Song Chi - Từ trước đến nay, các thế hệ
lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN luôn luôn hành xử như thể đất nước
VN là “tài sản” riêng của đảng, hơn thế nữa, là của một nhóm những
người giữ vị trí cao nhất-ta thường gọi là 14 ông vua tập thể trong Bộ
chính trị.
Người dân từ lâu đã được “khuyên răn” rằng: không nên bận tâm đến chính trị, mọi chuyện đã có đảng và nhà nước lo.
Trước
tất cả mọi vấn đề có liên quan đến vận mệnh đất nước, dân tộc, nhà cầm
quyền giấu nhẹm thông tin với nhân dân, lẳng lặng và tùy tiện quyết
định. Thời buổi này thì thông tin cũng khó mà giữ kín được mãi, nhưng
nếu sau đó, người dân có tình cờ biết được điều gì thì cũng là “sự đã
rồi”.
Như cái chuyện công hàm năm
1958 của ông cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, mãi sau này người dân mới được
biết nội dung của nó, nhưng nhà nước thì vẫn lặng không có một lời giải
thích. Thậm chí, khi Trung Quốc sử dụng công hàm này để bắt bẻ phía VN
đã công nhận chủ quyền của họ trên biển Đông mà họ gọi là biển Hoa Nam,
bao gồm cả các hòn đảo Hoàng Sa-Trường Sa như là một bộ phận thuộc lãnh
thổ quốc gia của TQ, bây giờ lại “trở mặt”, đổi ý, Hà Nội cũng cứ nhất
mực im lặng, coi như không nghe không thấy.
Các Hiệp ước biên giới trên đất liền được ký kết năm 1999 và Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ VN-TQ năm
2000 nội dung ra sao, nhà nước VN đã nhân nhượng và chịu thiệt thòi quá
nhiều cho phía Trung Quốc như thế nào, chúng ta đã mất chính xác bao
nhiêu kilomet vuông đất, bao nhiêu dặm trên biển…nhân dân hoàn toàn
không biết. Chỉ biết rằng những cái gì có thể nhìn thấy bằng mắt thường
như toàn bộ Ải Nam Quan, phần chính thác Bản Giốc hay Cao điểm 1509
thuộc xã Thanh Thủy, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang (bây giờ Tàu gọi là
Lão Sơn)…nay không còn thuộc về VN nữa!
Vụ
bauxite Tây Nguyên cũng vậy, một mình ông Tổng Nông Đức Mạnh qua mặt cả
Bộ chính trị, cam kết với Trung Quốc. Sau đó cả bộ sậu 14 ông vua cứ
thế mà thông qua dự án này, mặc cho sự phản đối của hàng trăm hàng ngàn
nhân sĩ, trí thức, nhà khoa học cũng như sự không đồng tình của đông đảo
người dân.
Có thể kể ra hàng hà sa
số những ví dụ để thấy rằng đất nước này không phải thuộc về của chung
của 90 triệu người dân VN đang sống ở trong và ngoài nước, mà chỉ thuộc
về họ-các thế hệ lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN, cùng với những
ông quan to quan nhỏ trong bộ máy nhà nước từ trên xuống dưới. Nên họ
muốn làm gì thì làm.
Còn hơn cả vua quan thời phong kiến.
Nhân dân thì liên tục bị lừa.
Gần
đây, biển Đông lại dậy sóng bởi cách hành xử ngang ngược, hiếu chiến
của Trung Quốc. Phản ứng của nhà nước VN được dư luận đánh giá là có vẻ
cứng rắn hơn từ trước đến nay, nhưng vẫn có những sự mập mờ khó hiểu,
tiền hậu bất nhất khiến người dân không thật sự an tâm.
Một
mặt, báo chí trong và ngoài nước vẫn tiếp tục lên án, chỉ trích những
hành động của nhà cầm quyền Trung Quốc. Người dân đã xuống đường phản
đối TQ và vẫn tiếp tục kêu gọi xuống đường. Các học giả VN vẫn tiếp tục
lên tiếng bày tỏ quan điểm về chủ quyền của VN trên biển Đông tại những
cuộc hội thảo quốc tế. Một số nhân vật cao cấp trong hàng ngũ lãnh đạo
của Đảng kể cả ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng cam kết sẽ làm tất cả
để bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ lãnh hải của VN. Hải quân VN thì tuyên bố
tập trận bắn đạn thật. Lại có cả Nghị định 42/2011/NĐ-CP về việc “Các trường hợp được miễn gọi nhập ngũ trong thời chiến” có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2011. Cứ như thể có chiến tranh đến nơi.
VN cũng lên tiếng kêu gọi sự giúp đỡ của quốc tế, kể cả Hoa Kỳ, để làm
giảm những căng thẳng, xung đột trên biển Đông. Cứ như thể, nhà nước VN
cũng đồng lòng quyết tâm cùng với nhân dân, bảo vệ đất nước!
Nhưng bên cạnh đó, ngay lập tức lại có những hành động ngược lại.
Ngay
giữa những ngày tình hình đang “nóng” nhất do tàu hải giám TQ ngang
nhiên cắt cáp tàu Bình Minh 2 của VN, ông Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
liền chỉ đạo các cơ quan liên quan của thành phố khẩn trương “triển khai Dự án tổng thể xây dựng Cung hữu nghị Việt – Trung tại xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội….” Dự án này “do
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam chủ trì, xây dựng từ nguồn vốn
viện trợ không hoàn lại 200 triệu nhân dân tệ (hơn 30 triệu USD) của
Chính phủ Trung Quốc và một phần ngân sách của Việt Nam…” (Theo VNMedia).
Ngày
5.6, khi hàng trăm người ở Hà Nội và hàng ngàn ngưởi ở Sài Gòn nồng
nhiệt xuống đường biểu tình phản đối những hành động hung hăng của nhà
cầm quyền Trung Quốc, tất cả các diễn đàn độc lập, báo chí của người
Việt ở hải ngoại và nước ngoài đều đưa tin, hình đầy đủ, thậm chí có cả
video clip minh họa…Thì TTXVN lại đưa tin là “có một số ít người đã
tự phát tụ tập, đi ngang qua Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng
Lãnh sự quán Trung Quốc ở TP.HCM….Những người này tụ tập một cách trật
tự, bày tỏ thái độ một cách ôn hòa, và sau khi được các đoàn thể, các cơ
quan chức năng của Việt Nam giải thích, họ đã tự giải tán, ra về.” Đơn giản chỉ nhằm xoa dịu Trung Quốc, sợ TQ “mích lòng”!
Và
những cuộc biểu tình sau đó đã có những hành vi bắt bớ, đàn áp diễn ra.
Nhất là tại Sài Gòn. Các nghệ sĩ, trí thức, bloggers đã có mặt trong
buổi biểu tình ngày 5.6 hoặc đã từng có những hành động tương tự vào năm
2007, đều bị bao vây, cô lập và ngăn chặn để họ không thể có mặt cùng
các sinh viên, quần chúng!
Ngày 9.6,
trong khi tàu TQ vẫn đang rượt đuổi, cướp tài sản của ngư dân VN, khi
người dân vẫn đang sôi sục uất ức thì Đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam-tổ
chức được gọi là của dân-lại đi thăm Trung Quốc. TTXVN đưa tin, thay mặt
đoàn, “Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Trần Hoàng Thám khẳng định Việt Nam rất coi trọng mối quan hệ với Trung
Quốc, đồng thời hy vọng hai bên sẽ kế thừa và phát huy tình cảm hữu nghị
mà các lãnh đạo tiền bối nước đã dày công vun đắp, đưa quan hệ hợp tác
Việt Nam-Trung Quốc phát triển lên tầm cao mới.”!
Chiều
18.6, hai tàu hải quân VN lại cùng với tàu của Hải quân Quân giải phóng
nhân dân Trung Quốc tham gia chuyến tuần tra liên hợp trên vùng biển
vịnh Bắc Bộ!
Cùng lúc, báo chí TQ vẫn tiếp tục cao giọng “mắng mỏ” VN, đòi “tát cho VN vỡ mặt”, truyền hình TQ còn chiếu cả kế hoạch tấn công VN.
Tất
cả những diễn biến này khiến dư luận trong nước cũng như trên thế giới
không rõ đường lối, chính sách của Hà Nội như thế nào. Rõ là Hà Nội vẫn
sợ. Đánh võ mồm thế thôi chứ vẫn sợ.
Thật
ra, như nhiều nhà phân tích, bình luận chính trị trong ngoài nước cũng
đã nhận xét, nguy cơ xảy ra chiến tranh vì những tranh chấp trên biển
Đông là rất thấp, hầu như bằng không, ít nhất là trong thời điểm hiện
tại cho tới vài năm nữa. Bởi, Bắc Kinh thừa hiểu rằng nếu xảy ra chiến
tranh giữa TQ và các nước láng giềng ví dụ như VN, điều đó hoàn toàn
không có lợi cho TQ. Trung Quốc chưa đủ mạnh đến mức muốn làm gì thì
làm, bất chấp thế giới. Vả chăng, cứ thử nghĩ xem, trong khu vực châu Á,
và ngay cả trên toàn thế giới, những quốc gia nào thực sự là bạn, là
đồng minh của TQ?
Thực tế những ngày
vừa qua cho thấy, mọi sự hung hăng gây hấn của TQ chỉ tạo điều kiện cho
các nước láng giềng xích lại gần Hoa Kỳ và Hoa Kỳ có cơ hội để quay trở
lại khu vực này, là điều mà TQ hoàn toàn không muốn chút nào.
Ngay
trong Hội thảo an ninh biển Đông được tổ chức tại Trung tâm nghiên cứu
chiến lược quốc tế ở Washington từ ngày 20 đến 21.6 đã cho thấy TQ bị
thế giới chỉ trích khá nhiều về yêu sách đường lưỡi bò phi lý trên biển
Đông cũng như cách hành xử trong thời gian qua.
Tiếp
theo, ngày 27.6, Thượng viện Hoa Kỳ vừa nhất trí thông qua một nghị
quyết không tán thành việc các tàu Trung Quốc sử dụng vũ lực tại Biển
Đông, và khẳng định tiếp tục hỗ trợ cho hoạt động của quân đội Hoa Kỳ
nhằm “giúp tự do lưu thông trong hải phận và trên không phận quốc tế ở Biển Đông”.
Có lẽ hơn ai hết, những cái đầu nóng ở Bắc Kinh đã hiểu rằng chưa đến lúc, và cần phải tạm lùi lại.
Tuy
nhiên, không một ai ngây thơ mà tin rằng TQ sẽ từ bỏ tham vọng chiếm cứ
biển Đông, cũng như tham vọng là nước giàu nhất, mạnh nhất, bá chủ toàn
cầu trong một ngày không xa. Khi chưa làm được điều đó, Bắc Kinh sẽ
tiếp tục luận điệu “trỗi dậy hòa bình” để trấn an các nước, tiếp tục
“thao quang dưỡng hối” và chuẩn bị thêm vể mọi mặt.
Đây
cũng là cơ hội…cuối cùng, là thời gian cho VN kịp chuẩn bị về phần mình
để tránh không bị rơi vào thế cờ chiếu bí khi TQ mạnh hơn nữa và quyết
định dùng quân sự để giài quyết vấn đề biển Đông. Chuẩn bị có nghĩa là
rút ra bài học từ những sai lầm trong quá khứ, trong việc lựa chọn con
đường đi cho đất nước và chọn “bạn” mà chơi. Là tiến hành cải cách triệt
để về mô hình thế chế chính trị, để đưa đất nước thoát khỏi sự nghèo
nàn lạc hậu bế tắc hiện tại, lựa chọn các nước giàu mạnh, dân chủ, tiến
bộ là bạn, là đồng minh v.v…
Thay vì như thế, người dân lại nhỉn thấy những dấu hiệu khác, từ phía nhà nước VN.
Và
điều làm người dân lo lắng nhất là thông tin Thứ trưởng Ngoại giao Hồ
Xuân Sơn, đặc phái viên của lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã gặp Ủy viên
Quốc vụ Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc ngày 25.6. Thông cáo báo chí chung
VN-TQ đăng trên TTXVN tuyên bố rằng hai bên sẽ “đẩy nhanh tiến độ
đàm phán để sớm ký kết “Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc”; thúc đẩy việc thực
hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và các công việc
tiếp theo, cố gắng sớm đạt tiến triển thực chất.”
Không rõ hai bên cam kết những gì nhưng bản tin “Trung Quốc thúc giục sự đồng thuận với Việt Nam trên vấn đề Biển Hoa Nam” trên Tân Hoa Xã ngày 28.6 viết:
“Trung
Quốc hôm nay thứ Ba đã kêu gọi Việt Nam hãy thực hiện đầy đủ một thỏa
thuận song phương trên vấn đề Biển Hoa Nam (Biển Đông) vốn đã đạt được
trong thời gian diễn ra chuyến viếng thăm của phái viên đặc biệt của
Việt Nam Hồ Xuân Sơn vào tuần trước…”. Rằng: “Cả hai nước đều phản đối những thế lực bên ngoài can dự vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam.” Đồng thời không quên nhắc lại: “Trung
Quốc đã nhiều lần tuyên bố về chủ quyền không thể tranh cãi của mình
tại các hòn đảo trên Biển Hoa Nam và những vùng biển xung quanh các hòn
đảo này.
Những hồ sơ lịch sử
của Trung Quốc đã cho thấy rằng năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã khẳng
định các hòn đảo trên Biển Hoa Nam như là bộ phận thuộc lãnh thổ quốc
gia của Trung Quốc, và kế đó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã bày tỏ
sự tán đồng trong bức thư ngoại giao ngắn của mình gửi tới Thủ tướng khi
đó là ông Chu Ân Lai.
Chưa
từng có sự bất đồng nào từ bất cứ quốc gia nào đối với chủ quyền của
Trung Quốc trên khu vực này cho tới những năm 1970, khi các nước bao gồm
Việt Nam và Philippines tuyên bố chủ quyền từng phần ở đây.”
Giọng
điệu của phía TQ rõ ràng đã thành công trong việc gây ra sự hoang mang
cho người dân VN khi không biết nhà nước VN đã thỏa thuận những gì, liệu
có đầu hàng và “đi đêm” với TQ không. Đồng thời các nước, nhất là Hoa
Kỳ cũng nửa tin nừa ngờ. Từ trước đến nay có lẽ một trong những lý do
khiến Hoa Kỳ chưa mặn mà ủng hộ VN trong việc xung đột với TQ trên biển
Đông, ngoài nguyên nhân do thể chế chính trị độc tài của VN, còn vì Hoa
Kỳ sợ VN sẽ tìm cách đi dây giữa hai nước rồi một lúc nào đó lại thỏa
hiệp với TQ.
Nay với mũi tên cùng lúc
bắn cả hai con chim này, nhà cầm quyền TQ đang triệt để cô lập nhà cầm
quyền VN, với chính người dân trong nước và với quốc tế để dễ bề tiến
tới ép VN phải nhân nhượng về lãnh hải. Vì rõ ràng hiện nay chỉ có VN là
quốc gia dễ bị ép nhất, VN không có đồng minh, VN đang phải đối diện
với quá nhiều vấn đề trong nước, kinh tế VN lại đang phụ thuộc nặng nề
vào TQ… Không có thời cơ nào hơn cho TQ lúc này để ép VN như đã từng ép
thành công trước kia.
Sự im lặng,
không minh bạch rõ ràng của nhà nước VN thực sự bất lợi cho họ về nhiều
mặt, nhưng có vẻ như họ vẫn chưa chịu nhìn ra điều này.
Chỉ
trừ phi họ nhân cơ hội này, thức tỉnh, chấp nhận hy sinh quyền lợi vì
vận mệnh của đất nước, dân tộc. Song, cay đắng thay, điều đó chẳng khác
nào ngồi mơ trúng số!
Chắc chắn Đảng
và nhà nước cộng sản VN sẽ lại lựa chọn con đường đầu hàng, thỏa hiệp
với TQ. Bởi vì đó là sự lựa chọn dễ dàng nhất, cho những kẻ đớn hèn và
bất tài.
Nếu tiếp tục nhân nhượng, lãnh hải của VN rồi sẽ còn lại như thế này,
theo đúng tham vọng của TQ! Ảnh: tuoitre.vn
Nghĩ
mà thương cho người dân. Nhân dân xuống đường bị bắt bớ, sôi sục ký tên
vào những bản tuyên cáo phản đối TQ…để cuối cùng “các ông vua tập thể”
lại tiếp tục tự mình quyết định mọi việc.
Đã
đến lúc người dân cần phải tỏ rõ thái độ với những người đang nắm quyền
lãnh đạo đất nước rằng: đất nước là của chung mọi người VN, không của
riêng một đảng phái, một chế độ, một nhúm người. Người dân có quyền được
biết mọi chuyện liên quan đến vận mệnh đất nước. Hoặc họ phải minh bạch
và dứt khoát đứng về phía nhân dân, chọn lựa con đường đúng để cứu
nước, hoặc người dân phải đứng lên giành lấy quyền cứu nước trước khi
quá muộn.
No comments:
Post a Comment