“U.S. Must Resolve to End Chinese Tyranny.” James Rhodes
Người dịch: Nguyễn Quốc Khải . LGT: Những bài viết bằng tiếng Anh bởi những người ngoại cuộc như bài này rất lợi cho Việt Nam về phương diện dư luận quốc tế. Chúng tôi mong có một số bài tiếng Việt được dịch sang tiếng Anh để phổ biến khắp nơi trên thế giới.
Người dịch: Nguyễn Quốc Khải . LGT: Những bài viết bằng tiếng Anh bởi những người ngoại cuộc như bài này rất lợi cho Việt Nam về phương diện dư luận quốc tế. Chúng tôi mong có một số bài tiếng Việt được dịch sang tiếng Anh để phổ biến khắp nơi trên thế giới.
Những quốc gia văn minh
cần phải phát triển một chính sách thống nhất để chấm dứt những hành
động thù nghịch của những nước gây hấn, bất kể họ là ai. Về vấn đề này,
lịch sử có thể cống hiến những bài học giá trị. Chúng ta cần phải học
những lỗi lầm của những người khác như Thượng Đế biết chúng ta không có
thời giờ để lập lại tất cả những lỗi lầm như vậy. Trong khoảng thời gian
giữa thập niên 1930, Adolph Hitler với sự trợ giúp của Heinrich
Himmler, đã tiến hành một chiến dịch chống lại những người cấp tiến, Do
Thái, những người theo chủ nghĩa xã hội, Cộng Sản, những người Gypsy, và
những nhóm không được ưa chuộng khác. Một Âu châu thụ động đã theo đuổi
một chính sách nhân nhượng vô nguyên tắc đối với Hitler với ý nghĩ rằng
làm như vậy sẽ tránh được xung đột và chiến tranh. Không ai có một phản
ứng nào cả khi Đức xâm chiếm vùng Saar [nằm ở khu vực biên giới giữa
Đức và Pháp] vào năm 1935; hay vùng Rhineland [nằm ở khu vực biên giới
giữa Đức, Bỉ, Luxembourg, và Hòa Lan] vào năm 1936, hoặc Áo và Tiệp Khắc
vào năm 1938. Sau khi Đức xâm chiếm Ba Lan vào tháng 9, 1939, Thế Chiến
Thứ Hai bắt đầu, hàng triệu người chết một cách vô ích bởi vì không ai
có can đảm để ngăn chặn chế độ Nazi sau khi họ đồng hóa vùng Saar vào
năm 1935.
Khi Thế Chiến Thứ Hai chấm
dứt, những cường quốc quân sự ưu thế trên thế giới đã để cho Liên Bang
Xô Viết xâm chiếm hoàn toàn một số quốc gia và tước đoạt quyền tự quyết
của một số đông dân chúng tại Ba Lan, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi, Tiệp
Khắc, Lỗ Ma Ni, An Ba Ni, và tạo ra cả Đông Đức. Chính hoàn cảnh này đã
gây ra chiến tranh lạnh. Hàng ngàn tỉ đô la đã được đổ vào những công
nghệ quân sự thay vì dùng để khám phá ra những cách chữa trị những căn
bệnh giết người, chấm dứt nạn đói trên thế giới, và những thứ tương tự.
Ngày
nay, đang có một mối đe dọa giống như vậy có thể làm thế giới bất ổn.
Nó không được biết đến nhiều như mưu đồ của Hitler hay Stalin, tuy nhiên
cũng xảo quyệt, tính toán, và khôn vặt. Nguồn gốc của mối đe dọa này
bắt nguồn từ phía đông của Vịnh Bắc Việt trong một vùng mà người Việt
Nam và chính tôi gọi là Biển Đông. Dĩ nhiên, những người Trung Quốc gọi
là Biển Nam Trung Quốc, suy cho cùng, họ là một kẻ mạnh ở trong vùng và
trong cố gắng muốn viết lại lịch sử đã hăm dọa và tiêu diệt những ai
chống lại sự thâu tóm quyền lực của họ.
Điều
quan trọng không phải là Biển Đông có vào khoảng 30,000 hòn đảo và đá
ngầm. Thâu tóm lại, Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã
Lai, và Brunei đòi hỏi chủ quyền trên một số những mảnh đất nhỏ bé này.
Vì những hòn đảo này nằm trong “Biển Nam Trung Quốc”, chúng đều phải
thuộc Trung Quốc, bất kể đến lịch sử thật sự.
Những
văn bản cổ của hai sử gia Trung Quốc Lĩnh Ngoại Đại Đáp (Ling Wai Da)
và Chu Phan Chi (Zhu Fan Zhi) cho thấy rằng Hoàng Sa (Paracel Islands)
và Trường Sa (Spratly Islands) nối kết với và là một phần của một vùng
nay là Bắc Việt Nam. Sự kiện này đã được nhắc lại trong tài liệu của Thế
Kỷ 17; bản đồ của vùng trong năm 1838; và bởi đế quốc tây phương Pháp
qua triều đại nhà Nguyễn vào năm 1887 và 1933. Nhiều tài liệu tham khảo
liên kết những đảo Hoàng Sa và Trường Sa với Việt Nam từ thời cổ. Khi
Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, Trung Quốc toan tính chiếm đất ở Biển Đông,
nhưng Tuyên Ngôn Cairo (Cairo Declaration) ủng hộ đòi hỏi chủ quyền của
Việt Nam đối với những đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quan điểm này được xác
nhận tại Hội Nghị San Francisco về Thỏa Hiệp Hòa Bình (San Francisco
Conference on the Peace Treaty) với Nhật Bản vào năm 1951. Cho đến ngày
hôm nay, Trung Quốc là một nước đã thành công nhiều nhất trong việc lùng
kiếm để lấy thêm đất đai. Trung Quốc thôn tính Tây Tạng vào năm 1950;
Trung Quốc hiện nay kiểm soát kinh đào Panama, Hồng Kông kể từ 1997 và
Ma Cao 1999.
Vào năm 1988 không bị
gây hấn Trung Quốc tự dưng tấn công vào đảo Trường Sa mang cờ Việt Nam.
Đây là một hành động giết người có tính toán đáng lẽ làm sỉ nhục cả thế
giới. Trên 64 người Việt bị giết chết một cách vô ích và một số khác bị
mất tích vì cuộc xâm lăng trắng trợn. Cho đến nay, quân đội Trung Quốc
tiếp tục thi hành chính sách quấy rối những thuyền đánh cá và nghiên cứu
khoa học không phải của Trung Quốc tại Biển Đông. Gần đây, Trung Quốc
đâm vào và đánh đắm những thuyền đánh cá của Việt Nam và bắt giữ toàn
thể thủy thủ đoàn.
TNS John McCain đã
tuyên bố công khai rằng ông không ủng hộ Trung Quốc trong việc đòi hỏi
chủ quyền ở Biển Đông. Vào ngày 23 tháng 7, 2010, Bộ Trưởng Ngoại Giao
Hillary Clinton đã đề nghị một giải pháp cho toàn vùng Biển Đông. Ngay
sau đó, báo Manila Times đã tường thuật rằng Ngoại Trưởng Trung Quốc
Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) đã tuyên bố rằng “Việc mời Việt Nam tới
Hoa Kỳ để dàn xếp (vấn đề Biển Đông) là một hành động tấn công vào Trung
Quốc.” Đây là những lời nói bừa bãi của một kẻ xâm lăng du côn cốt để
dọa dẫm kẻ yếu. Đây là Hitler của 1935. Đây là Stalin của 1945. Biển
Đông không chỉ thuộc Trung Quốc và thế giới phải bảo đảm rằng Trung Quốc
sẽ không bao giờ kiểm soát tất cả các đường tiếp cận và tài nguyên của
vùng này. Một sự nhân nhượng đối với kẻ xâm lăng côn đồ ngày hôm nay
chắc chắn sẽ tạo ra một cuộc xung đột võ lực trong tương lai gần. Tất cả
những quốc gia Đông Nam Á đang tích cực tìm kiếm một giải pháp hòa bình
cho vấn đề nan giải này không thể bị bức chế bởi một nước đang tìm cách
bóp méo sự thật của lịch sử và sau đó sát hại để bảo vệ sự dối trá của
họ.
Vì lợi ích của hòa bình thế giới,
lương thiện, và công lý mà ngày nay thế giới cần làm điều phải và hỗ
trợ chủ quyền của Việt Nam đã được chứng minh bằng tài liệu đối với các
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chúng ta bắt buộc không thể trở thành nạn
nhân của những kẻ lạm dụng sức mạnh và đe dọa dùng bạo lực để đạt được
mục tiêu chính trị đảng phái trong khi đó những người yếu đuối là những
kẻ phải chịu thiệt thòi như Hitler đã làm vào thập niên 1930 và Stalin
trong thập niên 1940.
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment