Mạnh Kim - Có thể hiểu
như thế nào về tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton rằng “chúng
tôi đã trở lại” (tại Bangkok ngày 21-7-2010) và tiếp đó là khẳng định Mỹ
có “quyền lợi quốc gia” tại Biển Đông cũng như việc “Hoa Kỳ ủng hộ
Tuyên bố ứng xử về Biển Đông của ASEAN-Trung Quốc 2002” (tại Hà Nội ngày
23-7-2010)? Còn gì nữa, nếu đó không là thái độ tiếp cận mới của Mỹ tại
châu Á đối với chính sách bành trướng của Trung Quốc?
Hung hăng coi
thiên hạ tại Biển Đông chẳng ra cái đinh gì, Trung Quốc khiến Mỹ bắt đầu
thấy ngứa mắt và bắt đầu đối đầu trực diện hơn với Bắc Kinh sau một
thập niên gần như vắng bóng ở châu Á-Thái Bình Dương…
Xin cho thôi một chữ “hòa hài”!
Một
tuần sau khi tại Hà Nội Hillary Clinton tuyên bố “gây hấn” đầy tính
“tấn công trực tiếp Trung Quốc” với “mục đích quốc tế hóa” vấn đề Biển
Đông, người phát ngôn Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA), đại
tá Cảnh Nhạn Sanh, đã giận dữ tái khẳng định rằng Trung Quốc có “chủ
quyền không thể tranh cãi” tại Biển Đông với diện tích 3.367.000 km2,
cùng “đầy đủ tài liệu lịch sử và pháp lý hỗ trợ”, và rằng Mỹ đừng có mà
lý này cớ nọ “can thiệp nội bộ” Đông Nam Á, cũng như đừng có dựng đứng
chuyện Trung Quốc muốn thao túng Biển Đông để mà kích động gây chia rẽ
tình đoàn kết các nước láng giềng. Nói cách khác, Mỹ khôn hồn đừng dây
vào các cuộc tranh chấp pháp lý về chủ quyền biển đảo khu vực Biển Đông
với Trung Quốc, kẻo mang họa chứ chẳng đùa. Mỹ không thấy PLA lớn mạnh
từng ngày hay sao? Mỹ thiển cận đến mức cứ nghĩ hải quân Trung Quốc của
thế kỷ 21, dù vẫn chưa tự đóng nổi một hàng không mẫu hạm để có dịp so
với những chiếc mẫu hạm của Nhật thời thập niên 1930, vẫn còn chèo
thuyền chiến ra trận như thời Tam Quốc hay sao? Mỹ ấu trĩ ngộ nhận rằng
Trung Quốc không đủ sức chế tạo chiến đấu cơ tàng hình (dù động cơ máy
bay phải mua của Nga) à? Thế thì nghe này…
Trong
8 năm tính đến 2002, Trung Quốc đã mua 12 tàu ngầm Kilo của Nga đồng
thời liên tiếp nâng cấp thiết kế để dàn tàu ngầm hải quân PLA có khả
năng chiến đấu xa bờ cũng như mang đầu đạn hạt nhân. Hải quân PLA hiện
có 66 tàu ngầm, nhiều nhất thế giới, chỉ sau Mỹ; và đến năm 2030, theo
Tổ chức Kokoda (cơ quan nghiên cứu độc lập của Úc), Trung Quốc có thể có
đến 85-100 tàu ngầm (so với 71 hiện nay của Mỹ). Năm 2007, một tên lửa
đạn đạo phóng từ Trung tâm không gian Tây Xương (Tứ Xuyên) đã làm nổ
tung một vệ tinh thời tiết như ngọn pháo hoa hân hoan chào đón một cột
mốc thăng thiên của kỹ thuật quân sự Trung Quốc. Và theo Trung tâm đánh giá ngân sách và chiến lược
(một viện nghiên cứu Mỹ), hỏa lực Trung Quốc hoàn toàn có thể đe dọa
các căn cứ quân sự Mỹ tại châu Á. Quân đoàn hai pháo binh (“Đệ nhị pháo
binh bộ đội”), nơi kiểm soát các đơn vị tên lửa chiến lược Trung Quốc,
có thể dạy cho Mỹ một bài học đích đáng bằng khả năng dập tơi tả toàn bộ
hệ thống phòng không, đường băng cũng như dàn máy bay chiến đấu và tàu
chiến của Mỹ tại khu vực. Nhật đang nằm gọn trong tầm bắn tên lửa Trung
Quốc và không lâu sau nữa sẽ là Guam. Còn về năng lực hải chiến? Hệ
thống tên lửa hành trình chống tàu ngầm của hải quân PLA bây giờ đã đủ
khả năng đe dọa hàng không mẫu hạm Mỹ, có thể bắn hạ mẫu hạm địch từ
khoảng cách 1.600km (dù cho đến nay trên thế giới chưa có kỹ thuật quân
sự tiên tiến nào được biết có thể làm được điều này)… (1). Tất cả thành
tích trên có được nhờ sự quan tâm đúng mực của Đảng và Nhà nước Trung
Quốc, với hầu bao cho ngân sách quốc phòng tăng dần (tăng 12,7% năm
2011, lên 601 tỉ tệ, tức 91,5 tỉ USD – Tân Hoa Xã 4-3-2011).
Năm 2009, một báo cáo của RAND (Research ANd Development
– tổ chức nghiên cứu độc lập uy tín nhất nhì Mỹ) cho biết, vào trước
năm 2020, Mỹ sẽ không còn có thể bảo vệ nổi Đài Loan nếu Trung Quốc tấn
công (chết chửa!). Nghiên cứu viết rằng, Trung Quốc, thời điểm đó, hoàn
toàn có thể đánh gục Mỹ trong một cuộc chiến tại eo biển Đài Loan, ngay
cả khi Mỹ có chiến đấu cơ F-22, hai hàng không mẫu hạm và vẫn có thể
được viện binh từ căn cứ không quân Kadena (Okinawa) ào ạt đến ứng cứu!
Trung Quốc có lợi điểm là chỉ cách Đài Loan 160km trong khi nguồn cung
cấp hỏa lực Mỹ cách xa họ đến nửa vòng Trái đất… Tóm lại, Trung Quốc bây
giờ không chỉ là cường quốc kinh tế (hạng hai thế giới chứ ít gì!) mà
còn là siêu cường về quân sự, với những khả năng và tiềm lực không thể
ngờ có thể gây khiếp đảm kể cả đối với “đế quốc Mỹ”. Và như vậy, nếu
muốn rắn, Trung Quốc sẵn sàng chơi rắn và đến lúc đó đừng trách là không
báo trước! Dù thế, Trung Quốc, trong chính sách ngoại giao thế kỷ 21,
luôn thể hiện họ là một quốc gia luôn chủ trương “hòa hài thế giới”
(和谐世界 – thế giới thuận hòa), lấy tiêu chí tinh thần hòa khí với bàn tay
giang rộng “tứ hải giai huynh đệ” làm đường lối chủ đạo, xuyên suốt và
nhất quán, như được thể hiện trong nhiều diễn văn đó đây của giới lãnh
đạo Bắc Kinh. Chỉ kẻ hạ lưu mới cần đến nắm đấm. Trung Quốc thì chẳng
cần! Và Trung Quốc cũng không vì sự lớn mạnh “vượt trội” mà ngạo mạn nói
rằng mình có thể đối đầu Mỹ về quân sự – như phát biểu đầy nhún nhường
của Tổng tham mưu trưởng PLA Trần Bỉnh Đức trong chuyến công du Mỹ trung
tuần tháng 5-2011.
Thế nhưng chú Sam vẫn trở lại…
Vấn
đề ở chỗ, thái độ “ngôn hành bất nhất” khiến mức độ khả tín của Trung
Quốc đối với giới ngoại giao thế giới đã và tiếp tục bị đặt dấu hỏi.
Người ta nghi ngờ. Người ta lo ngại. Và người ta hành động. Chưa bao giờ
mà khu vực châu Á-Thái Bình Dương trở nên sôi sùng sục cuộc chiến chạy
đua vũ trang bằng lúc này, với cường độ mạnh nhất kể từ sau Chiến tranh
lạnh, trong nỗ lực cân bằng quyền lực quân sự. Súng ống bắt đầu khua
động. Với Mỹ, họ đã thay đổi quan điểm 180o, bằng một chính
sách tiếp cận mới đối với châu Á-Thái Bình Dương, trái với tuyên bố ban
đầu khi mới nhậm chức tổng thống của Barack Obama rằng, Mỹ tôn trọng
quyền “tự xử” của các nước châu Á và không can thiệp các cuộc tranh chấp
chủ quyền. Mỹ bắt đầu thiết kế chương trình cho “phiên bản châu Á kiểu
Obama”, như một cách khẳng định lại lời nhắc nhở của cựu Thủ tướng
Singapore Lý Quang Diệu tại cuộc hội đàm Nhà trắng cuối năm 2009, rằng:
“Nếu không đặt chân vào Thái Bình Dương, các anh không thể được xem là
lãnh đạo thế giới” (2). Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ James Steinberg bắt đầu
lên tiếng: “Chúng tôi đã thật sự nhận thấy điều này – vai trò chúng tôi
tại Đông Á – sẽ là tối quan trọng đối với tương lai chúng tôi”. Vậy là
chuyến kinh lý đầu tiên của Hillary Clinton với tư cách ngoại trưởng là
đến Đông Nam Á. Sự trở lại của Mỹ có thể thấy rất rõ ở sân khấu ngoại
giao. Tại cuộc họp thượng đỉnh ASEAN (ngày 7 và 8-5-2011) ở Jakarta, Mỹ
đã lần đầu tiên cho “chào sân” vị đại sứ ASEAN Hoa Kỳ đầu tiên, David
Lee Carden (Tổng thống Obama thành lập Văn phòng đại sứ ASEAN Hoa Kỳ vào
tháng 11-2010). Trước đó, sau cuộc họp giữa Ngoại trưởng Hillary
Clinton với đồng cấp các nước hạ Mekong (Campuchia, Lào, Thái Lan và
Việt Nam) tổ chức tại Phuket ngày 23-7-2009, Washington cũng giúp thành
lập Sáng kiến hạ Mekong – động thái mà báo chí Trung Quốc diễn
giải là một phương án tiếp cận của Mỹ nhằm mục đích can thiệp sâu nội bộ
khu vực để Đông Nam Á giảm bớt ảnh hưởng Trung Quốc…
Viết trên Wall Street Journal
(3), Daniel Blumenthal (nguyên viên chức Phòng an ninh quốc tế thuộc Bộ
quốc phòng Mỹ) nói thẳng rằng Trung Quốc không hề chơi đúng luật đối
với vấn đề Biển Đông, bằng thái độ “bắt nạt” nước nhỏ, và “Washington
đang đặt dấu chấm hết cho chiến lược chia cắt-chinh phục của Trung Quốc
tại Đông Nam Á”; khi “Mỹ không thể nói Trung Quốc hành xử có trách nhiệm
khi để những vụ quấy nhiễu Việt Nam xảy ra mà không lên tiếng”. Rõ
ràng, chuyển động phản ngược với tinh thần “hòa hài thế giới” của Trung
Quốc đã, một phần, gián tiếp mở cửa đưa Mỹ trở lại khu vực, sau một thập
niên chính sách ngoại giao bỏ ngỏ châu Á của George W. Bush bởi chiến
lược sai lầm trong việc nhận dạng bạn-thù trong cuộc chiến chống khủng
bố. Nước Mỹ của Obama bắt đầu nói nhiều đến vai trò Trung Quốc hơn, có
khi chẳng bằng ngôn ngữ đẩy đưa mà huỵch toẹt hẳn, rằng Trung Quốc đã là
cường quốc thì cần phải hành xử cho ra tư cách đàng hoàng, rằng vấn đề
Biển Đông cần phải được giải quyết trên tinh thần đàm phán chứ không
phải đe nẹt, rằng Mỹ cực lực phản đối sử dụng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực
tại Biển Đông – như tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 31-5-2011
trước câu trả lời của phóng viên TTXVN tại Mỹ về sự kiện tàu hải giám
Trung Quốc đột nhập hải phận Việt Nam và làm “nhiệm vụ” cắt cáp tàu Bình
Minh 02 thuộc Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam.
Song
song hiện diện ngoại giao, Mỹ cũng bắt đầu tăng cường quân sự tại Thái
Bình Dương. Các cuộc tập trận giữa Mỹ với Hàn Quốc, Nhật, Malaysia… rộn
rịp tiến hành vài năm gần đây (có khi vài tháng một vụ) hẳn nhiên không
phải là những cuộc lau chùi để súng ống khỏi han gỉ. Vài cuộc tập trận
còn được bắn đạn thật để anh em binh sĩ lên tinh thần! Dấu hiệu tăng
cường khả năng tác chiến của lực lượng Hạm đội 7 Hoa Kỳ ngày một đậm
đặc. Tướng tư lệnh trưởng Hạm đội 7 Scott Van Buskirk thậm chí có lúc đã
“tế nhị” gửi một “tin nhắn” đến Bắc Kinh qua “tổng đài” (hãng tin) AP,
khi “tiết lộ” kế hoạch trang bị dàn máy bay không người lái chuyên dụng
cho mẫu hạm hoạt động ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương (4). Cần biết,
Hạm đội 7, với “siêu hàng không mẫu hạm” (super carrier) USS George
Washington (từng cập gần cảng Đà Nẵng và đón phái đoàn viên chức Việt
Nam tham quan tháng 8-2010), là hạm đội mạnh nhất hải quân Mỹ. Luôn đi
cùng USS George Washington là khoảng 60 tàu chiến, 80 chiến đấu cơ và
lực lượng thủy thủ-binh sĩ chừng 4.000 người…
PLA đã đủ mạnh để quét sạch Mỹ khỏi Biển Đông?
“Với
chiến thuật hải quân đang thay đổi, chúng ta sẽ đi từ việc bảo vệ bờ
biển (“duyên hải phòng ngự”) chuyển sang bảo vệ vùng biển xa (“viễn
dương phòng ngự”)” – tướng Trương Hoa Thần, hạm đội phó hạm đội Đông
Hải, nói với Tân Hoa Xã vào năm 2010 (5). Tháng 4-2010, hạm đội
Đông Hải – binh đoàn hải quân chịu trách nhiệm bảo vệ “lợi ích cốt lõi”
của Trung Quốc tại Biển Đông – đã tổ chức tập trận rầm rộ, với tổng
cộng 10 tàu chiến và tàu ngầm trong đó có khu trục hạm được trang bị tên
lửa Sovremenny. Đông Hải đã làm dậy sóng Biển Đông với màn tập trận
trên diện rộng từ khu vực Nam Trung Quốc đến quần đảo Okinawa và eo
Miyako rồi ra ngoài khơi quần đảo Okinotori (điểm cực Nam của Nhật).
Cuộc diễu võ của hạm đội Đông Hải là một sự cụ thể hóa chiến lược ba
bước của hải quân PLA, như được nêu trong Sách trắng 2008 (“Trung Quốc
quốc phòng bạch bì thư”). Đó là: 1/ Phát triển lực lượng hải quân hiện
đại có khả năng hoạt động trong phạm vi chuỗi đảo thứ nhất (第一岛链, đệ
nhất đảo liên), tức dãy đảo kéo dài từ bán đảo Triều Tiên, quần đảo
Kuril (Nga), Nhật đến Đài Loan rồi Philippines; 2/ Phát triển lực lượng
hải quân ở tầm khu vực có thể hoạt động vượt khỏi chuỗi đảo thứ nhất để
vào hải phận “đệ nhị đảo liên” gồm Guam, Indonesia và Úc; và bước 3 là
phát triển lực lượng hải quân rộng khắp toàn cầu vào giữa thế kỷ 21.
Tuy
nhiên, cái gọi là bức tường “đệ nhất đảo liên” của Trung Quốc, theo
cách nói của James Holmes và Toshi Yoshihara thuộc Đại học chiến tranh
hải quân Hoa Kỳ, thật ra chẳng khác gì một “Vạn Lý Trường Thành lộn
ngược”, bởi chuỗi dài các nước đồng minh Mỹ trong khu vực (Nhật, Hàn
Quốc, Úc, Philippines…) đã trở thành một thứ tháp canh giám sát và khi
cần có thể chặn đứng ngõ vào Thái Bình Dương của Trung Quốc (6). Và một
trong những điểm canh chắc chắn nhất của Mỹ không thể không đề cập là
Đài Loan, như tướng Mỹ Douglas MacArthur từng nhận định: “Đài Loan là
một hàng không mẫu hạm không thể bị đánh chìm”. Ngoài ra, “chốt biên
phòng” cực kỳ quan trọng đối với Mỹ còn là Guam, nơi cách Bắc Triều Tiên
bốn giờ bay và cách Đài Loan hai ngày hải hành. Căn cứ không quân
Andersen của Mỹ tại Guam hiện là đồn tiền trạm chỉ huy quan trọng bậc
nhất đối với tất cả chiến dịch động binh của Mỹ tại bất kỳ nơi nào thế
giới. Với 100.000 quả bom và tên lửa cùng kho xăng 249,8 triệu lít nhiên
liệu phản lực, Guam là trạm tiếp nhiên liệu chiến lược lớn nhất của
không quân Mỹ. Những hàng dài vận tải cơ C-17 Globemaster và chiến đấu
cơ F/A-18 Hornet luôn đậu kín các đường băng Guam. Guam cũng là nơi đồn
trú của hạm đội tàu ngầm Mỹ và đang được mở rộng để thành một căn cứ hải
quân. Tính toàn cầu, Mỹ hiện có hơn 1.000 căn cứ quân sự đặt tại hơn 46
quốc gia, từ châu Âu, châu Phi đến châu Á (7), từ đất liền đến biển xa…
Giới
tình báo quân sự Trung Quốc hẳn còn biết nhiều hơn về sức mạnh quân sự
Hoa Kỳ so với những gì báo chí biết được (8). Việc có thể hạ gục Mỹ hay
không, ít nhất ở thời điểm này, trong bất kỳ cuộc chiến qui ước nào, từ
hải chiến, không chiến đến địa chiến, họ hẳn hiểu rõ hơn ai hết, nếu
không kể các “chiến lược gia” diều hâu quá khích mắc phải chứng hoang
tưởng đặc biệt trầm trọng!
M. K.
Chú thích:
(1) A special report on China’s place in the world, The Economist (2-12-2010)
(2) U.S. is reaching out to East Asia’s powerful nations, John Pomfret, Washington Post (7-11-2009)
(3) The U.S. Stands Up to China’s Bullying, Daniel Blumenthal, Wall Street Journal (27-7-2010)
(4) US Navy drones: Coming to a carrier near China?, Eric Talmadge, AP (16-5-2011)
(5) PLAN East Sea Fleet Moves Beyond First Island Chain, Russell Hsiao, China Brief (29-4-2010)
(6) The Geography of Chinese Power, Robert Kaplan, Foreign Affairs (May/June 2010)
(7) Bring War Dollars Home by Closing Down Bases, Christine Ahn và Sukjong Hong, Foreign Policy In Focus (31-3-2011)
(8)
Để biết thêm về nội lực thật sự của quân đội Trung Quốc, xin xem lại hồ
sơ thực lực sức mạnh quân sự Trung Quốc dài 5 kỳ, khởi đăng trên Năng Lượng Mới từ ngày 21-3-2011; hoặc xem website Anh Ba Sam hay Dan Luan.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
No comments:
Post a Comment