chính mồ hôi, sức lực và bằng cả
tịnh tài. Không ai bỏ tiền bằng mồ hôi có khi bằng cả máu khi mà dâu đó
lãng phí hay tham nhũng hàng trăm tỷ đồng mà vẫn ngang nhiên không hề bị
trừng trị thu lại. Người lãnh đạo nhà nước xưa có câu: “ không sợ nghèo
chỉ sợ không công bằng”. Đó là câu chí lý cần phải được xem xét và đó
cũng là để lấy lòng dân. Không ai sẽ ra chiến đài khi mà nhiều người đi
biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc gây hấn, xâm chiếm đảo biển lại bị
chính nhà nước ta bắt giam giữ? Nếu ai đó vì nghiã vụ phải tham gia
quân đội nhưng tâm không yên thì súng kia có cũng như không? Có mà như
chẳng có và trước khó khăn gian khổ họ có giám hy sinh vì nghĩa lớn hay
không? Cái đó phải cần được xem xét.
Đất
nước đang trong cơn thử thách, giặc phương bắc nay không phải chỉ đe
dọa trên đường bộ mà là trên biển muôn người con đất Việt đang chờ đợi
một thời khắc để kẻ ngọa mạn, tham lam, tàn bạo kia phải biết học lại
bài học lịch sử năm nào. Sông Bặch đằng đang cuồn cuộn chảy trong tâm
tôi, tâm anh và trong tất cả mọi người.
Ngày 15 tháng 6 năm 2011
http://danchimviet.info/
a big shitbox,sory bullshit china's doll !
ReplyDelete[nghia cua chu bauxit vn]