Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN
- Vào những năm 2008, Lạm phát tại Việt Nam nhẩy vọt. Nhà Nước cũng đưa
ra những biện pháp cấp thời khống chế. Thời ấy, Nhà Nước tránh né những
Lý do Lạm phát nội tại mà chỉ tìm đổ lỗi cho những lý do ngoại tại
thuộc cuộc Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế. Khi đã cố ý tránh né lý do như
vậy nhằm giữ danh dự cho Cơ chế, thì những biện pháp chữa trị “ngoài
da“, thoa chỗ này, thì bùng chỗ kia
Ngày
nay Lạm phát lại tăng lên gấp bội. Một điều phải lưu ý là Lạm phát tại
Việt Nam luôn luôn cao hơn nhiều đối với các quốc gia trong vùng , dù
những quốc gia này và Việt Nam cũng sống trong tình trạng chung của Lạm
phát.
Theo phân tích của Bản Báo Cáo của Ngân Hàng Thế giới đầu năm 2011, thì
“Từ góc độ lịch sử, Việt Nam luôn có tỷ lệ lạm phát cao hơn các nước láng giềng.”
Trước
những công kích đối với những biện pháp vá víu chống lạm phát ở những
năm trước đây, lần này Nhà nước thêm vào những biện pháp chống Lạm phát
hai chữ “vĩ mô“ cho có hệ thống trước sau. Nhà Nước cũng khẳng định cho
dân rằng mối quan tâm hàng đẩu của Chính phủ là kềm chế Lạm phát. Trong
cuộc Phỏng vấn Tiến sĩ LÊ ĐĂNG DOANH do Ký giả MẶC LÂM thực hiện ngày
05.04.2011, Ts Lê Đăng Doanh tuyên bố:
“Ưu
tiên số 1 hiện nay là phải chống lạm phát, vì có giảm lạm phát mới hạ
được lãi suất tiền tiết kiệm, giữ được tiền tiết kiệm của dân.”
Nhưng
theo quan sát những biệc pháp mà Nhà Nước muốn tăng cường hiện nay, thì
dường như Chính phủ đang phải bận tâm hàng đầu với hai cuộc chiến đối
với dân:
1) Về mặt CHÍNH TRỊ, CSVN
chủ trương một Cơ chế ĐỘC TÀI và đang phải lo lắng, tìm mọi thủ đoạn
chống đỡ quyền TỰ DO cá nhân từ người dân. Sự sôi động của nó đến từ tầm
lan tràn của những cuộc Cách Mạng tại Bắc Phi và Trung Đông ra khắp Thế
giới, nơi nào có độc tài bóc lột.
2)
Về mặt TIỀN TỆ (Kinh tế/Tài chánh), CSVN chủ trương Tiền ĐỒNG VN ĐỘC
TÀI và đang phải đưa ra những biện pháp, thủ đoạn có thể “vô nhân đạo“
để chống đỡ đồng ĐO-LA MỸ TỰ DO. Thậm chí CSVN còn gọi đây là Mặt trận
Chống Đo-la hóa Kinh tế định hướng XHCN của họ.
Trong
cuộc chiến thứ hai về TIỀN TỆ (Kinh tế/ Tài chánh), Nhà Nước đưa ra
những biện pháp nhằm cướp giựt Đo-la và Vàng của dân, chứ không có liên
hệ gì đến vấn đề Kềm chế Lạm phát.
Cho
dù việc Kềm chế Lạm phát là ưu tiên hàng đầu của Nhà Nước đi nữa theo
như khẳng định của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, thì chúng ta cũng phải xét xem
những biện pháp đưa ra có nhằm hay có khả năng kềm chế được Lạm phát
hay không, hay chỉ là những biện pháp đưa ra mang tính cách lấy lệ thoa
bóp bên ngoài để làm giảm cơn khổ của quần chúng nghèo nạn nhân của Lạm
phát hiện nay.
Cũng như những biện
pháp mà chính Nguyễn Tấn Dũng hô hào trong nhiều năm trường để chống
Tham nhũng. Đó là những biện pháp kiểu “dầu cù là“ thoa bóp ngoài da
nhằm mỵ dân. Tham nhũng, Lãng phí vẫn còn và tăng gấp bội. Không thể
khuyên đảng viên lấy Tinh thần Cách Mạng mà chống Tham nhũng, Lãng phí,
mà phải đi vào chính cái căn nguyên con bệnh để mà diệt tận gốc. Nhưng
Nguyễn Tấn Dũng và cả đảng CSVN không dám đi vào cái căn nguyên con
bệnh, thì không thể nào chữa nổi bệnh Tham nhũng, Lãng phí.
Cái
Căn nguyên căn bệnh Tham nhũng, Lãng phí chính là cái Cơ chế CSVN hiện
hành chủ trương Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế, nghĩa là việc
đánh đĩ giữa độc tài Chính trị và độc quyền Kinh tế để đẻ lòi ra Tham
nhũng, Lãng phí. Phải diệt chính cái Cơ chế đánh đĩ đó thì Tham nhũng,
Lảng phí mới có thể kềm chế được. Đó là điều bất lực của Nhà Nước CSVN.
Cũng
vậy, muốn Kềm chế được Lạm phát, thì phải đi vào chính những căn nguyên
thực sự gây ra Lạm phát và phải can đảm chữa trị những căn nguyên ấy,
chứ không chỉ dùng dầu cù là thoa bóp ngoài da để mỵ dân, để an ủi dân
đang phải chịu khổ cực vì Lạm phát.
Lạm phát là gì ?
Trong
Chế độ Bản vị tương đương Hàng hóa, Dịch vụ với đồng Tiền, Lạm phát
hiện ra khi so sánh một Lượng Tiền nhất định đối với tương đương Hàng
hóa hay Dịch vụ ở hai thời điểm khác nhau. Nếu cùng một Lượng Tiền mà
tương đương Hàng hoá hay Dịch vụ ít đi, người ta gọi là Lạm phát hay vật
giá tăng. Cũng vậy, nếu cùng một Lượng Hàng hóa hay Dịch vụ mà phải
dùng một Lượng Tiền cao hơn mới mua được, người ta gọi là Lạm phát hay
vật giá tăng.
Tỉ dụ trong tháng
12.2010, để có mộ tôphở gà, phải có lượng tiền là 2’000 Đồng VN. Ở thời
điểm đầu tháng 4.2011 này, muốn có một tô phở gà giống hệt, phải cần
lượng tiền là 2’500 Đồng VN. Lạm phát là (500/2000) x 100 = 25% hay vật
giá tô phở tăng 25%. Nếu một người chỉ có lượng tiền cố định 2’000 Đồng
VN. Tháng 2.2010, người đó ăn được một tô phở gà cho no bụng. Đầu tháng
4.2011, người đó cũng chỉ có 2’000 Đồng VN, họ chỉ ăn được 2/3 tô phở và
bụng đói. Đây cũng là Lạm phát, vật giá tăng, nhưng là do tương đương
hàng hóa kém đi.
Đâu là những lý do chính yếu gây Lạm phát ?
Với
định nghĩa của Lạm phát và những tỉ dụ cụ thể nói ở trên, chúng ta có
thể nhìn một cách đơn giản đầu tiên là có những lý do tác động lên LƯỢNG
TIỀN làm cho người cầm tiền phải trả một lượng tiền lớn hơn để có cùng
một lượng hàng hóa, có những lý do tác động lên hàng hóa, dịch vụ làm
lượng hàng hóa, dịch vụ ít đi sánh với lượng tiền vẫn đứng cố định.
Chúng
tôi dùng Công thức đơn giản nhất của FISCHER về việc so sánh Lượng Tiền
lưu hành và Lượng Hàng hóa, Dịch vụ sản xuất và trao đổi:
M.V
—— = P
T
—— = P
T
M
là Lượng Tiền cho vào lưu hành. V là tốc độ vận hành của đồng Tiền. Nếu
V quy nhanh, thì lượng Tiền lưu hành tăng khối lượng lên. T là tổng
lượng Hàng hóa, Dịch vụ sản xuất và trao đổi trong một khoảng thời gian.
P là Chỉ số giá cả tiêu dùng.
T bao
gồm những lý do tác động lên Lượng Hàng hóa và Dịch vụ tăng lên hay giảm
xuống. M.V bao gồm những lý do tác động lên Lượng Tiền lưu hành. Cứ
theo Công thức trên đây, nếu P tăng, tức là Lạm phát: (i) một là do T
Lượng Hàng hóa, Dịch vụ sản xuất và trao đổi yếu kém đi; (ii) hai là do
M.V Lượng Tiền lưu hành tăng lên. Nếu T giảm đồng lúc với MV.tăng, thì
Lạm phát phi mã hai tốc độ.
(i) Những lý do tác động lên (T) Lượng hàng hoá, Dịch vụ trao đổi
Trong
bài Phỏng vấn do Ký giả Mặc Lâm thực hiện, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đã
khẳng định một câu then chốt kết án cả một hệ thống Tập đoàn nhà nước,
đó là việc yếu kém hiệu năng của những Tập đoàn này:
“Hiện
nay tình trạng chi tiêu kém hiệu quả và đầu tư kém hiệu quả ở Việt Nam
là tương đối nghiêm trọng và công luận cũng đã chỉ ra rất là nhiều công
trình sau khi vừa mới cắt băng khánh thành xong thì đã hư hỏng và không
bảo đảm các tiêu chuẩn như là đã có cam kết”.
Kém
hiệu năng có nghĩa là phía T Lượng Hàng hóa, Dịch vụ trao đổi giảm
xuống. Điều này làm cho Lạm phát, vật giá tăng ngay cả trong trường hợp
M.V Lượng Tiền lưu hành không thay đổi.
Cái
hiệu năng thuần túy Kinh tế được đo bằng Độ lớn rộng của Biên độ Lợi
nhuận (Marges Bénéficiaires) chứ không phải Tổng lượng bán hàng. Trong
Thế giới cạnh tranh hiện nay, nhất là Việt Nam đã vào WTO /OMC, việc
cạnh tranh ở Thị trường rất xít xao đến nỗi các Công ty tham dự khó lòng
tăng giá bán để Tổng lượng bán hàng tăng lên cao. Theo Kinh tế gia Paul
SAMUELSON, Giáo sư Kinh tế Havard và Nobel Kinh tế, thì Biên độ Lợi
nhuận (Marge Bénéficiare) đi đến triệt tiêu trong lâu dài ở Thị trường
cạnh tranh.
Vì vậy, để có thể có được
Biên độ Lợi nhuận nới rộng, các Công ty đặt trọng tâm ở việc quản trị
Giá thành thấp xuống, chứ không phải ở chỗ tăng Giá bán. Chính vì điểm
quan trọng là quản trị Giá thành mà các Tập đoàn quốc doanh có những sai
lỗi, yếu kém không thể chữa trị được. Nó thuộc vào Cơ chế CSVN. Những
Tập đoàn quốc doanh phạm vào việc quản trị Giá thành yếu kém sau đây:
*
Cơ sở Tập đoàn đồ sộ tốn kém, thiết bị sản xuất quá mức sánh với hàng
hóa, dịch vụ cung cấp. Tất cả để lấy cái danh cho Tập đoàn chứ không
theo chỉ tiêu Kinh tế. Đây là Chi tiêu cố định (Charges fixes) quá quan
trọng sánh với lượng hàng hóa hay dịch vụ sản xuất. Chi tiêu cố định là
những Chi tiêu giết chết xí nghiệp (Les Charges fixes sont des charges
qui tuent l’Entreprise)
* Về những
Linh kiện và Nguyên vật liệu, thì phần lớn lại nhập cảng từ nước ngoài
khiến Giá thành tăng lên cao, và do đó làm giảm Biên độ Lợi nhuận.
*
Lý do quan trọng hơn cả là Tham nhũng và Lãng phí mỗi khi xây Cơ sở hay
mua thiết bị, mua những Linh kiện hay Nguyên vật liệu. Những người
trách nhiệm Tập đoàn nhằm có những mua bán để Tham nhũng và Lãng phí.
Đây là việc dễ dãi có vốn và không bị kiểm soát gắt gao từ Nhà Nước vì
cùng đảng bao che cho nhau, hay chia phần tham nhũng, lãng phí cho nhau.
Những
lý do thiếu hiệu năng trong quản trị chi tiêu không những làm tăng Lạm
phát, mà còn đang dẫn nền Kinh tế quốc doanh đến phá sản như tình trạng
hiện nay.
(ii) Những lý do tác động lên (M.V) Lượng Tiền lưu hành
Nhà
Nước dễ dãi và dồn Tiền quá nhiều vào lưu hành qua những Tập đoàn quốc
doanh khiến lượng (M.V) tăng lên gấp bội. Việc tăng (M.V) này, theo Công
thức của FISCHER, tất nhiên làm tăng Lạm phát về phía Tiền bạc.
Cũng trong bài Phỏng vấn do Ký giả Mặc Lâm thực hiện, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh thẳng thắn xác nhận cái lỗi của Nhà Nước :
«
Đương nhiên lạm phát trước hết là sản phẩm của chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ, bởi vì so với các nước trong khu vực thì lạm phát
của Việt Nam cao nhất và cái cung tín dụng, cung tiền của Việt Nam cũng
là cao nhất, và bội chi ngân sách của Việt Nam cũng là cao nhất, vì vậy
cho nên muốn giảm lạm phát thì trước hết phải giảm cung tiền và cung tín
dụng. »
Trong Bản Phúc Trình của
Ngân Hàng Thế Giới đầu năm 2011, bản Phúc trình phê bình Đầu tư của Nhà
Nước quá lớn cho những Tập đoàn quốc doanh mà hiệu quả lại rất yếu kém :
«
Đầu tư Công: Số lượng và hiệu quả đầu tư công có ảnh hưởng quan trọng
đến hiệu quả đầu tư chung của nền kinh tế Việt Nam. Vốn đầu tư công đến
từ nguồn ngân sách, doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tín dụng và các nguồn
khác, trong đó, hai nguồn đầu tiên chiếm tới 3/4 tổng số đầu tư công.
Biểu đồ dưới đây cho thấy đầu tư công không ngừng gia tăng, chỉ giảm vào
năm 2008 nhằm khống chế lạm phát bộc phát mạnh. Do khối lượng đầu tư
công chiếm tới 49% trên tổng số đầu tư giai đoạn 1995-2008 và hệ số ICOR
của khu vực công cao gấp rưỡi hệ số ICOR chung của nền kinh tế, hiệu
quả đầu tư của khu vực công đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến NLCT của nền
kinh tế Việt Nam (NLCT p.40). »
Về
phương diện thổi phồng số vốn cho vào Lưu hành (M.V) khiến Lạm phát tăng
vọt, chúng tôi muốn chú thích đến hai lãnh vực rất nguy hiểm cho nền
Kinh tế :
* Ngân Hàng Nhà Nước Việt
Nam, dưới quyền độc tài Chính trị ra lệnh, đã phá giá đồng Tiền VN nhiều
lần. Chính việc phá giá này trực tiếp giảm giá trị Tiền tệ và tất nhiên
trực tiếp gây Lạm phát.
Về phương
diện Nhà Nước độc tài ra lệnh cho phá giá Tiền tệ để xẩy ra Lạm phát phi
mã, chúng tôi luôn luôn trích lời của Giáo sư Florin AFTALION đã quá
kinh nghiệm với những chính quyền tại các nước đang phát triển, nhất là
những chế độ độc tài:
”… dans les
pays en développement le controle de la création monétaire est le plus
souvent entre les mains du pouvoir politique, et non de banques
centrales indépendantes. L’inflation est un moyen de fiancement très
commode. Elle est apprécìee par les hommes politiques dans la mesure òu
elle permet à court terme d’accorder les hausses de salaires et des
subventions, de mettre de l’huile dans les rouages.” (LE MONDE Mercredi
31.10.2007, page 2)
(… tại những nước
đang phát triển, việc kiểm soát phát hành tiền tệ thường nằm trong tay
của quyền lực chính trị, và không ở những ngân hàng trung ương độc lập.
Lạm phát là một cách thế tài trợ rất thuận tiện. Nó được ưa chuộng bởi
những người làm chính trị ở phương diện nó cho phép trong ngắn hạn tăng
lương và trợ cấp các Công ty, cho phép bỏ dầu vào guồng máy.)
* Hệ thống Ngân Hàng Thương mại với những Phát hành Tiền khả thể (Monnaie virtuelle)
Tiền
Giấy công khai (Billet de Banque officiel) do Ngân Hàng Trung ương
trách nhiệm phát hành. Nhưng khi một Ngân Hàng Thương mại giữ Cash
Deposit tới mức 20% chẳng hạn, thì Ngân Hàng này có thể phát hành những
Phương tiện thanh toán tới mức 100%, rồi tìm Chiết khấu, sau đó lại Phát
hành tiếp. Tiến trình Phát hành này để các Công ty sử dụng tất nhiên
thổi phồng lên Lượng Tiền lưu hành. Đó là nguồn quan trọng của tình
trạng Lạm phát phi mã và tạo ra Khủng hoảng Tài chánh.
Chúng
ta có những tỉ dụ cụ thể như hệ thống Ngân Hàng cho vay lỏng lẻo và
thổi phồng Tín dụng. Đó là tỉ dụ hệ thống Ngân Hàng tại Á châu thời
Khủng hoảng Tài chánh năm 1997 mà Bà Francoise NICOLAS đã phân thích và
Quỹ Tiền tệ Quốc tế khi phải can thiệp đã buộc những Quốc gia nhận hỗ
trộ phải cải tổ lại hệ thống Ngân Ngân cho xít xao. Một tỉ dụ gần đây
nhất, đó là tỉ dụ của hệ thống Ngân Hàng Mỹ đã phát hành và cho ra những
Subprime Mortgage Credits tạo Khủng hoảng Tài chánh năm 2008.
Tiền
khả thể (Monnaie virtuelle) là Tín dụng thuộc về tương lai. Những
Letters of Credit, Bank Guarantees, Standby Letters of Credit,
Promissory Notes là những Phương tiện thanh trả như Tiền, nhưng chưa
hiện thực. Giá trị của nó còn nằm trong khả thể, nghĩa là thuộc về hoạt
động Kinh tế, Thương mại tương lai để cho những Giấy Ngân Hàng ấy giá
trị hiện thực. Nhưng tương lai là bấp bênh.
Nhiều
Ngân Hàng còn sử dụng ngay những Leased Bank Guarantee, chỉ cần thuê
một Bank Guarantee với Tiền thuê 15-20% của Face Value để làm Collateral
mà đi vay vốn.
Tất cả những Giấy tờ
Ntgân Hàng này tạo nên một Bank Documents Market mà người ta có thể mua
bán, cho thuê với nhau. Chúng ta ở một Thị trường của Tiền khả thể làm
phồng lên Lượng Tiền lưu hành (M.V) khiến Lạm phát tăng vọt.
Trong
số VietTUDAN này, chúng tôi đăng bài viết về vụ ALC II thua lỗ 3’000 tỉ
đồng và liên lụy đến 30 Tổ chức Tài chánh. Vụ này liên hệ đến Ngân Hàng
AGRIBANK. Nhắc đến tên Ngân Hàng này, chúng tôi nhớ đến chính Ngân Hàng
này đã làm một nghiệp vụ ngân hàng hết sức cẩu thả khiến một Công ty
tại Sài Gòn mất EUR.1’400’000 lãng xẹt.
Số
là Công ty ĐẠ ĐÔ THÀNH đi vay vốn EUR.70’000’000 do một Tập đoàn Tài
chánh ở Luân Đôn hứa với điều kiệm mua Bảo Hiểm mà không cần Bảo Lãnh
Ngân Hàng. Muốn mua Bảo Hiểm, thì phải trả trước 2% của Tổng số vốn vay,
nghĩa là EUR.1’400’000.- Ngân Hàng AGRIBANK là Cố vấn và có nhiệm vụ
chuyển trước EUR.1’400’000.- sang cho Trương mục của Hãng Bảo Hiểm nắm
tại Istambul Thổ Nhĩ Kỳ. Ngân Hàng AGRIBANK đã chuyển tiền xong xuôi,
nhưng Công ty Đại Đô Thành không thấy họ chuyển vốn cho vay.
Một
người ở Hong Kong quen biết tôi và giới thiệu với Công ty ĐẠI ĐÔ THÀNH
để Công ty này nhờ tôi lùng kiếm Tập đoàn Tài chánh Luân Đôn. Tôi cũng
tìm ra đây là Tập đoàn Tài chánh ma tại Luân Đôn và tìm ra hai thủ phạm
biển thủ đang ẩn náu tại Istanbul. Tôi khuyên Công ty ĐẠI ĐÔ THÀNH là số
tiền EUR.1’400’000.- chắc chắn là mất rồi vì những kẻ biển thủ đã tẩu
tán số tiền ấy. Bây giờ nhờ Luật sư kiện, lại tốn tiền thêm vô ích, vì
chỉ có thể bắt kẻ biển thủ vào tù, chứ chúng đã tẩu tán tiền bạc thì lấy
đâu mà trả lại.
Tôi nói với Công ty
ĐẠI ĐÔ THÀNH là hãy mắng chửi Ngân Hàng AGRIBANK là ngu xuẩn. Khi chưa
nắm chắx chắn vốn cho vay, thì Tiền cọc chỉ chuyển vào một Escrow Bank
trung gian mà thôi. Làm nghiệp vụ ngân hàng, mà AGRIBANK đi chuyển
EUR.1’400’000.- một cách cẩu thả như vậy. Lỗi là tại AGRIBANK cẩu thả.
Hệ
thống Ngân Hàng Thương mại ham Tiền lời và Hoa hồng cao, mà phát hành
nhưng Phương tiện thanh trả Tiền khả thể một cách cẩu thả không xét kỹ
khả năng hoàn vốn, thì hệ thống Tín dụng trở thành loạn và dễ tạo Khủng
hoảng Tài chánh vậy.
Nhà Nước Việt có thể kềm chế nổi Lạm phát hay không ?
Khi
phân tích những lý do chính yếu trên đây đưa đến Lạm phát hiện hành,
chúng ta thấy Nhà Nước CSVN khó lòng, hoặc bất lực đưa ra những biện
pháp kềm chế nổi Lạm phát. Không thể kềm chế những lý do này theo kiểu
dầu cù là thoa bóp ngoài da bởi vì những Lý do chính Lạm phát thuộc vào
Cơ chế CSVN.
Trong bài Phỏng vấn do
Ký giả Mặc Lâm thực hiện, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói chính yếu đến biện
pháp giảm chi của Nguyễn Tấn Dũng , hoặc chỉ chi khi thấy có hiệu quả
sản xuất, rồi kêu gọi dân đóng góp:
“…
so với các nước trong khu vực thì lạm phát của Việt Nam cao nhất và cái
cung tín dụng, cung tiền của Việt Nam cũng là cao nhất, và bội chi ngân
sách của Việt Nam cũng là cao nhất, vì vậy cho nên muốn giảm lạm phát
thì trước hết phải giảm cung tiền và cung tín dụng.
Tôi
hy vọng là kỳ này Ngân Hàng Nhà nước sẽ thực hiện được cam kết của mình
vì 2010 thì chỉ tiêu để cung tín dụng là 25% nhưng trong thực tế khi
báo cáo trước Quốc Hội tuần trước thì đã xác nhận là đã có tăng lên trên
30% và cung tiền cũng tăng khoảng 30%, như vậy là mức cung phương tiện
thanh toán còn rất là lớn, và để giải quyết vấn đề này thì tôi nghĩ rằng
chính phủ phải đi đầu bằng cách cam kết cắt giảm bội chi ngân sách, cắt
giảm các khoản đầu tư kém hiệu quả và nêu gương trong vấn đề tiết kiệm,
và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn và nguồn lực của nhà
nước, và đấy chính là sự đóng góp của nhân dân.”
*
Đối với những lý do tác động lên (T) Lượng sản xuất Hàng hóa, Dịch vụ,
thì những Tập đoàn quốc doanh đang sống ngắc ngoải. Nếu giảm cung vốn,
thì họ đi vào phá sản. Đây là điều mà Nguyễn Tấn Dũng không thể để phá
sản như vậy vì họ là những con đẻ của Nguyễn Tấn Dũng. Đứng về phương
diện hiệu quả sản xuất, thì không thể một sớm một chiều mà tăng được
hiệu quả của những Tập đoàn quốc doanh. Lạm phát tăng mỗi ngày, mà hiệu
quả của Tập đoàn quốc doanh phải trường kỳ. Nói về vấn đề dân đóng góp,
thì Cơ chế Nhà nước chủ đạo Kinh tế đang tụt dốc. Dân mất tin tưởng, làm
sao dân bỏ tiền ra cho cho những Tập đoàn quốc doanh thâm thủng, tham
nhũng, lãnh phí.
* Đối với những lý
do tác động lên (M.V) Lượng Tiến lưu hành, tước hết Nhà Nước bất lực với
chính mình bởi lẽ chính Nhà Nước quyết định phá giá đồng bạc để tạo Lạm
phát. Đối với hệ thống Ngân Hàng Thương mại đang phát hành những Phương
tiện thanh trả Tiền khả thể (Monnaie virtuelle), thì họ đang có những
ràng buộc với tương lai. Có những Phương tiện ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn, họ không thể ngưng ngay được bởi lẽ những hậu quả tiếp tục trong
trung hạn và dài hạn. Khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế đòi buộc việc cải tổ hệ
thống Ngân Hàng vào những năm 1997 tại một số nước Á châu, thì IMF/FMI
phải cung cấp Tiền cho hệ thống. Nhà Nước Việt Nam cạn kiệt Ngân sách và
không thể cung cấp vốn cho hệ thống Ngân Hàng Thương mại, thì khó lòng
dùng quyền Chính trị mà bắt hệ thống Ngân Hàng này cải tổ, trừ trường
hợp dùng độc tài mà đóng cửa một số Ngân Hàng. Trong số những Ngân Hàng
Thương mại, những Tổ chức Tài chánh – tỉ dụ như chính của con gái Nguyễn
Tấn Dũng – thì đó là con cháu của đảng, làm thế nào Nguyễn Tấn Dũng
đóng cửa được.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
No comments:
Post a Comment