
![]() |
Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Ảnh On the net |
Từ
năm 1956 tới 1968 nhà tỷ phú Nelson Rockefeller mướn Kissinger soạn
thảo các dự án cho ông. Qua lời mời của Cabot Lodge, Kissinger sang thăm
Việt nam năm 1965, 1966. Ngày 19-8-1966 ông viết bài nhận định đầu tiên
về Việt Nam trên tạp chí Look, ông cho biết cuộc chiến Việt Nam khó kết
thúc bằng chiến thắng quân sự mà cần thương thuyết tìm hòa bình. Năm
1968 Kissinger trở thành chính trị gia nổi tiếng, khi Nixon đang tranh
cử Tổng thống với Humphrey, Kissinger được mời làm cố vấn trong ban cố
vấn của Nixon về bang giao quốc tế. Một tháng sau khi Nixon đắc cử Tổng
thống, Kissinger được mời làm cố vấn an ninh quốc gia, từ một người lính
trơn năm 1943 ông đã trở thành cố vấn Tổng thống và sau đó bộ trưởng
ngọai giao. Ông là người nổi bật trong chính sách ngoại giao Mỹ từ
1969-1977, trong thời gian này, Kissinger mở màn cho chính sách hòa hoãn
(détente) với Nga sô, mở đầu bang giao với Trung Cộng và giữ vai trò
chính trong tại cuộc hòa đàm Ba lê.
Với
tư cách cố vấn Tổng thống, ông mở màn cho chính sách hòa hoãn với CS
Nga, đàm phán về tài giảm binh bị và hiệp ước chống đầu đạn nguyên tử
với Brezhnev, Tổng bí Thư Nga Sô. Kissinger sang Trung Cộng hai lần
tháng 7 và tháng 10-1971 để sửa soạn cho cuộc hội họp thượng đỉnh giữa
Nixon, Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông năm 1972, để hai siêu cường thiết
lập bang giao, chấm dứt 23 năm thù nghịch. Kết quả của bang giao là một
liên minh chiến lược ngầm chống Nga của Mỹ và Trung Cộng, nhưng hai bên
chỉ thực sự có liên hệ ngọai giao từ 1979 vì vụ Watergate làm chính phủ
Mỹ bối rối và vì Mỹ vẫn công nhận Đài Loan.
Nixon
đắc cử Tổng thống cuối 1968 vì lời hứa đi tìm hòa bình trong danh dự và
chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Ông đưa ra chính sách Việt Nam hóa chiến
tranh để người Mỹ rút dần, VNCH tự vệ chống CSBV và VC. Kisinger đóng
vai trò then chốt trong kế hoạch oanh tạc tại Miên để ngăn chận những
cuộc tấn công của CS vào VNCH từ Miên và ngăn chận địch dùng đường mòn
Hồ Chí Minh để tiếp viện, cuộc hành quân vượt biên giới Miên năm 1970 và
những cuộc oanh tạc mở rộng xứ chùa tháp giúp Lonol vì biết Khmer đỏ
đang thắng thế.
Hòa
đàm Paris bắt đầu từ 10-5-1968 do Harriman đại diện Mỹ và Xuân Thủy đại
diện Hà Nội khai mạc. Từ tháng 5 cho tới tháng 10 cuộc hòa đàm dậm chân
tại chỗ vì Hà Nội đòi Mỹ phải ngưng oanh tạc toàn diện miền Bắc VN,
ngày 31-10-1968 TT Johnson chấp nhận yêu cầu của BV, khi ấy cuộc đàm
phán mới thực sự bắt đầu. Năm 1969 Nixon đắc cử nhậm chức Tổng thống,
Cabot Lodge thay thế Harriman. Việc thương thuyết thực ra không đạt được
trên bàn hội nghị nhưng do đi đêm (secret negotiations) giữa Kissinger
và trùm Cộng Sản BV Lê Đức Thọ bắt đầu từ 4-8-1969. Suốt ba năm liên
tiếp, Thọ yêu cầu Mỹ loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu, Kissinger và Nixon không
chấp nhận.
Một
tiến triển, khai thông lớn vào ngày 8-10-1972, chiến dịch Nguyễn Huệ
hành quân sang Miên khiến CSBV mất tinh thần, họ càng lo sợ bị cô lập
khi Nixon đã hòa hoãn được với Nga và Trung Cộng, hai siêu cường đã yểm
trợ cho Hà Nội. Trong một cuộc thương thuyết với Kissinger, Lê Đức Thọ
không đòi hỏi phải lật đổ Nguyễn Văn Thiệu và hai chính phủ VNCH và
chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam sẽ đi đến thỏa thuận.
Trong vòng mười ngày mật đàm đi tới bản dự thảo Hiệp định, Kissinger vui
mừng họp báo cho biết hòa bình đã ở trong tầm tay.
Chính
phủ Sài Gòn không hay biết gì về mật đàm giữa Mỹ và CSBV, khi được tiến
sĩ Kissinger cho thấy bản dự thảo, TT Thiệu vô cùng bất mãn với Hoa Kỳ,
đòi thay đổi nhiều khoản và tuyên bố trên đài phát thanh, truyền hình
chỉ trích bản dự thảo còn tệ hơn trước. Phía Hà nội cũng bất mãn cho
rằng Kissinger đã đánh lừa họ. Số tử vong của Mỹ lên cao khiến phong
trào phản chiến càng mạnh hơn, đầu năm 1973 Nixon bị Quốc hội, cử tri áp
lực phải rút quân về nước và ông cũng ép buộc VNCH phải ký hiệp định dù
không được sửa chữa, đúng là “dùi đánh đục, đục đánh gỗ”. Nixon cam kết
với chính phủ Sài gòn sẽ tiếp tục yểm trợ miền Nam khi BV vi phạm Hiệp
định. Giáng sinh 1972, Nixon cho oanh tạc BV dữ dội để họ phải trở lại
bàn hội nghị và cũng để trấn an TT Thiệu yên tâm, cuối cùng Thiệu phải
ký. Ngày 23-1-1973 Kissinger và Lê Đức Thọ thỏa thuận bản dự thảo đã
được đã được soạn từ ba tháng trước. Hiệp định được chính thức ký kết
ngày 27-1-1973 tại khách sạn Majestic, Paris. Đại diện hai bên gồm Cabot
Lodge, Trần Văn Lắm, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Thị Bình .
Ngày
9-8-1974 Nixon từ chức vì vụ Watergate, 9 tháng sau VNCH sụp đổ vào
ngày 30-4-1975, ông Thiệu từ chức, lên án Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh.
* * *
Gần
đây cựu ngọai trưởng Kissinger nói chuyện trong một cuộc hội thảo tại
Bộ ngoại giao Mỹ về lịch sử sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á. Bộ
ngọai giao cũng đã cho ấn hành nhiều bài tường trình dựa trên hồ sơ giải
mật về những quyết định của Hoa Kỳ tại VN trong mấy năm cuối cùng của
cuộc chiến .
Kissinger
cho rằng phần lớn thất bại ở Việt Nam do chúng ta (người Mỹ) gây ra cho
chính mình, trước hết ta đã đánh giá quá thấp sự kiên trì lỳ lợm của
các nhà lãnh đạo CS Hà Nội. Ông đánh giá cuôc chiến một cách bi quan, nó
kết thúc bằng cảnh Sài Gòn thất thủ ô nhục, ông ta than vãn cho những
nỗi niềm đau khổ của lớp thế hệ Mỹ trong khi cuộc chiến kéo dài.
Kissinger nói trọng tâm chính sách Hoa Kỳ hồi ấy là để bảo vệ sự sống
còn của miền Nam VN đã thất bại, Người Mỹ đã không khuất phục được kẻ
thù, Hoa Kỳ muốn đàm phán nhưng Hà Nội chỉ muốn chiến thắng.
Những
bất đồng quan điểm về sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam đã ảnh hưởng đến
tinh thần của chính sách ngọai giao và rồi ảnh hưởng đến cả nước Mỹ.
Ông nói đối với tôi, bi kịch của cuộc chiến tranh VN không phải chỉ có
bất đồng ý kiến, điều đó không thể tránh được nhưng người Mỹ đã hết còn
tin tưởng nhau trong cuộc chiến. Tôi cho là tất cả sự thất bại ở VN do
chính chúng ta tạo nên. Tôi mong có một chung cục khác hơn là cảnh chúng
ta xâu xé nhau tan nát.
Cựu
ngọai trưởng khen Cộng Sản Hà Nội đã quyết tâm theo đuổi mục tiêu thống
nhất hai miền Nam Bắc, họ đã đánh bại thực dân Pháp năm 1954, các sử
gia cũng kết luận như thế. Ông trích lời nhà quân sử John Prados, tác
giả cuốn “Việt Nam, Lịch Sử Cuộc Chiến Tranh Không Thể Thắng Được
1945-1975” và nói miền Bắc đã có mục tiêu rõ ràng – thống nhất đất nước-
và niềm tin tuyệt đối vào chủ trương ấy.
Kissinger
khen Lê Đức Thọ, người đi đêm với ông trong những năm hòa đàm là người
khôn khéo thi hành đường lối của Hà Nội để thắng Mỹ, ông nói Thọ đã mổ
xẻ chúng ta y như một nhà giải phẫu với đường dao thật khéo. Ngày
10-12-1973 Kissinger và Lê Đức Thọ được giải Nobel hòa bình cho việc ký
Hiệp định Paris 12 tháng trước đó, Kissinger nhận giải, ông nói tôi muối
mặt nhận giải (he accepted the award “with humility”), Thọ từ chối, ông
nói với Kissinger chiến tranh vẫn còn tiếp diễn. Hiệp định Paris là lối
thoát cho Hoa Kỳ rút chân ra khỏi Việt Nam khiến miền Nam VN bị nguy cơ
CS xâm lăng.
Kissinger
nói chúng ta biết đó là một hiệp định nguy hiểm, bấp bênh và cuộc chiến
không thực sự chấm dứt nhưng Hoa Thịnh Đốn tin tưởng miền Nam VN có thể
đẩy lui cuộc xâm lăng của CS.
Cựu bộ trưởng cho biết đàm phán với Thọ thật là vất vả, nếu không phải nói chuyện với hắn thì đỡ khổ.
* * *
Người
Mỹ vẫn thường tổ chức những buổi hội thảo nhìn lại quá khứ, cuộc chiến
tranh Việt Nam đã để lại cho họ nhiều ám ảnh chua cay, chưa bao giờ đất
nước bị phân hóa chia rẽ đến thế, nhất là những năm đầu thập niên 70, họ
đã cắn xé nhau tan nát vì bất đồng chính kiến bất đồng quan điểm. Không
riêng gì Kissinger, nay nhiều người Mỹ đã thẳng thắn nhìn nhận Hoa Kỳ
thất bại, thua cuộc, tháo chạy nhục nhã vào những ngày cuối tháng
4-1975. Hình ảnh ông Đại sứ và những người Mỹ cuối cùng vội vã lên trực
thăng trên nóc tòa cao ốc làm hoen ố danh dự, thể diện của một siêu
cường, nhưng Quốc hội phản chiến và những người chống chính phủ đã chấp
nhận sự nhục nhã vì quyền lợi của nước Mỹ. Nhận xét của cựu ngọai trưởng
về nguyên do sự thất bại cũng không có gì mới lạ, nhiều người nói họ
bại trận vì cuộc chiến tại đất nhà (war at home) chứ không phải tại
chiến trường, người Mỹ đã tạo ra chiến bại cho chính họ, có điều là nay
Kissinger đã thẳng thắn nhìn vào sự thật.
Sự
can thiệp của người Mỹ vào Việt Nam có hai giai đọan rõ rệt: thứ nhất
từ 1965-1968 dưới nhiệm kỳ Tổng thống Johnson và thứ hai từ 1969 tới
những năm đầu thập niên 70 dưới nhiệm kỳ Tổng thống Nixon. Ngược dòng
lịch sử, năm 1965 là thời kỳ cao điểm của thuyết Domino, cụ thể là nếu
mất Việt Nam sẽ kéo theo nhiều nước tại Đông Nam Á sụp đổ như trong ván
cờ domino. Năm 1965 tình hình chiến sự tại miền Nam VN vô cùng bi đát,
tính trung bình mỗi tuần mất một tiểu đoàn và một quận, trong vòng 6
tháng VNCH sẽ bị rơi vào tay CS nếu không có sự can thiệp của người Mỹ.
Được sự ủng hộ của lưỡng viện quốc hội và 78% dân Mỹ, TT Johnson không
còn con đường nào khác hơn là đổ quân vào miền nam VN để cứu nguy sự
sống còn của người bạn đồng minh.
Cuộc
chiến ngày càng mở rộng, Johnson được quốc hội ủng hộ cho tăng quân đều
đều hàng năm từ 184,300 người năm 1965…và mấy năm sau 1968 lên tới
536,100 người. Phong trào phản chiến ngày một lên cao, trong hai năm đầu
1965, 66 tuy có chống đối số người ủng hộ chính phủ còn cao khoảng 61%,
51% nhưng tỷ lệ ủng hộ ngày một giảm dần cho tới Tết Mậu thân 1968 thì
tụt thang nhanh chóng chỉ còn 30%. Năm 1968 đánh dấu một khúc quành bi
thảm cho số phận của VNCH, mặc dù trận Tết Mậu Thân là chiến thắng quân
sự lớn của VNCH và đồng minh nhưng niềm tin tưởng của người dân Mỹ vào
chính phủ không còn, họ chống đối dữ dội hơn trước gấp bội phần đòi
chính phủ phải đem quân về nước, tìm hòa bình vì trước mắt không biết
bao giờ mới chiến tranh mới chấm dứt.
Nixon
khi tranh cử hứa sẽ tìm hòa bình trong danh dự và đem quân về nước,
nhậm chức 1969 ông thực hiện lời hứa đó, có nghĩa là rút bỏ VNCH và Đông
Dương. Nixon gặp quá nhiều khó khăn trắc trở gấp bội lần Johnson, chính
phủ phải đương đầu với cuộc chiến tại đất nhà đi vào giai đoạn bạo
động, đổ máu, bắn giết nhau giữa sinh viên cảnh sát, quân đội… Chính phủ
Johnson còn có thực quyền giải quyết cuộc chiến nhưng Nixon không có
thẩm quyền là bao, ông đã được cử tri, quốc hội giao trọng trách tìm hòa
bình trong danh dự, bỏ VN mà đối với Nixon, việc bỏ rơi đồng minh là
điều bất nhẫn nó khiến cho sự hy sinh của 58 ngàn lính Mỹ trở thành vô
nghĩa. Mặc dù nỗ lực bằng mọi cách để cứu nguy sự sống còn của miền nam
VN nhưng Nixon không thể quay ngược bánh xe lịch sử khi mà phong trào
phản chiến đã nắm được quốc hội, đã tước đoạt mọi thẩm quyền của ông.
Marshall McLuhan, nhà văn, giáo sư Gia Nã Đại đã nói về truyền thông trong chiến tranh Việt Nam như sau:
“Truyền
hình đã mang những cảnh chiến tranh tàn bạo tới căn phòng khách ấm
cúng. Việt Nam thua từ trong những căn phòng ấm cúng ở Hoa Kỳ chứ không
phải tại mặt trận bên Việt Nam”
The Media:Vietnam war, Vietnamwar.net
Thật
vậy, nước Mỹ thua trận vì cái máy truyền hình , thập niên 50, chỉ có 9%
dân Mỹ có TV nhưng sang thập niên 60, những năm chiến tranh VN nóng
bỏng 1966, 67, 68 số người xử dụng TV đã tăng lên 93%. Phim ảnh diễn tả
cuộc chiến đã gây xúc động cho người dân Mỹ, phong trào phản chiến lan
mạnh ở Mỹ lúc này vì đây là lần đầu tiên chiến tranh đã được giới truyền
thông đưa vào quảng đại quần chúng và lần đầu tiên tin tức chiến sự đã
không bị kiểm duyệt. Các phóng viên, nhiếp ảnh gia tự do lấy tin chiến
sự bên VN về nước phổ biến rộng rãi, đài truyền hình quay phim đem về
chiếu những cảnh bắn giết, đốt nhà khiến cho người dân ghê tởm cuộc
chiến.
Điều
tai hại là nhiều phóng viên, nhà làm phim đã xuyên tạc cuộc chiến, đầu
độc thanh niên, đổ dầu vào lửa, họ làm giầu vì chiến tranh, hốt bạc nhờ
những bản tin đem về từ chiến trường xa xăm bên kia trái đất. Họ loan
tin quân đội Hoa Kỳ mất chính nghĩa, tàn ác giết cả trẻ con, hãm hiếp
phụ nữ… thậm chí sau khi chiến tranh, cựu chiến binh về nước bị người
dân, giới trẻ phỉ nhổ là đồ sát nhân, gian ác, tất cả chỉ là hậu quả của
thông tin do những phóng viên, ký giả tán tận lương tâm vô trách nhiệm.
Kissinger
khen các nhà lãnh đạo BV lì lợm, kiên trì nhưng nếu không có phản chiến
họ có lì lợm được hay không? Các nhà lãnh đạo CSBV theo đuổi chiến lược
cố đấm ăn xôi phần lớn họ trông thấy phong trào chống đối ngày càng lớn
mạnh, họ sẵn sàng đẩy thanh niên vào chỗ chết để hỗ trợ cho phong trào
phản chiến, BV đặt nhiều hy vọng vào phản chiến. Nixon nói nhóm phản
chiến đã nối giáo cho giặc, tại Hòa đàm Paris, BV nắm được “cái tẩy” của
hành pháp Mỹ đang suy yếu vì bị cử tri, quốc hội gây áp lực. Họ biết
vậy nên ngày càng gây khó dễ, không chịu đàm phán nghiêm chỉnh hoặc phá
thối hòa đàm, đôi khi Thọ chửi bới Kissinger hỗn hào mà ông ta phải nhịn
nhục để mong sớm ký Hiệp định. Tháng 12 -1972, BV tưởng bở, hy vọng
Quốc hội sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh đem quân về nước nên Lê Đức Thọ
đã bỏ không thèm họp Hội nghị. Nixon cũng chẳng phải tay vừa, ông đã
thẳng tay trừng trị BV bằng trận đòn B-52 suốt mười ngày cuối năm 1972
để bắt Hà Nội phải trở lại bàn hội nghị.
Tình
hình cuối năm 1972, CSBV bị thảm bại sau trận mùa hè đỏ lửa, từ 500 đến
700 xe tăng bị bắn hạ, từ 70 ngàn cho tới 100 ngàn cán binh bị tử
thương. VNCH thắng nhưng khi ký Hiệp định Paris lại như thua nguyên do
TT Nixon phải nhượng bộ BV vì sự thúc ép của Quốc hội phản chiến và cử
tri Mỹ, họ sẵn sàng ra luật chấm dứt chiến tranh, hy sinh Đông Dương để
đánh đổi lấy 580 người tù binh còn bị BV giam giữ nếu việc ký kết không
thành, nếu VNCH gây trở ngại.
Nguyễn Đức Phương đã nhận xét:
“Người
Mỹ ký hiệp định Ba Lê với mục đích rút ra khỏi vũng lầy VN đồng thời
trao đổi tù binh Mỹ. Quyền lợi chính của miền Nam không được chú trọng
đến. Một chuyên viên về du kích chiến, Sir R. Thompson, khi thảo luận về
việc ký kết hiệp định Ba Lê đã viết “ Sự sống còn của miền Nam VN bị đe
doạ chỉ vì để tránh cho nước Mỹ khỏi phải cấu xé nhau tan nát. Một điều
trái ngược ở đây là miền Bắc VN bị bắt buộc phải ngồi vào bàn hội nghị
tại Ba Lê không phải để tự cứu họ mà là để cứu nước Mỹ” Vì lý do vừa kể
nên mặc dù có quá nhiều khuyết điểm, hiệp định Ba Lê vẫn phải được phê
chuẩn với bất cứ giá nào”
Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 811
Theo
TT Nixon, sau Hiệp định Paris đầu năm 1973 miền Nam mạnh hơn miền Bắc
lý do BV bị thiệt hại nặng trong cuộc tổng tấn công mùa hè đỏ lửa và
trận oanh tạc của B-52 dịp Giáng sinh đã phá hủy nhiều kho hàng, cơ sở
quân sự tại Hà Nội Hải phòng, nhưng sau đó CS quốc tế tiếp tục viện trợ
dồi dào cho BV, ngược lại Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ miền Nam nên cán
cân lực lượng đã hoàn toàn đảo ngược. Sự sụp đổ của VNCH là điều không
thể tránh khỏi.
Cựu
ngọai trưởng ca ngợi quyết tâm thống nhất hai miền Nam Bắc của Hà Nội,
họ đã đánh bại người Pháp 1954 để theo đuổi mục tiêu thống nhất và tin
tưởng tuyệt đối vào tinh thần ấy. Nếu nói họ hạ quyết tâm thống nhất hai
miền vì lòng yêu nước thì chỉ để nói cho vui thôi chứ thực ra vì cái
bao tử. Miền Bắc đất chật dân đông, đồng bằng Bắc Việt cằn cỗi vì đã xưa
cũ, sản lượng lúa gạo không đủ nuôi số dân quá đông, ngược lại miền Nam
đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu, cá tôm dồi dào, dân cư thưa thớt đã
được coi là vựa lúa. Trước 1954, miền Nam vẫn thường phải chở lúa gạo
tiếp tế cho miền Bắc vì như đã nói trên sản lượng lúa gạo tại đây không
đủ nuôi dân, sau Hiệp định Genève 1954 miền Bắc phải nhập cảng lúa gạo
của Miến Điện. Năm 1957 Thủ Tướng BV Phạm Văn Đồng gửi văn thư cho ông
Ngô Đình Diệm xin hiệp thương hai miền, văn thư rất trịnh trọng “Kính
Thưa Tổng Thống….” Nhưng bị ông Diệm từ chối thẳng thừng nên Hà nội phải
quay ra dùng quân sự để thôn tính miền Nam, sống chết cũng phải chiếm
được vựa lúa miền Nam.
Từ
sau 1975 cho đến nay, mức sống tại miền Nam vẫn cao hơn miền Bắc nhiều,
kinh tế miền Nam VN vẫn là đầu tầu cho cả nước về mọi mặt: sản xuất lúa
gạo, khai thác dầu khí, đầu tư của nước ngoài, hàng xuất khẩu, tiền gửi
về từ khúc ruột ngàn dặm… Đó là lý do tại sao Hà Nội phải theo đuổi mục
tiêu thống nhất đến cùng, họ đã nướng một triệu quân để chiếm cho được
kho tài nguyên phong phú của miền Nam VN.
Thống
nhất hai miền Nam Bắc là điều ắt phải làm nhưng có nhiều cách để thống
nhất trong hòa bình, bằng ngọai giao, kinh tế, chính trị…tại sao chúng
ta phải chém giết nhau, phải làm đổ máu hàng mấy triệu người khiến đất
nước tan hoang lạc hậu cả nửa thế kỷ ? Tôi nghĩ có lẽ người Mỹ họ lịch
sự, giả vờ ca ngợi mục tiêu thống nhất của CSVN cho vui thôi chứ trong
lòng họ không thể nào dấu nổi sự khinh bỉ ghê tởm cho sự lì lợm cố đấm
ăn xôi của những người CS da vàng.
Kissinger
than thở Lê Đức Thọ gây nhiều khó khăn bực tức cho ông, theo Nixon sở
dĩ Thọ hỗn hào chửi mắng Kissinger vì thấy hành pháp lâm vào thế yếu, bị
Quốc hội và cử tri phản đối ầm ĩ. Đại diện BV thừa cơ nước đục thả câu,
lợi dụng khi hành pháp bị lập pháp gây áp lực, chống đối nên càng kéo
dài đàm phán không chịu ký kết để buộc Mỹ phải nhượng bộ tại bàn hội
nghị.
Cựu
ngoại trưởng nói ông đã thấy Hiệp định Paris nguy hiểm bấp bênh cho
miền Nam VN và cuộc chiến không thực sự chấm dứt, nhưng Hoa Thịnh Đốn
tin tưởng miền Nam VN có thể đẩy lui sự xâm lăng của CS. Sự tin tưởng
của chính phủ Mỹ vào khả năng tự vệ của miền Nam VN là điều giả dối, chỉ
là câu nói an ủi cho người bạn đồng minh vì như chúng ta đều đã thấy
hỏa lực của CS bao giờ cũng mạnh hơn miền Nam qua nhiều trận thử thách.
CS quốc tế đã viện trợ quân sự cho đàn em nhiều hơn Mỹ cho VNCH cả về
phẩm lẫn lượng, năm 1968 trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu thân, vũ khí
cá nhân cũng như cộng đồng của cán binh CS toàn là những thứ ác ôn, hiện
đại trong khi quân đội miền Nam VN vẫn còn dùng súng đạn từ thời Thế
chiến Thứ hai .
Người
Mỹ đã đánh giá thấp khả năng viện trợ của Nga sô Trung Cộng và trên
thực tế ta thấy một trong những lý do chính khiến cuộc chiến thất bại vì
Hoa Kỳ đã không chạy đua kịp với khối CS quốc tế về viện trợ quân sự
cho đồng minh của mình. Năm 1965 trung bình một tuần VNCH mất một quận
và một tiểu đoàn lý do viện trợ quân sự của Mỹ cho miền Nam thua viện
trợ của CS quốc tế cho đàn em của họ. Hỏa lực của miền Nam không đủ để
tự vệ và đẩy lui các cuộc tấn công của VC. Trong trận tổng tấn công mùa
hè đỏ lửa 1972, nếu không được sự yểm trợ của máy bay chiến lược B-52
thì VNCH khó mà bảo vệ được An Lộc, Kontum và và chiếm lại được Quảng
Trị, không lực Mỹ đã duy trì cán cân lực lượng và VNCH vẫn còn một cơ
hội tốt để sống còn. Nhất là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến VN, Quốc
hội Mỹ cắt xén viện trợ cho VNCH đến xương tủy trong khi đó Hà Nội vẫn
nhận đầy đủ hàng viện trợ quân sự của Nga Sô, Trung Cộng và ngày sụp đổ
30-4-1975 là bằng chứng cụ thể rõ ràng nhất cho sự viện trợ yếu kém của
Hoa Kỳ.
Ngân
khoản viện trợ quân sự cho VN được Hành pháp Mỹ đưa ra Quốc hội bàn
luận, cắt xén, cò kè bớt một thêm hai trong khi các nước CS Nga Sô Trung
Cộng vẫn yên lặng viện trợ ồ ạt cho BV đủ lọai vũ khí tối tân. Trên
thực tế viện trợ quân sự của CS quốc tế cho BV để đánh nhau với Mỹ chứ
không phải để đánh VNCH. Viện trợ của CS quốc tế cho đàn em toàn những
vũ khí tối tân như hỏa tiễn tầm nhiệt, xe tăng hiện đại, đại bác có tầm
viễn xạ tối đa 30 cây số… trong khi Hoa Kỳ viện trợ cho miền nam những
vũ khí cũ secondhand, không đủ đương đầu với hỏa lực địch. Người Mỹ la
làng kêu than cuộc chiến VN quá tốn kém, từ đầu chí cuối mấy trăm tỷ đô
la… nhưng họ không biết rằng CS quốc tế chi viện cho BV nhiều hơn Mỹ mà
ta không nghe thấy ở họ một lời than thở.
CSBV
có nhiều thuận lợi hơn miền nam VN trong việc xin viện trợ vì Đảng CS
tại Nga và Trung Cộng toàn quyền trong chính sách yểm trợ cho các nước
thuộc quĩ đạo của họ, muốn viện trợ bao nhiêu cũng được, người dân, quốc
hội bù nhìn không ai dám hé răng. Ngược lại VNCH mỗi lần xin viện trợ
quân sự phải cử người sang Mỹ vận động đi tới đi lui, Chính phủ không
thực sự có quyền chi viện mà phải thông qua sự cứu xét của Quốc Hội,
thường là bị cắt xén, nhất là giai đoạn cuối của cuộc chiến, họ cắt giảm
đến độ vào tháng tư 1975, quân đội VNCH chỉ còn đạn đủ đánh trong hai
tuần lễ (Cao Văn Viên, Những Ngày Cuối của VNCH, trang 92).
Một
trong những nguyên nhân thất bại của Mỹ là họ quí trọng sinh mạng con
người quá đáng, CSBV rất nhậy bén về nội tình nước Mỹ, họ biết rõ tâm lý
anh nhà giầu sợ chết, biết cái “tẩy” tham sinh úy tử của Mỹ. Anh nghèo
đói không sợ chết nên họ sẵn sàng chấp nhận tỷ lệ lấy 16 cán binh đổi
một lính Mỹ để đẩy mạnh phản chiến, trong những năm 1966, 67, 68… Hà Nội
chỉ thị cho cán binh phải giết cho nhiều lính Mỹ để tạo chống đối tại
ngay đất nước họ y như tại Pháp thập niên 50 thời chiến tranh Đông
Dương.
Cho
tới 1968 số tử vong của người Mỹ tại VN là 31 ngàn người chết tại mặt
trận (killed in action, battle dead) và khoảng 4 ngàn người chết vì
những lý do khác như tai nạn, chết đuối, tự sát, bệnh tật.. tổng cộng
năm 1968 khoảng 35 ngàn lính Mỹ chết tại miền nam VN. Suốt bốn năm chiến
tranh mới chết có vài chục ngàn người nhưng tại hậu phương nước Mỹ đã
có bao nhiêu người khóc than, la làng cho cả thế giới biết trong khi
riêng trận tấn công mùa hè đỏ lửa năm 1972 có khoảng 70 ngàn lính BV tử
thương, thiệt hại VNCH bằng một nửa, tại trận Stalingrad năm 1942 có tới
500 ngàn (hay nửa triệu) lính Nga tử trận nhưng họ yên lặng chẳng hề
than vãn.
Đã
sợ chết nhưng lại muốn làm trùm thế giới! mới chết có gần 60 ngàn người
trong một cuộc chiến dài mà người Mỹ đã cho là một bi kịch lớn, kêu
khóc từ mấy chục năm qua, làm sao họ có thể đương đầu với một cuộc chiến
tranh nguyên tử làm chết hàng triệu người? Nếu Hoa Kỳ viện trợ quân sự
đầy đủ cho VNCH họ đã không cần phải đem quân vào miền nam để gây ra
phản chiến làm sụp đổ cả Đông Dương.
Truyền
thông phản chiến Mỹ trong thời chiến tranh đã chế nhạo quân đội VNCH
hèn nhát, họ nói lính Mỹ lùng và diệt địch (search and destroy) còn lính
miền nam VN thì lùng và tránh địch (search and avoid), họ đăng những
hình ảnh lính VNCH bám càng máy bay trực thăng tháo chạy trong trận Hạ
Lào để chế nhạo đồng minh hèn nhát. Nhưng thực tế cho thấy ai đã tham
sinh úy tử?
Mặc
dù cộng tác mật thiết với nhau nhưng trên thực tế lập trường của TT
Nixon và người phụ tá Kissinger của ông có nhiều tương phản. Cựu bộ
trưởng ngọai giao cho rằng nước Mỹ đã quá lý tưởng để đặt chính sách dân
chủ hóa VN của mình trên quyền lợi quốc gia, ông chủ trương phải quay
về với quyền lợi của nước Mỹ, hòa hoãn với đối phương, bỏ Đông Dương.
Nixon cho rằng nếu bỏ rơi VNCH thì sự hy sinh của 58 ngàn lính Mỹ để bảo
vệ miền nam VN sẽ trở thành vô nghĩa. Khi ký Hiệp định ông đã dự trù
hai kế hoạch để giữ miền nam VN, trước hết viện trợ quân sự đầy đủ cho
VNCH, và sau đó dùng sức mạnh của không lực Mỹ để trừng trị BV nếu mở
cuộc xâm lăng miền Nam VN, nhưng Quốc hội phản chiến đã phá hỏng tất cả
hai kế hoạch hoạch khiến ông không còn quyền hành gì để đối phó với
CSBV.
Nixon
không thể quay ngược bánh xe lịch sử khi gió đã đổi chiều, thuyết
Domino không còn giá trị. Người Mỹ đã quá chán ghét cuộc chiến Đông
Dương, họ chấm dứt sự xung đột này chính là để chấm dứt cuộc chiến tại
đất nhà, chấm dứt cảnh cắn xé nhau dữ dội từ bao năm qua.
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment