Ngô Nhân Dụng - Ông Ðới Bỉnh Quốc, ủy viên phụ trách về
đối ngoại trong Thường Vụ Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Trung Quốc có lần
viết rằng nước ông không bao giờ có chính sách xâm chiếm các nước khác.
Ðọc xong ai cũng phải bật cười. Không riêng gì người Việt Nam mà người Tây Tạng, người Uyghur, người Cao Ly (Hàn Quốc), người Mông Cổ,
Mãn Châu và Ðài Loan, nếu học sử đều biết đất nước họ đã từng bị người Hán tấn công, chiếm đóng, khai thác, bóc lột rất nhiều lần. Thời gian mà nhà Ðường chiếm nước ta, đặt tên là An Nam thì họ cũng gọi tên Hàn Quốc là An Ðông. Trong các nhóm người này, hiện giờ chỉ còn những dân tộc Việt và Hàn còn đứng riêng chưa bị nuốt vào trong bụng Trung Quốc.
Cái tên Trung Quốc được dùng từ thời nhà
Chu, trong sách Mạnh Tử ông nhiều lần nói đến tên này; mà trong thời
Chiến Quốc ông sống thì những vùng phía Nam Trường Giang (thường gọi là
sông Dương Tử) vẫn chưa thuộc Trung Quốc. Cái tên này chỉ là một danh từ
địa lý chứ không phải tên một quốc gia; cho tới khi Tôn Trung Sơn lập
Trung Hoa Dân Quốc nó mới thông dụng. Trước đó, để gọi tên nước Trung
Hoa người ta chỉ dùng tên của các triều đại, gọi là nước Hán, nước
Ðường, nước Tống, vân vân. Ông Tôn Trung Sơn người Quảng Ðông, thời xưa
không thuộc vùng đất gọi là Trung Quốc. Nhưng người Tây Tạng, người Mông
Cổ ngày nay không ai muốn bị gọi là người Trung Quốc.
Người Uyghur không may mắn như vậy. Họ
vốn là một dân tộc hùng cường và văn minh, thuộc giống Turk. Họ cũng
dũng mãnh như người Mông Cổ, đã từng làm chủ soái các bộ lạc du mục khác
ở phía Bắc nước Tầu. Ðời Ðường gọi họ là Hồi Hột nhưng bị họ phản đối,
đổi thành Hồi Cốt, đời Nguyên gọi là Duy Ngô Nhĩ, cho tới bây giờ. Họ đã
đặt ra chữ viết riêng trước các bộ lạc du mục khác. Khi Thành Cát Tư
Hãn đặt ra những đạo luật đầu tiên cho cả đế quốc Mông Cổ, ông đã phải
dùng chữ Uyghur để ghi chép. Ðời Nguyên Thế Tổ, ông nhờ các vị lạt ma
thông thái đặt ra một lối viết riêng, thống nhất ngôn ngữ Mông Cổ. Nhưng
ngày nay, người Uyghur chịu thân phận làm một giống dân thiểu số trong
tỉnh Tân Cương, lâu lâu lại nổi lên chống chính sách đồng hóa của Cộng
Sản Trung Quốc và bị đàn áp tàn nhẫn.
Hai dân tộc rất dũng mãnh ở Mãn Châu và
Mông Cổ đã từng xâm chiếm và thống trị nước Tầu một cách tàn bạo, nhà
Nguyên kéo dài cả trăm năm, nhà Thanh gần bốn trăm năm. Hai triều đại đó
đã góp công mở mang ảnh hưởng của Trung Quốc, nhà Nguyên chiếm thêm Ðại
Lý và suýt nữa thì chiếm cả Việt Nam; nhà Thanh thì chiếm lấy Tây Tạng,
xóa bỏ bản hiệp ước mà vua nhà Ðường công nhận Tây Tạng độc lập vào thế
kỷ thứ 8. Người Mông Cổ đã chinh phục một vùng rộng lớn, kéo dài từ Cao
Ly, bán đảo Sơn Ðông, qua các nước Hồi Giáo ở Trung Á, cho tới sông
Volga, Kiev (Ukraina bây giờ), tới tận Hungary, Ba Lan, về phía Nam tiến
xuống tới Syria, trước khi diệt nhà Tống chiếm nước Tầu. Khi Kublai,
thường gọi là Nguyên Thế Tổ, chuyển kinh đô của ông từ Karakurum về Bắc
Kinh vì thế lực của ông ở cố đô không mạnh bằng người anh họ, ông ta đã
mở đầu một quá trình tự đồng hóa, biến người Mông Cổ thành người Trung
Quốc, mặc dù trong triều đình ông chỉ dùng các vị thượng thư gốc Mông
Cổ, hoặc người Tây Tạng, Uyghur, Á Rập, Thổ, tuyệt nhiên không dùng
người Trung Hoa. Người Mông Cổ còn may mắn giữ được một mảnh đất ngoài
xa, đất đai khí hậu người Trung Hoa không chịu nổi, bây giờ mang tên
nước Mông Cổ. Còn người Mãn Châu thì hoàn toàn bị đồng hóa.
Trung Quốc không phải là một dân tộc.
Trên căn bản, đó là một đế quốc, bao gồm rất nhiều dân tộc. Mỗi lần uy
quyền trung ương tan rã, các mảnh đất thuộc Trung Quốc hoặc bị các đế
quốc khác chiếm, hoặc tự tuyên bố lập thành quốc gia riêng. Vì không có ý
thức dân tộc, ít nhất cho tới thời Dân Quốc, người dân Trung Hoa có thể
chịu sống dưới các chính quyền ngoại quốc, như những thời Nam Bắc Triều
kéo dài nhiều thế kỷ mà miền Bắc do các giống dân từ phương Bắc kéo
xuống cai trị, hoặc thuộc vào nước Liêu (từ Mãn Châu), nước Kim, đế quốc
Mông Cổ, hoặc triều đình Mãn Thanh,vân vân.
Ngay bây giờ, nhiều người dân ở Quảng
Ðông vẫn nuôi lòng hoài cổ, muốn nghiên cứu để xác nhận và phục hồi một
nền văn hóa Nam Việt, nhất là sau khi người ta tìm ra ngôi mộ của vị vua
nước Nam Việt thấy cái ấn tín viết Văn Ðế Hành Tỷ. Tức là ông vua, cháu
nội Triệu Ðà, vẫn tự xưng mình là Ðế, mặc dù trong sử Tầu viết rằng ông
đã chịu thần phục hoàng đế nhà Hán, chịu nhận chỉ phong Vương mà thôi.
Trong ngôi mộ này, ngoài cái triện đó người ta không thấy chữ Hán, các
hình trang trí cũng khác hẳn lối người Hán ở phương Bắc. Tới thế kỷ thứ
10, người Quảng Ðông vẫn lập ra một nước riêng, gọi là Nam Hán, đã từng
nuôi mộng độc lập. Tỉnh Vân Nam cho tới thế kỷ thứ 12 vẫn là một quốc
gia độc lập, trước gọi là Nam Chiếu, sau họ Ðoàn đổi tên là Ðại Lý; cho
tới khi Kublai, một cháu nội của Thành Cát Tư Hãn sai quân Mông Cổ đánh
chiếm và đặt quan cai trị. Chưa đầy một ngàn năm, bây giờ thì những
người dân Quảng Ðông, Quảng Tây và Vân Nam tự nhận họ là người Trung
Quốc mà không thắc mắc gì cả.
Chúng ta phải tự hỏi tại sao đế quốc Mông
Cổ đã từng hùng mạnh và rộng lớn như vậy mà lại tàn tạ sau một trăm
năm, còn đế quốc Trung Hoa tồn tại cho tới bây giờ? Nền tảng tồn tại của
đế quốc đó chính là nền văn minh Trung Hoa. Cũng vậy, đế quốc Hồi Giáo
thành hình từ thế kỷ thứ 7, mặc dù bây giờ đã tan rã nhưng vẫn còn để
lại một nền văn minh Hồi Giáo kéo dài từ Bắc Phi sang tới Indonesia. Văn
minh Hồi Giáo dựa trên một tín ngưỡng. Văn minh Trung Hoa dựa trên cách
tổ chức xã hội, gồm một nền luân lý (Khổng Giáo) và một chế độ chính
trị tập quyền do Tần Thủy Hoàng thiết lập. Từ đời Hán, tuy các triều đại
vẫn bài xích Tần Thủy Hoàng nhưng trong thực tế họ vẫn sử dụng các
thuật trị quốc của Pháp Gia (Nội Nho, Ngoại Pháp, hoặc nói ngược lại
cũng được!) Ðế quốc Mông Cổ chấp nhận tất cả các tôn giáo. Ðạo luật của
Thành Cát Tư Hãn lập ra cho một xã hội du mục, không đủ để duy trì trật
tự trong đám dân định cư, phương tiện giao thông thô sơ không đủ để nối
liền những vùng đất kéo dài từ Âu sang Á. Ðến đời các cháu nội của Thành
Cát Tư Hãn thì đã có một người cải theo đạo Hồi và liên kết với đạo
quân Ai Cập chống lại anh em mình, một người khác tự biến thành người
Trung Hoa để sử dụng phương pháp cai trị của họ! Cuối cùng, một đế quốc
hùng mạnh như Mông Cổ mà biến mất chỉ vì đã tự đồng hóa trước một nền
văn minh vững chắc!
Sống hơn hai ngàn năm bên cạnh một nước
lớn với lịch sử bành trướng dữ tợn như Trung Quốc, dân tộc Việt Nam
(cũng như dân Cao Ly) vẫn còn tồn tại, đó là một hiện tượng lạ, đáng
ngạc nhiên. Người Việt Nam có thể tự hào, họ là những người học trò của
văn minh Trung Hoa, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc mình.
Trong đó, quan trọng nhất là những đặc tính phóng khoáng, trọng cá nhân
và tôn trọng quyền bình đẳng của phụ nữ, những đặc tính văn hóa của các
dân tộc phát xuất từ các đảo phía Nam. Người Việt Nam tồn tại cũng nhờ
giữ được tiếng nói riêng, với văn phạm khác tiếng Tầu, và xã hội Việt
Nam dựa trên làng xã khác với bên Tầu dựa trên các gia tộc.
Trong lịch sử, các vị vua Việt Nam thường
chịu thần phục vua Tầu, nghĩa là tự nhận là phận dưới, không dám tranh
giành ngôi vị (danh xưng hoàng đế) với các ông vua Tầu ở Biện Kinh hoặc
Nam Kinh (đời Tống) hay Bắc Kinh (đời Nguyên). Nhưng ngoài những việc
cống tiến giống như các nước nhỏ khác ở chung quanh nước Tầu, vua nước
Nam vẫn không chịu khuất phục. Người Mông Cồ thường bắt vua các nước nhỏ
trong đế quốc của họ phải tới triều bái hoàng đế nhà Nguyên, nhưng các
vị vua nhà Trần đã từ chối. Có lúc Trần Nhân Tôn ngỏ ý muốn chấp nhận
điều kiện đó để dân chúng khỏi bị họa binh đao, nhưng các vị tướng như
Trần Hưng Ðạo đã phản đối, với câu nói nổi tiếng: Xin chém đầu tôi trước
đã! Cuối cùng nhà Nguyên cũng phải thôi. Cùng thời gian đó, vua Miến
Ðiện cũng từ chối không gửi con sang Bắc Kinh, và nước họ cũng bị xâm
lăng ba lần đẫm máu, như nước ta.
Mặc dù ông Ðới Bỉnh Quốc ba hoa nói nước
ông không nuôi tham vọng bá chủ bao giờ, hiện nay Trung Quốc đang chèn
ép nước Việt Nam một cách có tính toán. Họ coi cả vùng Biển Ðông của
nước ta là ao nhà của họ, cho tầu hải giám, ngư chính đi giám sát, tuần
tiễu giống như cho cảnh sát đi tuần trên đường phố của nước Việt Nam!
Người Việt Nam chắc chắn không chịu cảnh
làm nô lệ. Trung Quốc vin vào lá thư của ông Phạm Văn Ðồng gửi ông Chu
Ân Lai năm 1958 để coi các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về họ, kể
cả các vùng biển chung quanh! Ðối với bất cứ nước nhỏ nào ở bên cạnh
Trung Quốc, chỉ đợi chính quyền nước đó theo đuổi những chính sách sai
lầm là người Trung Quốc nhân dịp đè nén. Mối sai lầm lớn nhất là từ khi
đảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận “tư tưởng Mao Trạch Ðông” làm đường lối
chỉ đạo quốc gia, rồi sau đó thi hành các chính sách giống hệt như Cộng
Sản Trung Quốc, từ chỉnh huấn đến cải cách ruộng đất, cho tới cả chế độ
lao cải; rồi sau lại tính đem chủ nghĩa cộng sản với tư tưởng Mao Trạch
Ðông bành trướng trong khắp vùng Ðông Nam Á. Trong các thứ nô lệ, không
gì nguy hiểm bằng nô lệ tư tưởng. Nếu người cầm quyền ở nước ta còn
tiếp tục bắt chước “mô hình Trung Quốc” trong việc phát triển quốc gia,
thì tình trạng nô lệ về tư tưởng sẽ còn trầm trọng hơn nữa.
Muốn giữ nền độc lập, trước hết phải độc
lập về tư tưởng. Trên thế giới hiện nay, mô thức phát triển có hiệu quả
và mang lại hạnh phúc cao nhất cho người dân là lối tổ chức xã hội theo
các quy tắc dân chủ tự do, về kinh tế cũng như chính trị. Ðối với người
Việt Nam, đi theo con đường đó không những là tìm con đường phát triển
hữu hiệu nhất mà còn là con đường duy nhất để bảo vệ độc lập dân tộc đối
với nước láng giềng phía Bắc.
Nguon: nguoiviet
No comments:
Post a Comment