Hà Văn Thịnh - Chỉ trong vòng một tuần qua, tình
hình Biển Đông ngày càng trở nên căng thẳng hơn bởi các phát ngôn vừa vô
trách nhiệm, vừa ngang ngược – thậm chí rất thiếu văn hóa, của các cơ
quan ngôn luận và những quan chức cao cấp Trung Quốc. Đây là những động
thái hàm chứa rất nhiều hệ lụy nguy hiểm mà, dù muốn hay không, chúng ta
phải đối mặt với chúng trên tinh thần khách quan, bình tĩnh, tỉnh táo.
Đầu
tiên là tờ Thời báo Hoàn Cầu – cơ quan đối ngoại chính thức của Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã công khai đe dọa Việt Nam bằng những từ ngữ hết
sức láo xược, trong đó có câu rất trịch thượng và đậm mùi phát xít: “Các
ngươi hãy xem lại lịch sử đi” – hàm ý rất rõ ràng về việc trước đây
những kẻ bành trướng hiểm độc và tàn nhẫn đã từng “dạy cho Việt Nam một
bài học”!. Sự đe dọa trắng trợn đó đã được tướng Bành Quang Khiêm lặp
lại, cụ thể hóa và không hề che dấu ý đồ dùng vũ lực: “Trung Quốc từng
dạy cho Việt Nam một bài học, nếu Việt Nam không chân thành sẽ còn nhận
được bài học lớn hơn” (Báo Đà Nẵng, 26.6.2011). Mới đây nhất, Thứ trưởng
Ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải (Cui Jiankai) đã công khai đe dọa
cả Việt Nam và Hoa Kỳ khi tuyên bố: “Tôi tin rằng một số nước đang
nghịch lửa. Và tôi hy vọng rằng Mỹ không bị bỏng vì ngọn lửa đó” (Wall
Street Journal, dẫn lại theo VNN, 26.6.2011).
Những
dẫn chứng trên đây cho biết rất nhiều điều, dù xét trên góc độ quân sự,
ngoại giao hay cả những ý đồ trong bóng tối thì chúng đều phản ánh một
sự thật: Sự cảnh giác của toàn thể dân tộc Việt Nam phải được đặt ở cấp
độ cao nhất.
Những mong đợi về sự xuống thang, lùi
bước hay nhân nhượng từ phía Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông chỉ là
ảo tưởng – thậm chí, đó là sai lầm tệ hại nhất. Trung Quốc liên tục
khiêu khích và ngày càng trơ lỳ hơn khi luôn vu khống cho các nước láng
giềng khiêu khích. Cách hành xử đó lịch sử đã từng chứng kiến bởi Adolf
Hitler theo nguyên tắc “nói dối vụ lớn” – càng trắng trợn và trơ trẽn
thì dư luận càng dễ tin vì “đại đa số người dân không nghĩ rằng trên đời
lại có kẻ trơ tráo đến mức bịa đặt ghê gớm đến thế”. Nói một cách khác,
một khi dự lừa dối dư luận bị đẩy đến mức tột cùng của dối trá thì
những kẻ bịa đặt đó sẵn sàng hành động bất chấp nguyên tắc lý lẽ thông
thường miễn là đạt được mục đích.
Cách dùng từ
“nghịch lửa” của Thôi Thiên Khải thể hiện rất rõ sự ngạo mạn và coi
thường dư luận. Tướng Bùi Quang Khiêm cũng giọng điệu ấy khi ông ta cho
rằng “Việt Nam đang múa trên lưỡi dao và sẽ có lúc ngã trên dao”! Vấn đề
càng tệ hại hơn nữa khi Trung Quốc đã đưa cả Việt Nam và Hoa Kỳ vào
trong một “giỏ” đùa với lửa, chứng tỏ rằng Trung Quốc sẽ không từ bất kỳ
một thủ đoạn nào và dám thách thức bất kỳ đối thủ nào cản đường nó trên
con đường bá quyền tham lam, tàn ác. Một khi điều trên là sự thực hiển
nhiên thì việc vãn hồi lại “tình hữu nghị” là một việc làm xa xỉ, đó là
chưa nói rằng Trung Quốc đã bao giờ hữu nghị với Việt Nam đâu mà chúng
ta tìm kiếm ảo tưởng đó? Nếu hữu nghị thì đã không có Hoàng Sa năm 1956,
1974; không có Trường Sa năm 1988 và chắc chắn là không có cả những gì
đã và đang diễn ra.
“Bài toán Biển Đông” là bài
toán khó nhất mà dân tộc Việt Nam đang phải (nhất định phải) tìm ra lời
giải. Không tìm ra có nghĩa là thảm họa. Đây là sự thực hiển nhiên.
Chúng ta không còn đường để lùi. Mọi sự nhân nhượng đều có giới hạn và,
phải có nguyên tắc. Lênin từng dạy rằng nếu có lợi cho cách mạng thì có
thể làm bạn với người bạn đường dẫu chỉ trong một phút. Nhưng Lênin cũng
nhấn mạnh rằng “làm bạn” với điều kiện không vi phạm tính nguyên tắc
của vấn đề – trong trường hợp của Việt Nam hiện nay là độc lập, chủ
quyền, điều chúng ta không bao giờ được phép đánh mất.
Một
khi đã hiểu rõ vấn đề có tính nguyên tắc trên đây thì điều còn lại chỉ
là giải quyết như thế nào quyền lợi của dân tộc trong tình thế ngàn cân
treo sợi tóc? Bài học lịch sử thì đã có rồi: Đài Loan chỉ cách thành phố
Hạ Môn của Trung Quốc có 200km, quần đảo Ryukyu (Trung Quốc gọi là Lưu
Cầu) Nhật Bản thu hồi năm 1876, những vùng biển chồng lấn của Hàn Quốc
đến bây giờ vẫn không hề bị xâm phạm..., đều là những hiện thực lịch sử
chứng minh rằng nếu có liên minh chính trị - quân sự bền vững, hiệu quả
thì Trung Quốc không thể làm gì được. Người ta thế, tại sao mình lại
không thể? Đây là lúc mọi lợi ích nhóm, mọi tính toán cá nhân phải lùi
bước trước quyền lợi – vận mệnh dân tộc. Còn băn khoăn giữa mê và tỉnh,
cần và không, nên hay không nên là có tội với tổ tiên, dân tộc, giống
nòi. “Chờ đợi là mất hết, thậm chí mất tất cả” là một trong những câu
nói nổi tiếng của Lênin. “Họa đấy, phúc đấy” chỉ trở thành hiện thực khi
ta nghĩ phúc cho đất nước là phúc lộc thiêng liêng và cao cả nhất.
Một
khi sức mạnh của dân tộc Việt Nam kết thành một khối thì chúng ta không
sợ bất kỳ lời đe dọa nào, bất kỳ kẻ thù nào. Những tính toán chẳng hạn
như nếu quan hệ xấu đi thì 18 tỷ USD nguyên liệu cho ngành dệt may, giày
da sẽ gặp khó khăn vì không tìm ra sự thay thế hữu ích chỉ là cách tính
một chiều. Không có gì không thể thay thế được. 18 tỷ USD hay 180 tỷ đi
nữa thì vẫn chỉ là bọt bèo nếu chúng ta để mất Biển Đông. Đó là chưa
nói đến chuyện ta có thể mua nguyên liệu từ nước khác, đắt hơn một chút,
có sao đâu. Biết đâu nhờ thế mà tránh được cái họa nhập siêu mỗi năm 13
tỷ USD. Hãy thử hình dung một ngày nào đó (lạy trời lạy phật cho nó
không xảy ra), tàu nước ngoài muốn vào Hải Phòng phải quá cảnh đi nhờ
qua vùng biển của “nước khác”!!! Nếu nhân nhượng mãi hoài, thảm cảnh đó
không phải là điều xa xôi.
Có một bài học nữa của
lịch sử cần phải nhắc lại: Năm 1978, Đặng Tiểu Bình đề ra đường lối đổi
mới. Hàng triệu người phản đối. Đặng đã “chọn” cách đẩy tất cả mâu thuẫn
trong nước ra bên ngoài bằng cách phát động chiến tranh xâm lược Việt
Nam đầu năm 1979 (dĩ nhiên là còn những nguyên nhân khác liên quan đến
cuộc chiến tranh này, nhưng mâu thuẫn 1978 là nguyên nhân trực tiếp)!
Trong một vài năm tới, Trung Quốc sẽ phải đối đầu với rất nhiều thách
thức từ trong nước – trong đó mâu thuẫn thể chế với cơ cấu kinh tế là
lớn nhất (xem bài của H. Kissinger, VNN, 26.6.2011). Ai có thể nói rằng
Trung Quốc sẽ không một lần nữa tìm cách đẩy mâu thuẫn ra bên ngoài bằng
một cuộc chiến tranh? Lịch sử Trung Quốc hàng ngàn năm nay có rất nhiều
dân chứng: Một trong số đó là năm 1076, để lấy uy thế với các dân tộc
“man di” phương Bắc, nhà Tống đã phát động chiến tranh xâm lược Đại
Việt. Âm mưu đó thất bại, kết quả là “vua Liêu gọi vua Tống bằng anh.
Mỗi năm, vua anh phải “tặng” vua em hàng chục vạn lạng bạc, hàng vạn tấm
lụa...”!
Những sự thật trên đây không có gì mới,
chỉ có cái mới đau đớn nhất là quan điểm chính thống của Việt Nam hiện
nay, cho đến tận lúc này vẫn kiên trì theo đuổi “16 chữ vàng”, “4 tốt”
(xem tin từ TTXVN về cuộc gặp giữa Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn và Ủy viên
Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc tại Bắc Kinh ngày 25.6). Xem ra, cơn mê và ảo
tưởng vẫn còn dài và khó rời bỏ lắm! Nếu cứ tiếp tục như thế, Trung Quốc
không dọa dùng lửa để trị bất cứ ai mà Trung Quốc cho rằng đang “nghịch
lửa” mới là chuyện lạ. Đấy cũng cách ứng xử không khác gì bật đèn xanh,
lùi mãi đến chân tường cho chủ nghĩa bá Hán mặc sức tung hoành!
Chớ
thấy sóng cả mà ngã tay chèo. Cha ông ta đã dạy như thế tự lâu đời. Một
khi sức mạnh của Nhà nước, của các vị lãnh đạo đồng nhất, đồng thuận
trong niềm tự hào thiêng liêng của toàn thể dân tộc, mạnh mẽ vô cùng
trong tinh thần bất khuất được thử thách hàng ngàn năm, thì, lời giải của bài toán khó, thực ra đang nằm ngay trong đầu
của các nhà lãnh đạo. Lựa chọn đúng bao giờ cũng là giải pháp tốt nhất.
Chỉ có thể có được sự đúng đắn ấy nếu tin rằng TỔ QUỐC là trên hết!
H. V. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
No comments:
Post a Comment