

Cách
đó không xa, viên sĩ quan phụ tá của tướng Grant, thống lãnh quân đội
miển Bắc, bước vào phòng riêng của tướng Grant để đánh thức ông dậy.
Người sĩ quan hầu cận vội mang đến tướng Grant một tách cà phê nóng hổi.
Tách cà phê dẫu có giúp nhẹ đi cơn nhức đầu nhưng không làm giảm bớt
mối căng thẳng lo âu của tướng Grant. Sau cùng tướng Grant kéo ghế ngồi,
và khởi sự thảo bức thư trả lời thư mới nhận được từ tướng Robert Lee.
“Tôi rất muốn hoà”, tướng Grant viết, “và mong muốn kết thúc cuộc chiến
mà không phải tổn thất thêm một nhân mạng nào nữa. Nhưng cuộc hội kiến
do Đại Tướng đề nghị vào 10 giờ sáng hôm nay không có một lợi ích nào cụ
thể và tôi không có thẩm quyền quyết định hoà hay chiến.” Nhưng bức thư
của tướng Grant chưa kịp đến tay tướng Lee, tiếng súng đã lại bắt đầu
nổ.
5 giờ sáng, sương mù còn bao phủ
rặng đồi bên kia Appamatox. Loạt đạn đầu tiên xé màn sương, đánh thức
sáng chủ nhật 9/Apr/1865, tiếp theo là tiếng thét tiến quân của quân đội
miền nam. Từng đợt tấn công của tướng Gordon đã đánh bật tuyến phòng
thủ đầu của quân miền Bắc, chiếm nhiều cỗ súng đại bác, đánh bạt hai bên
mở rộng đường tiến quân, và ào ạt tiến lên đồi. Nhưng từ phiá bên kia
đồi, quân miền Nam đã đụng phải một bức tường dày đặc, kéo dài hơn 2
dặm, cuả hai đơn vị bộ binh quân đội miền Bắc. Và ép từ phiá sau là hai
đơn vị bộ binh khác của quân miền Bắc tiến lên. Quân miền Nam bị ép vào
giữa, tiến không được, lui cũng không xong, và “chém vè” cũng không
được.
Chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ
sau, tướng Lee được tin khấp báo của tướng Gordon “Quân sĩ của tôi đã
chiến đấu hết mình. Trình Đại Tướng tôi không làm gì hơn được nữa!”. Lập
tức tướng Lee triệu tập Ban Tham Mưu thâu hẹp để quyết định hoà hay
chiến. Tướng Lee nói với các tướng bao quanh: “Giờ đây tôi chẳng còn làm
gì hơn là đến trình diện và đầu hàng trước tướng Grant”.
Nơi
được chọn để nghị hoà là một căn nhà nhỏ mái ngói thuộc Appamatox, một
thị xã hẻo lánh nằm vào phiá Nam tiểu bang Virginia. Có độ chừng 20 căn
phố, lèo tèo vài cửa hàng nhỏ, một lữ quán và toà thị xã. Khi mặt trời
leo lên cao là lúc tướng Lee đã đến điểm hẹn, ông bước theo sự hướng dẫn
của vị sĩ quan tuỳ viên và một sĩ quan tham mưu thuộc Bộ Tham Mưu của
Tướng Grant. Tướng Lee, uy nghi trong bộ binh phục đại lễ, hông đeo
trường kiếm, ngồi xuống cạnh một chiếc bàn gỗ nhỏ. Giờ đây ông đã có mặt
ngay trong lòng đất đối phương.
Vào
khoảng nửa tiếng sau, tiếng giày nện trên sàn gỗ và tướng Grant bước
vào. Khác hẳn với tướng Lee, tướng Grant không đeo kiếm, không mặc quân
phục, quần và đôi ủng lấm đầy bùn.
Theo
lời yêu cầu của tướng Lee, tướng Grant đích thân thảo bản văn kiện
chính thức đầu hàng của quân đội liên hiệp miền Nam và sau đó tự tay
trao cho tướng Lee xem lại.
Chậm rãi, từ tốn, tướng Lee rút cặp kiếng đeo mắt, lấy khăn lau kỹ lưỡng, đeo kính lên và chăm chú đọc.
“….Vũ
khí, đại bác và các tài sản công phải được liệt kê, sắp xếp và giao nộp
cho một viên sĩ quan do tôi chỉ định. Những vũ khí này sẽ không gồm có
vũ khí cá nhân của các sĩ quan, cũng như ngựa và tư trang của họ. Sau
khi hoàn tất, mọi sĩ quan và binh sĩ sẽ được phép trở về nguyên quán, và
sẽ không bị quấy nhiễu bởi các cơ quan cầm quyền chừng nào họ tôn trọng
lệnh đầu hàng và tuân theo luật lệ địa phương nơi họ cư ngụ.”
Lần
đầu tiên trong buổi hội kiến, gương mặt của tướng Lee tươi hẳn. Như vậy
có nghĩa là sĩ quan và binh sĩ dưới quyền của ông sẽ không bị giam giữ
như tù binh chiến tranh. Có nghĩa là họ sẽ không bị đem ra bêu riếu diễn
hành hạ nhục trên các đường phố. Có nghĩa là họ sẽ không bị mang ra toà
truy tố về tội phản loạn.
Tướng Lee
nói, “Thưa Đại Tướng, những điều kiện đầu hàng thế này sẽ có ảnh hưởng
rất tốt với quân đội của tôi.” Và tướng Lee nói tiếp, “Nhưng thưa ngài,
trong quân đội miền Nam cuả tôi, ngay cả binh sĩ khi gia nhập cũng mang
theo ngựa của họ vào quân đội.”
Tướng
Grant nói ông sẽ không thay đổi gì trong văn kiện đầu hàng, nhưng sẽ ra
khẩu lệnh cho phép mọi binh sĩ miền Nam được phép mang ngưạ và lừa về
quê quán để sử dụng trong việc trồng trọt ở các nông trại.
Tướng
Lee còn thêm một lời yêu cầu nữa. Ông trình bày cho tướng Grant biết
ông còn giam giữ hơn một ngàn tù binh quân đội miền Bắc nhưng không có
lương thực cung cấp cho họ và ngay chính quân đội của ông cũng không còn
lương thực. Không ngập ngừng, tướng Grant đề nghị sẽ ra lệnh xuất kho
cấp ngay khẩu phần cho hơn 25,000 quân sĩ của quân đội liên hiệp miền
Nam.
Tướng Grant hỏi, “Như vậy, đủ chưa?”
“Thưa, quá đủ, quá đủ, thưa đại tướng.” Tướng Lee trả lời.
Tướng
Lee đứng dậy, lần lượt bắt tay các sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của tướng
Grant, bắt tay tướng Grant, nghiêng mình chào tất cả mọi người có mặt và
bước ra khỏi phòng họp.
Tướng Grant
và ban sĩ quan tham mưu đã đứng sẵn ở bao lơn trước căn nhà, nơi đôi bên
nghị hoà. Khi ngựa tướng Lee rảo bước đi qua, cặp mắt của hai vị tướng
quân chạm nhau trong giây phút, họ đồng ngả nón chào nhau. Trên bao lơn
xung quanh tướng Grant và suốt trong sân trước căn nhà lịch sử, sĩ quan
và binh sĩ miền Bắc đều đưa tay chào kính vị tướng bại trận quân đội
liên hiệp miền Nam.
Tin đồn đầu hàng
của tướng Lee tràn lan mau chóng như thuốc súng. Khắp nơi binh sĩ miền
Bắc reo mừng. Họ liệng lên không trung mũ nón, giày, bao đạn, áo hay bất
cứ vật gì có thể ném tung lên được. Họ ôm nhau, hôn nhau. Súng ống các
loại, kể cả đại bác bắt đầu nổ. Thế nhưng tướng Grant nhanh chóng ra
lệnh ngưng ngay tức khắc những biểu lộ nỗi vui mừng của binh sĩ miền
Bắc. “Rồi sẽ có ngày mừng chiến thắng”, tướng Grant giải thích, “Nhưng
không phải là ngày hôm nay. Quân đội miền Nam đã đầu hàng. Chúng ta
không được phép reo mừng trên chiến bại của họ”. Điều quan trọng với
tướng Grant là phải làm sao để thắng trận, đồng thời cũng phải gìn giữ
cho bằng được sự toàn vẹn tình cảm giữa những người cùng trong cộng đồng
dân tộc Hoa Kỳ.
4:30 chiều ngày 9 tháng 4, 1865, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh tại Hoa Thịnh Đốn nhận được một
điện văn ngắn ngủi của tướng Grant, “Tướng Lee đã buông súng đầu hàng
quân đội miền Nam theo những điều kiện do tôi ấn định.”
Cách
đó không bao xa, tướng Lee cỡi ngưạ trở về bản doanh của mình. Dọc hai
bên đường, binh sĩ miền Nam nghiêm chào vị tướng lãnh mà họ tôn sùng.
Nhiều người bật khóc, phủ phục bên đường. Tướng Lee cũng không cầm được
nước mắt. Về đến đại bản doanh, trước mặt sĩ quan và binh sĩ đứng chờ,
tướng Lee hướng về họ và nói: ”Tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể
làm được. Và nay lòng tôi nặng chĩu và không thể nói gì hơn”.
Bước
đi vài bước, ông dừng lại và thêm: “Các anh em hãy trở về quê quán. Và
nếu các ngươi sống được như những công dân tốt như các anh em đã từng
chiến đầu như các chiến sĩ thì các ngươi sẽ thành công rồi. Và tôi sẽ
luôn luôn hãnh diện vì các anh em.” Và tướng Lee biến mình vào trong lều
vải của mình.
Điều kiện đầu hàng
được hai tướng Lee và Grant ký kết tại Appamatox ngày 9 tháng 4, 1865
thì 3 ngày sau, ngày 12 tháng 4 mới là ngày quân liên hiệp miền Nam
chính thức buông súng đầu hàng.
Hai
đạo quân dàn đôi bên con đường chạy theo phiá Đông rừng Appamatox. Chỉ
huy cánh quân miền Bắc và điều khiển buổi lễ là tướng Chamberlain,
nguyên là một giáo sư đại học, Huy Chương Danh Dự, hai lần bị thương
trên chiến trường.
Chỉ huy 28,000 sĩ
quan và binh sĩ liên hiệp miền Nam là tướng Gordon, một trong những cận
tướng can trường của Đại tướng Lee, 4 lần bị thương tại mặt trận, một
lần bị trúng đạn xuyên qua mặt.
Tướng
Chamberlain đã ghi lại trong hồi ký cuả mình: ” Từng đoàn, từng đoàn,
họ tiến bước theo nhịp quân hành, ép chặt vào nhau giống như một giòng
người đội vương miện màu đỏ ối, giương cao quân kỳ và hiệu kỳ. Đây là
những người mà gian lao, đau khổ, nhọc nhằn, kể cả tử thần không bẻ cong
được quyết tâm của họ.
Họ đứng thẳng hàng trước mặt đoàn quân chúng
tôi, một đoàn quân tơi tả, xương xẩu, nhưng hiên ngang, mắt sáng ngời
chiến thắng, họ là những hình ảnh sống phản ảnh mối liên hệ thắm thiết
chỉ có thể có giữa những đồng đội trên chiến trường”.
Không
hề dự định trước, cũng như không hề được chuẩn y trước, tướng
Chamberlain bất thần hô lớn ra lệnh, “Bồng súng chào!” cho quân đội miền
Bắc. Một tiếng kèn lệnh vang lên, và lập tức toàn thể đoàn quân miền
Bắc bồng súng lên vai, tiếng báng súng rập khuôn vang lên.
Phiá
đối diện, tướng Gordon thúc nhẹ con tuấn mã khụy hai chân trước xuống,
người và ngựa cùng cúi đầu, gươm tuốt trần chúc mũi trong một dáng đìệu
hùng vĩ tuyệt vời. Cùng lúc, đoàn quân miền Bắc chuyển qua bồng súng
nghiêm chào. Họ chào những “anh hùng bại trận”, họ bày tỏ sự kính trọng
của những người Hoa Kỳ đối với những người Hoa Kỳ.
Và
phiá hàng quân miền Bắc tiếp tục giữ đúng thế nghiêm. Không có thêm một
tiếng kèn. Không có một tiếng trống. Không có một tiếng hô chiến thắng.
Không có một tiếng nói. Không cả một tiếng thầm thì. Mà chỉ còn là một
hàng quân im phăng phắc. Mọi nhịp thở như ngừng lại.
Buổi
lễ đầu hàng kéo dài 7 tiếng đồng hồ. Gần 28,000 người, trên 100,000 tấn
vũ khí, đạn dược, quân kỳ, hiệu kỳ lần lượt bỏ xuống. Từng đơn vị tiến
lên, gác súng, tháo bao đạn, và xếp súng xuống. Kế đến họ trìu mến cuốn
hay xếp quân kỳ, hiệu kỳ, lắm cái tơi tả và lắm cái nhuộm máu đã khô,
sau cùng họ khẽ đặt những lá cờ kia xuống mặt đất…

Bây giờ, xin tạm gọi ngày 09 tháng 04 năm 1865 tại Mỹ là tháng 04/1865, và 30/04/1975 tại Việt Nam là tháng 04/1975.
Một
số người cho rằng Mỹ là quê hương của “Cow Boy”. Mỹ là xã hội sống theo
phương châm “Bắn nhanh thì sống, bắn chậm thì chết”. Mỹ là nơi “mắt đổi
mắt, răng đổi răng”. Tại sao giữa những tin đồn hung hiểm như vậy,
người Mỹ lại có được tháng 04/1865 tuyệt vời như thế kia? Tuyệt vời bởi
lẽ sau nhiều năm quần thảo với nhau trên núi xương, sông máu, người Mỹ
đã nhanh chóng làm hoà với nhau, lấy tình tự dân tộc làm gốc. Tuyệt vời
bởi lẽ biến cố Tháng 04/1865 đã nêu bật tình cảm rằng cả người thắng lẩn
kẻ bại đều thiết tha và chân thành tôn kính lẩn nhau. Tuyệt đối không
có cảnh “nhảy múa trên đau khổ của kẻ bại”. Người đích thực là kẻ chiến
thắng trong 04/1865 chính là dân tộc Hoa Kỳ.
Mang
tháng 04/1865 đặt cạnh tháng 04/1975, mọi người, kể cả những người khác
biệt chính kiến, đều có thể dễ dàng nhận ra những khác biệt lớn lao sau
đây:
- Chiến bai trong 04/1865 là
chiến bại thật. Chiến bại trong 04/1975 là chiến bại biểu kiến (thấy vậy
mà không phải vậy). Chiến bại trong 04/1975 là chiến bại của một quân
đội bị “Đồng Minh” đâm sau lưng.
-
Sau 04/1865, quân Bắc Mỹ không hề trả thù quân Nam Mỹ. Tất cả hình thức
ăn mừng chiến thắng đều bị ngăn cấm. Chẳng những không bị ngược đãi,
quân Nam Mỹ còn được Bắc quân trao tặng hơn hai mươi lăm ngàn 25000 phần
ăn như một lời chúc thượng lộ bình an trên con đường trở về quê hương
gốc. Sau 04/1975, CSVN ra lệnh mang ra chợ xử bắn những quân cán chính
nào của VNCH mà Hà Nội gán cho danh hiệu “ác ôn”. Mặt khác, tất cả
thương bệnh binh của VNCH lập tức bị đuổi ra khỏi toàn bộ hệ thống quân y
viện của Miền Nam Việt Nam. Đó là lý do giải thích tại sao những ngày
đầu tháng 05/1975 vô số thương binh VNCH, kể cả những thương binh vết
thương còn mới nguyên, lê lết khắp phố chợ làng quê…
-
Không một người lính nào trong quân đội Nam Mỹ bị bắt giam như những tù
binh. Ngược lại, tại Việt Nam 04/1975, CSVN bắt giam nhiều trăm ngàn
quân nhân từ tướng đến binh (an ninh tình báo) của VNCH. Hành động bắt
giam này được thực hiện bằng lời kêu gọi mang theo mười ngày lương thực
nhằm tạo cho “nạn nhân” hiểu lầm là họ chỉ đi “học tập cải tạo” mười
ngày. Trong thực tế 10 ngày có nghĩa là một hai thập niên tù khổ sai.
-
Tháng 04/1865 quân Bắc Mỹ chỉ tịch thu vũ khí cộng đồng, họ cho phép
quan,quân miền Nam giữ lấy ngựa và vũ khí cá nhân như những tài sản
riêng. Tháng 04/1975 nhà cửa, xe cộ của sĩ quan cao cấp của VNCH bị tịch
thu, vợ con của quân nhân các cấp bị mất việc làm, bị đuổi đi kinh tế
mới. Đặc biệt, không chỉ riêng gia đình quân cán chính VNCH mà ngay cả
người dân bị goi là “dân vùng ngụy” cũng bị CSVN đánh đòn rất cẩn thận:
đánh tư sản mại bản, đánh công thương kỹ nghệ gia, đánh tiểu thương,
đánh văn nghệ sĩ, đánh tu sĩ các tôn giáo. Nói chung, tháng 04/1975 là
ngày ghi dấu toàn bộ xã hội miền Nam Việt Nam biến thành địa ngục trần
gian.
Cùng là CON NGƯỜI, tai sao
người Mỹ đối xử với người Mỹ khác hẳn CSVN đối xử với người Việt Nam?
Phải chăng văn hoá Mỹ khác với văn hoá Cộng Sản? Đúng rồi, văn hoá CS
hoàn toàn phản lại văn hoá của loài người. Nhóm chữ “văn hoá CS” chỉ là
kiểu dùng chữ tạm thời, giúp cho sự diễn đạt được nhanh chóng. Văn hoá
là sự thăng hoa của văn minh, là cao diểm của văn minh NGƯỜI. Xuất phát
từ tiền đề triết học duy vật( kim chỉ nam của đấu tranh giai cấp), trong
tim óc của môn đồ Cộng Sản không có chỗ dành cho Con Người. Thoạt tiên
Karl Marx dạy người CS hãy nhóm lên ngọn lửa đấu tranh giai cấp để thống
tri xã hội. Thế nhưng trong thực tế ý niệm giai cấp rất mơ hồ. Ghét ai
thì gọi người đó là phú nông, địa chủ. Thương ai thi goi người đó là “tư
sản dân tộc”. Mặt khác, theo đà phát triển của văn minh loài người,
triết học Marx đã hiện nguyên hình là một quái tượng tư tưởng vô cùng to
lớn . Từ đó, người Cộng Sản, đặc biệt là CSVN, hoàn toàn mất hướng suy
nghĩ. Tuy nhiên, trong cuộc đời mất hướng kia, thói quen đấu tranh giai
cấp đã hằn sâu trên tim óc của người CS ba phương châm sống gọi là “ba
ác” mà người CS cho là cực kỳ khôn ngoan:
(1).
Ác một là: Sống tức là đấu tranh chống những người chung quanh (kể cả
đồng chí) để vươn mình lên, để cai trị mọi người, để tước đoạt tài sản
của người khác càng nhiều càng tốt.
(2).
Ác hai là: Sẵn sàng thực hiện bất kỳ điều ác nào, kể cả giết cá nhân
hay tập thể người, nhằm hoàn tất cho bằng được mục tiêu số (1)
(3).
Ác ba là: Phương châm (1) và (2) phải được dấu tuyệt đối kín. Sống để
bụng, chết mang theo. Nhằm tăng cường cho công việc dấu kín kia, người
CS phải lòe bịp người đời bằng cách thường xuyên đề cao Trời Phật, tình
Người, tình yêu tổ quốc, yêu nhân loại.
Muốn
tìm ra lý do tại sao có sự khác biệt lớn lao giữa tháng 04/1865 và
04/1975 chúng ta hãy căn cứ vào “ba ác” kể trên để theo dõi hành động
của đảng CSVN từ 1954 đến ngày nay, 2008.
1955
và các năm kế tiếp, CSVN nhân danh giai cấp bần cố nông đánh các mặt
trận: Cải cách ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án xét lại chống đảng…
Mục đích: cướp tài sản của quần chúng nhân dân và củng cố quyền thống
trị của đảng.
1968 CSVN nhân danh
giai cấp vô sản tàn sát nhiều vạn đồng bào cố đô Huế. Mục đích: khủng bố
quần chúng Huế để cưởng bách Huế phải tuân phục Hà Nội.
1975,
tháng 04, CSVN vẫn nhân danh giai cấp vô sản một mặt tống giam hàng
trăm ngàn quân nhân và nhiều thành phần quần chúng khác nhau, mặt khác
đánh tư sản, công thương gia , cưởng đoạt tài nguyên quốc gia, biến tài
nguyên này thành tài sản riêng của đảng CS, xuất cảng thuyền nhân, phụ
nữ, trẻ em, công nhân lao động… Tất cả những việc làm kia chỉ vì mục
đích cướp tài sản của toàn dân và củng cố quyền thống trị.
1985
đến 2008, kinh tế quốc doanh của CS bắt buộc phải đầu hàng kinh tế thị
trường, giai cấp tư bản đỏ ra đời ngay càng đông, càng giàu có một cách
bất lương. CSVN bắt đầu đổi giọng, không còn nhắc đến giai cấp vô sản
nữa, mặc dầu giai cấp nay ngày càng phình to. CSVN công khai phục vụ
Trung Quốc, phục vụ doanh nhân quốc tế. CSVN không ngần ngại thẳng tay
đàn áp sinh hoạt tôn giáo, những tổ chức yêu chuộng tự do dân chủ, công
nhân, dân oan, thanh niên sinh viên biểu tình chống Trung Quôc xâm lược,
chống Olympic Trung Quốc….
Quá trình
hoạt động của CSVN trong các thập niên qua để lộ ra rằng CSVN cai trị
đất nước dưới nhiều lớp áo khác nhau: bần cố nông, vô sản, tư bản đỏ,
người bạn thân thiết của doanh gia ngoại quốc, kẻ tôi tớ trung thành của
quân xâm lược Trung Quốc…Trong nhiều lớp áo khác nhau kia CSVN bao giờ
cũng “đề cao” tình người, tình tổ quốc, tính nhân loại. Hẳn nhiên những
đề cao như vậy đều là những đề cao gian dối, những đề cao nằm trong kế
hoạch thực hiện “ba ác” của người-CS-biến-thái-sau-khi-chủ-nghĩa-Marx-
thất-bại. Nói đúng hơn, sau thất bại của Marx, con người Cộng Sản trở
thành con người Mafia. Thế rồi, đảng CSVN với bản chất Mafia đã “Mafia
hoá” xã hội Việt Nam qua ba cội nguồn sau đây:
1)
Quan hệ giữa nhà cầm quyền CSVN với quần chúng Việt Nam là quan hệ giữa
cá lớn với cá bé, giữa động vật khỏe với động vật yếu. Lâu dần, do ảnh
hưởng cách ứng xử của nhà cầm quyền, người dân quay ra đối xử với nhau
theo luật mạnh được, yếu thua. Luật này là luật hàng đầu của xã hội
Mafia.
2) Nhà cầm quyền CSVN ra lệnh
cho báo chí, truyền thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông
khác phải truyền thông theo kiểu cắt đầu, cắt đuôi, bóp méo sự thực.
Bằng lề thói truyền thông kia nhà cầm quyền đã dạy dỗ và đào tao người
dân thành những kẻ ăn gian nói dối. Ngay thẳng là khờ khạo, gian manh là
khôn ngoan. Không gian dối, không phải là Mafia.
3)
Biết rõ thế giới kinh tởm bộ mặt Mafia, CSVN thường xuyên nỗ lực che
đậy bộ mặt Mafia của họ. Muốn vậy CSVN phải ẩn nấp đàng sau tấm bảng
hiệu Karl Marx. Ẩn nấp như vừa kể, CSVN muốn nói với thế giới rằng CSVN
không là một đảng trộm cướp Mafia, và rằng CSVN đích thực là một đảng
chính trị lấy tư tưởng Marx làm kim chỉ nam. Nhằm giúp cho việc ẩn nấp
được chu đáo hơn, “giống thật” hơn, CSVN cưởng bách toàn bộ hệ thống
giáo dục của xã hội Việt Nam phải đều đặn học tập chủ nghĩa Marx. Sự thể
này đã dẫn đến một sự thực rằng: Trước kia ông Hồ Chí Minh và những
đồng chí của ông ấy đã từng học Marx, theo Marx, đã từng trở thành những
người CS biến thái sau khi chủ nghĩa Marx thất bại, đã từng sống theo
“ba ác”, đã từng là Mafia. Ngày nay CSVN lôi kéo toàn bộ xã hội Việt Nam
đi vào con đường có đầy đủ cái “đã từng” kia.
Cùng
là con người tại sao tháng 4, 1865 là thiên đàng, tháng 4,1975 lại là
hỏa ngục? Thưa rằng tại vì tháng 4, 1865 người Mỹ đối xử với nhau bằng
văn hoá con người so với tháng 4, 1975 CSVN “đãi ngộ” quân dân miền Nam
Việt Nam bằng “văn hoá” ba ác, “văn hoá” Mafia. Điều nguy hại hơn nữa là
từ sau tháng 4, 1975 cho đến nay, CSVN không ngừng thủ tiêu văn hoá
Việt Nam, thay vào đó là “văn hoá” Mafia.
Văn
hoá là quốc hồn. Văn hoá đi vắng. Quốc hồn bay xa. Lòng yêu nước của
người dân mờ phai. Hiện nay, đa số người dân Việt gần như không nghĩ đến
nghĩa vụ bảo vệ non sông. Trong khi đó, tin tức thời sự cho biết dân
Tàu đang ồ ạt kéo vào lãnh thổ Ai Lao với lý do kinh doanh, thực tế là
lục tìm lương thực. Trong khi đó tin từ Việt Nam cho biết nương vào sự
việc từ lâu, CSVN đã cho phép Tàu vào Việt Nam như đi chợ không cần giấy
tờ nhập cảnh, nương vào lý do “bảo vệ ngọn đuốc Olympic” nhiều đạo quân
Tàu mặc thường phục đang tràn ngập Việt Nam từ Bắc vào Nam. Phải chăng
đây là một cuộc đại xâm lăng không bằng súng đạn mà bằng chiến thuật lấy
thịt đè người? Đây là dấu hỏi gây nhức nhối tim óc dành cho người Việt
Nam trong cũng như ngoài nước vào dịp 30/04/2008 vậy.
Phan Quang Tuệ & Đỗ Thái Nhiên
No comments:
Post a Comment