Sunday, May 26, 2013

Bảo Thủ, Cấp Tiến và Trục Lợi



Ngô Nhân Dụng - Khi phân tích các cuộc đấu chính trị trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam, người ta hay gắn cho các phe phái những nhãn hiệu như Bảo Thủ, hay Cấp Tiến; hoặc cho là có phe thân Trung Cộng, phe thân Nga, hay muốn ngả sang Mỹ. Phân loại theo cách đó có phần lý thuyết quá, chỉ mô tả các hiện bên ngoài mà không nêu rõ động cơ căn bản của mỗi phe nhóm. Nếu nhìn từ bên trong, sẽ thấy bên Bảo Thủ thì nhấn mạnh tới quyền, bên Cấp Tiến chú trọng đến tiền hơn.


Bản chất những người mang danh hiệu Bảo Thủ là nặng óc giáo điều: Họ lo sợ phải từ bỏ các lý thuyết của Mác-Lênin, sợ mất cái nhãn hiệu “xã hội chủ nghĩa” dù có lúc cũng thú nhận họ chẳng biết nội dung nó là gì. Những người được gọi là Ðổi Mới, là Cấp Tiến, phần lớn là do lối nhìn thực tế thúc đẩy. Có thay đổi thì mới tạo cơ hội làm giầu bằng “kinh tế thị trường.” Ngay một lãnh tụ bảo thủ nhất là Ðỗ Mười cũng từng chúc Tết cả nước bằng một câu: “Chúc đồng bào làm ăn phát tài.”
Phe giáo điều coi việc bảo vệ quyền là quan trọng nhất; phải dùng các khẩu hiệu trong chủ nghĩa, lý thuyết để biện minh cho quyền của đảng, vì đảng “đi đúng hướng của lịch sử.” Phe thực tế thì trước hết nhắm làm sao có tiền.
Nhiều người thực tâm muốn đời sống dân chúng khá giả hơn; mà họ thấy chỉ có một cách là phải thay đổi chế độ nhiều hơn nữa, vì thế được gọi là Cấp Tiến.
Nhưng trong cả hai phe đều có một “thành phần thứ ba” chen vào, đó là những người “thực tế nhất.” Nhóm này có thể tuyên bố theo cả hai giọng, nói giọng Bảo Thủ được, nói giọng Cấp Tiến cũng được, miễn là đạt mục đích sau cùng của họ, là trục lợi. Người ta còn gọi đám này là theo ‘chủ nghĩa cơ hội.” Thành ra, trên sân đấu chính trị nội bộ đảng Cộng sản có tới ba đội banh. Hai đội Bảo Thủ và Cấp Tiến đá với nhau, nhóm nào kéo được thành phần Trục Lợi vào đông hơn thì cán cân sẽ ngả về phía đó. Trong hai kỳ hội nghị Trung Ương Ðảng 6 và 7 vừa qua, phe Bảo Thủ của Nguyễn Phú Trọng thua nặng vì thành phần Trục Lợi ngả sang Nguyễn Tấn Dũng; vì phe đó mới có khả năng ban phát cơ hội kiếm tiền. Khi Nguyễn Tấn Dũng lên làm thủ tướng thì “Ban Kinh Tế” trong Trung Ương Ðảng cũng bị giải tán; quyền lực kinh tế được thu về một mối. Nhưng nếu gọi phe nhóm Nguyễn Tấn Dũng là Cấp Tiến thì cũng sai, vì mục đích chính của họ cũng chỉ là Trục Lợi.
Xưa nay, trừ các bậc chân tu rất hiếm hoi, Danh, Lợi và Quyền vẫn là những động cơ thúc đẩy hành vi của con người, nhất là các nhà chính trị. Nhưng họ cần biện minh cho các động cơ thầm kín của mình, cho nên ngoài việc sử dụng guồng máy đàn áp còn phải nói tới những mục đích hoặc lý tưởng cao xa hơn. Phe Bảo Thủ khoác bộ mặt giáo điều cũng vì họ cần nhân danh “Chủ nghĩa Mác-Lênin,” cần nhắc đi nhắc lại nhãn hiệu này. Ðể chứng tỏ họ có quyền nắm đầu người khác vì vẫn “mang sứ mệnh lịch sử.” Nửa thế kỷ trước đây, các tiền nhân của họ đã làm chết hàng triệu, hàng chục triệu người dân Nga, dân Trung Quốc với các chính sách kinh tế tàn bạo và ngu ngốc; tất cả đã được biện minh bằng các lý thuyết do các ông Karl Marx và Lenin “soi sáng.” Ngày nay, phe Bảo Thủ ở Việt Nam vẫn dùng các khẩu hiệu đó để chứng tỏ Ðảng Cộng sản chỉ tiếp tục “sứ mạng” do “lịch sử trao phó” từ hồi nào không biết. Chủ nghĩa Mác-Lênin bảo đảm uy tín của nhóm người cầm quyền, nói văn hoa hơn thì gọi là “tính chính thống” (legitimacy) của chế độ.
Còn phe Cấp Tiến, họ lấy gì để biện minh cho độc quyền thống trị của đảng? Bây giờ mà còn nói đến các chủ nghĩa xưa cũ thì dân không ai tin nữa. Phải viện ra những điều thực tế hơn. Như khi hô khẩu hiệu “Dân giầu, nước mạnh, xã hội văn minh;” nói theo lối chuyên môn gọi là dùng “hiệu quả kinh tế” để biện minh việc cầm quyền. Nếu được đủ ăn, kinh tế phát triển đều đặn, thì chắc dân cũng thỏa mãn, không ai đặt vấn đề lý thuyết về “tính chính thống” nữa.
Còn nhóm thứ ba, phái Trục Lợi, họ có thể sử dụng các khẩu hiệu của cả hai phe; miễn sao bảo vệ và tạo thêm cơ hội làm giầu. Họ sẵn sàng nói như phe Cấp Tiến, vì khi kinh tế được cởi trói thì chính họ là những người được tư bản hóa đầu tiên. Nếu việc cởi trói tiếp tục mà họ thấy có thể mở thêm cửa cho họ làm giầu, thì họ sẽ ủng hộ.
Nhưng nhóm tư bản Trục Lợi khác với các nhà kinh doanh khai sơn phá thạch ở các nước tư bản thật sự; những người đó thường tự bỏ sức, bỏ công phu và sáng kiến tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới. Những đại gia đỏ khác, vì họ không cần đóng góp gì cho đời sống kinh tế quốc dân; chìa khóa thành công (kiếm tiền) của họ là móc ngoặc, quan hệ. Cho nên các đại gia sẽ không còn ủng hộ những thay đổi mới, khi nào họ thấy sẽ mở cửa cho những người khác có thể bước vào cạnh tranh với họ. Khi đó, nhóm Trục Lợi sẽ nói năng giống như những người Bảo Thủ.
Về mặt đối ngoại, phe Bảo Thủ tự nhiên phải dựa trên đảng Cộng sản Trung Hoa. Bởi vì Trung Quốc là quốc gia lớn duy nhất trên thế giới vẫn còn đề cao chủ nghĩa cộng sản. Dựa vào Trung Cộng, phe Bảo Thủ có thể thừa hưởng uy tín của “mô hình Trung Quốc.” Nhưng phe Cấp Tiến cũng vẫn phải chiều theo Trung Cộng, vì đó là quốc gia duy nhất có khả năng gây rối, phá hoại bất cứ chính quyền Việt Nam nào. Họ có một mạng lưới tình báo lan rộng và xâm nhập sâu nhất; một mạng lưới bao bọc bằng lợi lộc trùm lên nhiều người nhất. Như một anh con trai của một ông bộ trưởng Việt Nam đã khoe rằng anh được mời làm phó tổng giám đốc một công ty bên Trung Quốc, mà chẳng phải làm gì cả. Anh muốn đi Trung Quốc lúc nào cũng được; ở bên đó có nhà, có xe đi, không ai bắt đến sở, tự do muốn làm gì thì làm. Nếu một ông con trai của một vị bộ trưởng cũng được ưu ái như thế, thì không biết còn bao nhiêu người Việt khác được Trung Cộng tặng những bổng lộc lớn lao hơn? Những người đó có thể thuộc cả ba thành phần Bảo Thủ, Cấp Tiến, và Trục Lợi.
Cho nên phân chia các lãnh tụ Cộng sản Việt Nam ra hai phe, phe thân Trung Quốc và phe chống, là điều không cần thiết. Với mỗi cá nhân thì chắc không có người Việt nào muốn thân Trung Quốc. Nhưng khi hành động cụ thể thì không một người nào dám chống Trung Quốc.
Cuộc đấu Dũng-Trọng đã trở thành tranh chấp giữa hai cá nhân; không còn mang tính phe phái, không có thể phân biệt bằng đường lối hay khuynh hướng khác nhau nữa. Nhiều người cho đây là cuộc đấu giữa hai tổ chức, là Ðảng và Nhà nước. Nhưng đó chỉ là sự phân biệt về hình thức; vì Nguyễn Phú Trọng đứng đầu Ðảng, Nguyễn Tấn Dũng nắm Nhà nước. Nhưng tất cả 175 ủy viên trung ương dự hội nghị cũng chính là đảng. Họ vẫn lo bảo vệ đảng; vì nếu không còn đảng thì họ mất địa vị quyết định số phận của 90 triệu người dân. Phe đa số trong hội nghị này vừa là đảng, vừa là nhà nước; họ bỏ phiếu theo Nguyễn Tấn Dũng vì thấy đó là cách có lợi nhất, chứ không phải vì họ theo nhà nước, chống đảng.
Từ lâu nay phe Bảo Thủ trong đảng phải tỏ ra thân thiện với Trung Quốc hơn; vì đó là chỗ dựa về chủ nghĩa, khi mà họ còn phải đề cao giáo điều để biện minh cho quyền hành của đảng. Ông Nguyễn Phú Trọng vẫn được coi là người cầm cờ trong nhóm này. Nhưng nhưng chắc Cộng sản Trung Hoa cũng không lo lắng gì khi Nguyễn Phú Trọng thua Nguyễn Tấn Dũng. Bởi vì họ giống như một chủ sòng bài. Các con bạc vào sòng bài sát phạt nhau, có bên thắng, bên thua, nhưng chủ sòng lúc nào cũng thu tiền.
Ðiều có thể khiến Trung Cộng phải quan tâm là chính phe được gọi bảo thủ có thể bắt đầu tự tách họ ra khỏi nhãn hiệu cũ. Một nhà quan sát trong nước đã nhận xét: Bài diễn văn bế mạc hội nghị Trung Ương 7 của ông Nguyễn Phú Trọng dài 4812 chữ nhưng không thấy một chữ nào nhắc đến Chủ nghĩa Xã hội, không nhắc tới một chữ Mác-Lê nào. Ðiều này cho thấy cầu thủ Trọng sẵn sàng thay đổi nhãn hiệu. Hay là ông ta cũng muốn thay đổi luật chơi trên sân banh? Trong thời gian tới chúng ta phải theo dõi mới thấy được kịch bản mới sẽ diễn ra thế nào.

No comments:

Post a Comment