Trần Trung Đạo - Chiến
tranh sẽ đến. Không cần phải là nhà tiên tri hay nhà khoa học xã hội
cũng có thể đoán được. Lịch sử loài người đã chứng minh chiến tranh và
hòa bình là hai mặt biện chứng trong tiến trình phát triển của xã hội
loài người. Vegetius trong tác phẩm nổi tiếng Quan tâm về các vấn đề quân sự (De
Re Militari) xuất bản vào thế kỷ thứ năm đã viết “Muốn có hòa bình, hãy
chuẩn bị chiến tranh”.
Từ chiến tranh bộ lạc sang chiến tranh thuộc
địa, chiến tranh khu vực, chiến tranh thế giới, chiến tranh giải phóng
dân tộc, chiến tranh lạnh, chiến tranh giữa những người cùng chủng tộc,
trong từng giờ, từng phút máu của nhân loại đã và đang đổ xuống tại
nhiều nơi trên trái địa cầu ngày càng chật hẹp này.
Trong
lúc chiến tranh là một sự kiện khó thể tránh khỏi, trong đó, nhiều nhân
tố nằm ngoài tầm kiểm soát và quyết định của giới lãnh đạo và nhân dân
các quốc gia nạn nhân, những nhà lãnh đạo khôn ngoan, có tầm nhìn xa,
biết chọn đúng thế đứng chính trị, không những tránh được chiến tranh mà
còn vận dụng các xung đột quốc tế để đem về các lợi ích lâu dài cho
quốc gia họ.
Mustafa Kemal Atatürk nhìn về tương lai Thổ Nhĩ Kỳ
Thổ
Nhĩ Kỳ dưới sự lãnh đạo của Mustafa Kemal Atatürk từ năm 1923 đến năm
1938 và các chính phủ về sau là một bài học lớn cho nhiều quốc gia vừa
thoát khỏi chế độ phong kiến và thuộc địa. Trong số đó, hai bài học quan
trọng:
- Sự kết hợp hài hòa giữa tinh hoa văn hóa của dân tộc và hướng phát triển dân chủ của thời đại.
- Người lãnh đạo phải có tầm nhìn xa và khi cần phải biết chọn lựa dứt khoát một thế đứng trong bang giao quốc tế có lợi cho sự phát triển lâu dài của đất nước.
Mustafa
Kemal Atatürk, thường được gọi tắt Mustafa Kemal, sinh năm 1881
tạiSalonikatrong một gia đình theo Hồi Giáo, thuộc Đế Chế Ottoman. Ông
vào trường chuyên quân sự khi tuổi mới 12. Mustafa Kemal được nhận vào
học viện quân sự năm 1902 và tốt nghiệp đại học quân sự năm 1905. Khi
thế chiến thứ nhất bùng nổ, Đế Chế Ottoman liên minh với Đức và Hung.
Mustafa Kemal chỉ huy sư đoàn 19 thuộc binh đoàn 2 và đưa quân vào hành
lang Đông Âu. Ông là một sĩ quan xuất sắc, dạn dày trận mạc, chiến đấu
dũng cảm và được tặng thưởng 24 huân chương chiến công. Mặc dù những năm
cuối của thế chiến thứ nhất, liên quân Đức-Hung thua nhiều trận lớn
nhưng binh đoàn 16 dưới quyền Mustafa Kemal đã liên tục đánh bại quân
Nga. Khi Cách Mạng Cộng Sản 1917 bùng nổ, Nga rút quân.
Sau
thế chiến thứ nhất, Đế Chế Ottoman sụp đổ, lãnh thổ bị chia cắt và phần
Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay bị đồng minh dưới quyền của Anh chiếm đóng. Tướng
Mustafa Kemal thoát ly khỏi chế độ Ottoman để phát động một phong trào
võ trang đòi độc lập cho Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù bị kết án tử hình vắng mặt,
Mustafa Kemal vẫn được bầu vào quốc hội Ottoman. Khi quốc hội này bị Anh
giải tán, Mustafa Kemal kêu gọi bầu quốc hội khác và đặt trụ sở tại bản
doanh của phong trào độc lập ởAnkara. Quốc hội mới được bầu ra qua danh
xưng Đại Nghị Quốc Gia (Grand National Assembly) gọi tắt là GNA. Ngày 5
tháng 8 năm 1921, Mustafa Kemal được GNA phong làm tổng tư lịnh quân
đội phong trào giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ. Quân khởi nghĩa dưới quyền
Mustafa Kemal đánh bại liên quân Anh, Pháp, Ý, Hy Lạp tại nhiều nơi. Kết
quả, hiệp ước Lausanne ra đời ngày 24 tháng 7 năm 1923 công nhận nền
độc lập của Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ.
Tức
khắc sau khi trở thành tổng thống đầu tiên của nền cộng hòa non trẻ,
Mustafa Kemal đặt mục tiêu hiện đại hóa đất nước lên hàng đầu. Trung tâm
quyền lực chính trị của Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn này là GNA trong đó
đảng Cộng Hòa Nhân Dân do Mustafa Kemal thành lập giữ gần như đa số
tuyệt đối. Hiện đại hóa không chỉ được tiến hành trong lãnh vực kinh tế
nhưng quan trọng hơn trong chính trị, văn hóa, giáo dục.
Trong suốt thời
gian lãnh đạo quốc gia, Mustafa Kemal thực hiện hàng loạt các biện pháp
cấp tiến bao gồm việc giải tán các cơ sở giáo dục Hồi Giáo, bỏ tiếng Á
Rập và thay bằng ngôn ngữ Thổ dùng mẫu tự La Tinh, thành lập các ủy ban
nghiên cứu sự thành công của hệ thống kinh tế Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Thụy
Điển để áp dụng một cách hữu hiệu vào điều kiện một quốc gia Hồi Giáo
như Thổ. Mùa hè 1924, Mustafa Kemal còn mời nhà giáo dục Mỹ John
Frederick Dewey thuộc trường đại học Columbia, đến Thổ để cố vấn chính
phủ về cải cách giáo dục.
Cơ sở lý luận Kemal
Để
định hướng lâu dài cho đất nước, Mustafa Kemal xây dựng cơ sở lý luận
Kemal (Kemalism) đặt căn bản trên ba thành tố chính: Cộng Hòa
(Republicanism), Dân Túy (Populism) và Thế Tục (Secularism). Về thành tố
Cộng Hòa, Mustafa Kemal thay thế các nguyên tắc lãnh đạo quân chủ bằng
các nguyên tắc dân chủ pháp trị trong đó các quyền dân sự do chính nhân
dân quyết định qua hình thức dân chủ đại diện. Quốc hội là cơ quan quyền
lực cao nhất và được bầu lên qua một cuộc đầu phiếu phổ thông. Về thành
tố Dân Túy (Populism), Mustafa Kemal quan niệm cách mạng dân tộc dân
chủ của Thổ Nhĩ Kỳ là một cuộc cách mạng xã hội nhằm phục vụ cho lợi ích
của toàn dân. Ông đề cao các giá trị văn hóa lịch sử Thổ và xem đó như
hành trang lên đường hướng tới một tương lai sáng lạng cho dân tộc Thổ
Nhĩ Kỳ. Về thành tố Thế Tục (Secularism ), Mustafa Kemal chủ trương tách
tôn giáo ra khỏi nhà nước. Ngay cả câu “Nền tảng tôn giáo của quốc gia
Thổ Nhĩ Kỳ là Hồi Giáo” trước đó được xem như là tự nhiên trong một nước
với 99.8% dân số theo đạo Hồi, cũng bị gạch bỏ khỏi hiến pháp. Thái độ
dứt khoát của Mustafa Kemal về tôn giáo không nhằm xóa bỏ tôn giáo hay
thù địch tôn giáo nhưng nhằm mở rộng tự do tư tưởng và nâng cao vai trò
độc lập của chính phủ trong một xã hội vốn đã bị ảnh hưởng tôn giáo đè
nặng suốt sáu thế kỷ dưới thời Đế Chế Ottoman.
Chính sách Thổ Nhĩ Kỳ trong thế chiến thứ hai
Về
đối ngoại, vài năm trước khi qua đời vào ngày 10 tháng 11 năm 1938,
Mustafa Kemal tìm cách cải thiện mối quan hệ ngoại giao với Anh để cân
bằng cán cân ảnh hưởng với Liên Xô.
Tổng
thống thứ hai của Thổ Nhĩ Kỳ Mustafa İsmet İnönü, người kế vị Mustafa
Kemal ý thức sự chịu đựng của nhân dân Thổ trong suốt 14 năm chiến tranh
từ 1908 đến 1922 nên quyết tâm bằng mọi cách tránh đưa đất nước vào
vòng chiến một lần nữa. Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, Mustafa İsmet
İnönü tuyên bố Thổ Nhĩ Kỳ trung lập. Nhờ thế, trong lúc phần lớn châu Âu
chìm trong biển lửa, Thổ Nhĩ Kỳ dù là vị trí trái độn giữa hai khối,
không bị ảnh hưởng gì.
Tuy
nhiên, cuối tháng 2 năm 1945, khi số phận của khối trục chỉ còn tính
bằng ngày, Tổng thống Mustafa İsmet İnönü đã khôn khéo chọn lựa đứng về
phía đồng minh. Dù không có một người lính Thổ nào ra trận, theo quyết
định của hội nghị Yalta, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn được xem là quốc gia đồng minh
và là một trong những hội viên thành lập đầu tiên của Liên Hiệp Quốc. Cả
Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill đều
muốn Thổ Nhĩ Kỹ, quốc gia có vị trí chiến lược ngay sân sau của Liên
Xô, đứng về phía họ nên đã khuyến khích Thổ tham gia phe đồng minh.
Tương tự, Joseph Stalin cũng đánh giá cao vị trí chiến lược của Thổ và
mặc dù không tin tưởng hẳn, y vẫn nghĩ chính phủ Thổ sẽ tiếp tục ủng hộ
chính sách đối ngoại của Liên Xô như trước đây nên đã đồng ý đề nghị của
Thủ tướng Churchill.
Liên Xô tham vọng độc chiếm Eo biển Thổ Nhĩ Kỳ
Ngay
sau khi thế chiến thứ hai vừa chấm dứt, tham vọng bành trướng về phía
đông của Stalin đang trên đà chiến thắng lộ rõ nhất là qua xung đột Eo
biển Thổ Nhĩ Kỳ (The Turkish Straits) gồm hai eo biển Bosphorus và
Dardanelles nằm giữa Bắc Hải và Địa Trung Hải. Eo biển Thổ là nguồn hải
lưu huyết mạch và là chiếc cầu biển nối hai châu Âu và Á. Eo biển là
trái tim của Thổ Nhĩ Kỳ. Bất cứ quốc gia nào làm chủ Eo biển sẽ giữ vị
trí quân sự và chính trị quyết định trong toàn vùng Biển Bắc và khu vực
Balkans.
Ngày
19 tháng Ba năm 1945, Ngoại trưởng Liên Xô Vyacheslav M. Molotov thông
báo cho đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ tại Liên Xô biết Liên Xô đơn phương hủy bỏ
Hiệp Ước Cam Kết Không Xâm Lược (Non-Aggression Pact) giữa Liên Xô và
Thổ được ký kết ngày 17 tháng Giêng năm 1925. Tham vọng bành trướng của
Liên Xô không phải chỉ là chính sách riêng của Stalin nhưng là một bước
kế tục truyền thống khống chế các nước nhỏ chung quanh đã có từ thời các
Sa Hoàng Nga.
Khi
chính phủ Thổ tìm cách làm dịu mối quan hệ, Liên Xô đưa ra hàng loạt
điều kiện bao gồm việc chia quyền điều hành Eo biển Thổ Nhĩ Kỳ, Hồng
quân Liên Xô có trách nhiệm bảo vệ an ninh Eo biển, và ngoài ra, Thổ
phải trao trả cho Liên Xô hai vùng đất Kars và Ardahan đang thuộc lãnh
thổ Thổ Nhĩ Kỳ. Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ từ chối.
Thổ Nhĩ Kỳ chọn gia nhập NATO
Trước
sự đe dọa của Liên Xô và sự phân cực rõ nét của chính trị thế giới sau
thế chiến thứ hai, Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Mustafa İsmet İnönü ý thức rằng
để bảo vệ chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ và hiện đại hóa đất nước, Thổ
Nhĩ Kỳ phải từ bỏ chính sách đối ngoại hợp tác theo kiểu bình đẳng cùng
có lợi với mọi quốc gia để đứng về một phía có triển vọng phục vụ tốt
nhất cho quyền lợi trước mắt cũng như lâu dài của Thổ. Thổ Nhĩ Kỳ dứt
khoát đứng về phía Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh với Liên Xô.
Ngày
22 tháng 5 năm 1947, Tổng thống Truman ký quyết định viện trợ cho Thổ
Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Năm 1948, các cố vấn quân sự Mỹ bắt đầu giúp đở chính
phủ Thổ tái trang bị và hiện đại hóa quân đội.
Mỹ
và Anh muốn dùng đất Thổ như một tiền đồn và quân đội Thổ như một đơn
vị tiền phương để làm chậm sức tấn công của bộ binh Liên Xô một khi
chiến tranh giữa hai khối bùng nổ trong lúc chờ đợi không lực Anh Mỹ mở
các cuộc phản công phát xuất từ các căn cứ không quân đặt tại Ai Cập. Dĩ
nhiên, chính phủ Thổ biết rõ thâm ý của Anh và Mỹ nhưng đó là cái giá
phải chọn vì nền an ninh và sự thịnh vượng của quốc gia Thổ.
Theo tổng kết được ghi lại trong tài liệu Tương lai chính sách đối ngoại của Thổ Nhĩ Kỳ
(The future of Turkish Foreign Policy) của hai tác giả Lenore G. Martin
và Dimitris Keridis, trong năm 1948, Mỹ viện trợ cho Thổ Nhĩ Kỳ 180 phi
cơ chiến đấu F-47, 30 phi cơ oanh tạc B-26 và 86 phi cơ vận tải C-47.
Trong thời điểm 1948, đó là một viện trợ quân sự lớn. Với số vũ khí mới,
quân đội Thổ không những có thể ngăn chặn mà nếu cần còn có khả năng
oanh tạc các nguồn dầu khí của Liên Xô tại Romania và trong vùng
Caucasus.
Tuy
nhiên súng đạn không phải chỉ là những gì Thổ Nhĩ Kỳ muốn nhưng quan
trọng hơn là sự bảo đảm bằng một liên minh quân sự quốc tế. Nói rõ hơn,
Thổ muốn trở thành hội viên chính thức của Tổ Chức Minh Ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO). Tổng thống Mustafa İsmet İnönü tin tưởng hỏa lực hùng hậu
của NATO và Hạm đội Địa Trung Hải của Mỹ là bức tường thành vững chắc
nhất để bảo vệ Thổ Nhĩ Kỳ chống lại Liên Xô xâm lược. Để chứng tỏ thiện
chí, Thổ Nhĩ Kỳ gởi quân tham chiến bên cạnh các lực lượng Mỹ trong
chiến tranh Triều Tiên.
Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên của NATO.
Thổ Nhĩ Kỳ sau khi gia nhập NATO
Sau
khi gia nhập khối dân chủ tây phương, Thổ Nhĩ Kỳ phát triển một cách
nhanh chóng trong mọi lãnh vực. Thổ Nhĩ Kỳ có nền kinh tế lớn hạng thứ
17 thế giới với lợi tức bình quân đầu người trên 10 ngàn đô la và là
thành viên của G-20. Từ một nước phải chịu nhún nhường trước Liên Xô và
sau đó lệ thuộc vào vũ khí của Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành một quốc gia
tự sản xuất và xuất cảng võ khí tối tân. Không quân Thổ là một trong
những lực lượng không quân lớn nhất của NATO. Thổ Nhĩ Kỳ là một trong
năm quốc thành viên của Chính Sách Sử Dụng Nguyên Tử trực thuộc NATO.
Hiện nay có 90 bom nguyên tử loại B61 được đặt tại căn cứ quân sự
Incirlik trên đất Thổ. Nếu có một chiến tranh nguyên tử, không lực Thổ
Nhĩ Kỳ với sự chấp thuận của NATO có quyền sử dụng các vũ khí nguyên tử
đó. Các phi đoàn chiến đấu F-16C tối tân của không quân Thổ Nhĩ Kỳ do
chính công ty Công Nghiệp Không Gian Thổ (Turkish Aerospace Industries )
sản xuất. Thổ Nhĩ Kỳ còn là thành viên của chương trình sản xuất phi cơ
chiến đấu F-35, một trong những đề án kỹ thuật cao cấp và đắc giá nhất.
Trước
các thành tựu về kinh tế, chính trị và quốc phòng của Thổ Nhĩ Kỳ, không
cần phải phân tích, mọi người đều có thể hiểu, chính hạt mầm dân chủ
quý giá mà những người thành lập cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ gieo trên mảnh đất
đầy phân hóa vì độc tài phong kiến đã lớn lên thành cây xanh, trái ngọt
cho các thế hệ Thổ Nhĩ Kỳ hôm nay. Mười năm sau ngày độc lập, Tổng thống Mustafa Kemal đã phát biểu
“Cộng hòa có nghĩa lãnh đạo một quốc gia dân chủ. Chúng ta thành lập
chế độ Cộng Hòa đã mười năm, nó phải thỏa mãn các đòi hỏi của một chế độ
dân chủ khi cần đến.”
Sự
chọn lựa nào mà chẳng có hy sinh. Con đường dẫn đến dân chủ của Thổ Nhĩ
Kỳ không phải bằng phẳng. Với một quốc gia mang truyền thống quân sự từ
thời Đế Chế Ottoman, trong suốt mười năm đầu sau độc lập, nước Thổ vẫn
còn chịu đựng nhiều biến cố đảo chánh, ám sát, lật đổ, treo cổ, tranh
chấp giữa chính quyền dân sự và các tưởng lãnh, nhưng tất cả đều không
rung chuyển được nền tảng dân chủ tại Thổ.
Và
cũng không cần phải phân tích nhiều, mọi người đều hiểu sự chọn lựa dứt
khoát của cấp lãnh đạo Thổ sau thế chiến thứ hai đã có ảnh hưởng quyết
định trong việc đưa đất nước vượt qua hẳn quá khứ chậm tiến lạc hậu để
trở thành một quốc gia dân chủ tiến bộ duy nhất trong khối các quốc gia
Hồi Giáo. Thật vậy, nếu 1945, các lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ chấp nhận các yêu
sách của Stalin và trở thành một chư hầu không Cộng Sản của Liên Xô,
nước Thổ vẫn là một nước Hồi Giáo nghèo nàn, lạc hậu và yếu kém như
nhiều quốc gia Hồi Giáo Á Phi khác hiện nay.
Trung Quốc muốn gì ở Việt Nam?
Mặc
dù có những thay đổi chiến thuật trong từng thời kỳ, về căn bản, mục
tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc từ khi bắt đầu can dự vào cuộc
chiến Việt Nam đến nay vẫn không thay đổi. Một cách vắn tắt như đã viết
trong các bài trước, Trung Quốc muốn Việt Nam:
- Hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc về chế độ chính trị.
- Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Quốc.
- Trung Quốc độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Về
mặt chính trị. Hai nỗi lo lớn của giới lãnh đạo CS Trung Quốc là sợ bị
bao vây từ bên ngoài và diễn biến hòa bình bên trong nội bộ Trung Quốc.
Nhìn quanh, họ chỉ thấy kẻ thù. Thật vậy, hầu hết các quốc gia dân chủ
trong vùng từ Ấn Độ đến Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan, tuy mức
độ khác nhau nhưng đều là các quốc gia đang có những mâu thuẫn căn bản
với Trung Quốc, không những về quyền lợi kinh tế mà cả chế độ chính trị.
Mặc dù không công khai tuyên bố, giới lãnh đạo CS Trung Quốc cũng biết
hiện nay chỉ còn năm quốc gia theo một loại chủ nghĩa mà giáo sư sử học
Roderick Macfarquhar, thuộc đại học Harvard, gọi là chủ nghĩa Lê Nin
không có Mác, tức một nhà nước chuyên chính sắc máu nhưng không còn dựa
trên nền tảng triết lý duy vật. Hai cơ chế chính trị Cộng Sản Trung Quốc
và CSVN có một mối quan hệ hữu cơ mật thiết với các yếu tố tương quan
và phụ thuộc vào nhau. Sự lệ thuộc về chính trị của Việt Nam vào Trung
Quốc không chỉ giúp giữ an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp
đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra
trước. Không giống như điều kiện chính trị thời điểm hội nghị Thành Đô,
các phát triển chính trị và quân sự vùng Á Châu và Thái Bình Dương đang
diễn ra cho thấy cuộc cách mạng dân chủ có nhiều khả năng diễn ra tại
Việt Nam sớm hơn Trung Quốc.
Về
mặt kinh tế. Hơn ai hết, giới lãnh đạo CS Trung Quốc biết chế độ CS như
người đi trên dây, ngồi trên lưỡi dao cạo. Sự ổn định tại Trung Quốc
hiện nay chỉ là sự ổn định tạm thời vì cơ chế chính trị Trung Quốc vốn
được xây dựng trên một nền tảng bất ổn. Trong suốt 40 năm từ khi chương
trình hiện đại hóa của Đặng Tiểu Bình ra đời, các thế hệ lãnh đạo đảng
đã tập trung vào việc phát triển kinh tế để vừa thỏa mản nhu cầu vật
chất của người dân và vừa hợp thức hóa vai trò lãnh đạo của đảng Cộng
Sản. Hai yếu tố hàng đầu của một nền kinh tế sản xuất là lao động và
nguyên liệu. Lợi thế của Trung Quốc là nguồn lao động rẻ nhưng trong
điều kiện một quốc gia có mức độ lãng phí nguyên vật liệu cao trong các
nước đang phát triển như Trung Quốc, việc đáp ứng nhu cầu nguyên liệu
cho một nền kinh tế khổng lồ nhưng lạc hậu về quản trị là một thách thức
lớn cho giới lãnh đạo.
Hàng
hóa của Trung Quốc xuất cảng phần lớn là hàng hóa tiêu dùng nhưng đây
cũng là những loại sản phẩm mà quốc gia nào cũng có thể sản xuất được.
Sự lớn mạnh của khối được gọi là các Nền Kinh Tế Đang Hứa Hẹn (Emerging
Economies) trong đó Ấn Độ, với dân số 1.2 tỉ và mức xuất cảng cùng loại
hàng hóa như Trung Quốc tăng 100 phần trăm trong vòng 10 năm qua là mối
đe dọa lớn cho hàng hóa Trung Quốc. Để duy trì giá thành sản phẩm thấp,
Trung Quốc không thể mua nguyên liệu theo giá trên các thị trường quốc
tế London, New York hay nhập từ các nước châu Âu nên đã tìm cách khai
thác các nguồn nguyên liệu rẻ qua chính sách thực dân đỏ bất nhân, như đang diễn ra tại nước châu Phi, như trường hợp Congo.
Riêng
với Á châu, khu vực này không chỉ là thị trường tiêu thụ mà còn là
nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho nền kinh tế Trung Quốc. Miếng
mồi ngon nhất, hấp dẫn nhất, đủ tiêu chuẩn kinh tế, chính trị, quân sự
nhất không đâu khác hơn là Việt Nam. Chủ trương muốn Việt Nam là phần
không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược châu Á của Trung Quốc quá rõ
ràng, không cần phải một nhà phân tích chính trị cỡ Carlyle Thayer mới
thấy mà ngay trong tác phẩm Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua
Nxb Sự Thật, Hà Nội tháng 10, 1979, giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam
cũng đã tự thú điều này “Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất
phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ”.
Điểm giống nhau và khác nhau giữa Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ
Về
mặt địa lý chính trị và quân sự, Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ có nhiều điểm
giống nhau. Tham vọng thiên triều của các triều đại phong kiến Trung Hoa
đối với các quốc gia nhỏ vùng Đông Nam Á, đặc biệt với Việt Nam, thâm
độc không khác gì truyền thống nước lớn của các Sa Hoàng Nga đối với các
nước Đông Âu. Hoàng Sa và Trường Sa, đôi mắt của Việt Nam nhìn ra Thái
Bình Dương quan trọng không kém gì Eo biển Thổ Nhĩ Kỳ, trái tim Thổ Nhĩ
Kỳ trong vùng Địa Trung Hải. Khát vọng của dân tộc Việt Nam mong được
sống trong tự do, thanh bình, thịnh vượng sau bao nhiêu năm chiến tranh
tàn phá cũng sâu thẳm như ước vọng tự do, dân chủ và thịnh vượng của dân
tộc Thổ sau nhiều năm chiến tranh dưới thời Đế Chế Ottoman, thế chiến
thứ nhất và chiến tranh giành độc lập.
Sau
thế chiến thứ hai và nhất là sau sự sụp đổ của hệ thống Cộng Sản, lục
địa châu Âu hiện nay được xem là ổn định. Hầu hết các quốc gia vừa thoát
khỏi chế độ Cộng Sản, kể cả Nga, vẫn còn trên đường phục hồi kinh tế,
chính trị và phục hưng các giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc họ. Xung
đột thế giới tới đây được các nhà phân tích kinh tế chính trị nhận xét
sẽ là xung đột Á Châu, nơi đang tồn tại các hệ thống chính trị đối
nghịch, các quyền lợi kinh tế đối nghịch và các chính sách phát triển
đối nghịch. Vì lý do địa lý chính trị, Việt Nam được xem là một trong
những điểm nóng nhất và có thể sẽ là ngòi nổ của cuộc xung đột châu Á và
Thái Bình Dương.
Liệu Việt Nam có thoát khỏi chiến tranh châu Á như Thổ Nhĩ Kỳ đã đứng bên ngoài biển lửa châu Âu?
Liệu
giới lãnh đạo CSVN có khả năng hóa giải các nguồn ngoại lực và biết vận
dụng vị trí chiến lược của bán đảo Việt Nam một cách khôn ngoan để phục
vụ cho lợi ích lâu dài của đất nước như các lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ đã làm?
Trước
mắt, không có dấu hiệu gì cho thấy giới lãnh đạo CSVN có một nhận thức
chính trị quốc tế sáng suốt và cũng không có khả năng nào cho thấy họ có
thể từ bỏ các quyền lợi của đảng Cộng Sản vì sự sống còn của dân tộc
như các lãnh đạo đảng Cộng Hòa Nhân Dân Thổ. Những chờ đợi mỏi mòn,
những van xin tha thiết, những thỉnh nguyện thư trang trải hết ruột gan
đều không mềm lòng những kẻ mà tham vọng quyền lực và quyền lợi đã thấm
vào máu, ăn sâu vào xương tủy.
Ngay cả khi Thổ Nhĩ Kỳ nhận viện trợ của Liên Xô để tái thiết đất nước trong những năm đầu sau độc lập, Tổng thống Mustafa Kemal cũng đã công khai cam kết với nhân dân Thổ:
“Quan hệ hữu nghị với Liên Xô không có nghĩa là chấp nhận ý thức hệ
Cộng Sản. Chủ nghĩa Cộng Sản là một vấn đề xã hội. Các điều kiện xã hội,
tôn giáo và truyền thống dân tộc của đất nước chúng ta khẳng định chủ
nghĩa Cộng Sản không thể áp dụng tại Thổ Nhĩ Kỳ”. Việt Nam thì khác, từ
ngày thành lập đảng, mặc cho bao đổi thay trên thế giới, các cấp lãnh
đạo CSVN vẫn suốt ngày ra rã “Chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu” và
quan hệ giữa hai đảng CS Việt Nam và CS Trung Quốc vẫn là quan hệ “như
môi với răng”, “vừa là đồng chí vừa là anh em” như những năm trước 1975.
Còn lại gì hôm nay?
Giống
như Adolf Hitler lợi dụng chính sách đối ngoại Nhân nhượng
(Appeasement) của Thủ tướng Anh Neville Chamberlain trước thế chiến thứ
hai để chiếm đoạt Sudetenland, lãnh thổ chiến lược và giàu tài nguyên
nhất của Cộng Hòa Tiệp Khắc, Trung Quốc cũng đang lợi dụng sự bất ổn
kinh tế thế giới và chính sách đối ngoại Nhân nhượng của Barack Obama để
củng cố bộ máy quân sự và mở rộng ảnh hưởng tại Á Châu. Dân tộc Việt
Nam phải đối diện với thách thức về cả hai mặt, bên trong, một giới lãnh
đạo tham quyền cố vị, ươn hèn, và bên ngoài, một chủ nghĩa xâm lược dã
man nhất trong lịch sử loài người.
Yếu
tố duy nhất còn lại là sức mạnh tổng hợp của các thành phần dân tộc.
Chính các thành phần dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước là lực duy
nhất nằm ngoài sự kiểm soát của hai đảng Cộng Sản và cũng là lực duy
nhất có khả năng đưa Việt Nam ra khỏi bờ vực chiến tranh và đưa đất nước
tới một tương lai sáng lạng cho con cháu mai sau. Các thành phần dân
tộc không chỉ là những người đang công khai chống đảng, những người đứng
ngoài cơ chế lãnh đạo, những người không Cộng Sản nhưng là bất cứ ai
nhận thức được manh tâm của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc, bản chất
sai lầm trong cơ chế độc tài đang thống trị Việt Nam và chọn lựa dứt
khoát đứng về phía dân tộc. Thấy được con đường dân tộc phải đi và dâng
hiến tình yêu cho đất nước không bao giờ quá trễ. Không ai chiêu hồi ai.
Không ai tha tội ai. Không ai sách động ai. Hành trang là tinh thần độc
lập, tự chủ của tổ tiên giòng giống Việt. Chọn lựa của thời đại không
chỉ là chọn lựa giữa dân chủ hay độc tài nhưng quan trọng hơn thế nữa,
là mất hay còn, tồn tại hay diệt vong của một dân tộc.
Từ
vùng Balkans cho đến châu Phi, lịch sử nhân loại để lại vô số bài học,
chỉ vì giới lãnh đạo sai lầm và thiển cận, chỉ vì dân tộc chia rẽ và
phân hóa mà nhiều quốc gia, vương quốc, đế quốc, một thời hưng thịnh đã
vĩnh viễn bị xóa tên. Tất cả sẽ trở thành vô nghĩa khi Việt Nam không
còn có mặt trên bản đồ thế giới. Nhạc sĩ Việt Khang đặt ra một câu hỏi
nhức nhối không phải cho bộ máy công an đang giam cầm em, cho lãnh đạo
đảng Cộng Sản mà cho toàn dân tộc “Cội nguồn ở đâu, khi thế giới nay đã
không còn Việt Nam? ”.
© Trần Trung Đạo
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment