Thursday, October 6, 2011

Sống với người Việt



Tác giả: Philippe Papin và Laurent Passicousset
Người dịch: Hoàng Hà Bản tiếng Việt của trang: Anhbasam


Nhà xuất bản l’Archipel: Đây là cuốn sách thứ 6 nằm trong bộ sách “Đất nước và con người”. Trước đó, năm 2006 đã có cuốn “Tunisie – đất nước của những điều nghịch lý”, năm 2008: “Israel liệu có tồn tại?”, “Hussein, cha và con” và “Sống với người Trung Quốc”. Năm 2009 có cuốn “Sống với người Mỹ”.
Mục lục
Lời tựa………………………………………………………………tr 13
Đề dẫn…………………………………………………………………..tr 17
Lần đầu đi chơi tỉnh………………………………………………tr 21
Đường kẻ đỏ chói tai…………………………………………………tr 21
Đảo cán bộ……………………………………………………………tr 25
Thời luận nhỏ về một âm mưu lớn…………………………………tr 29
Ngoại ô cuối cùng, giới hạn đầu tiên………………………………tr 34
Đất cũ, thách thức mới……………………………………………..tr 37
Sống giữa hai cơn bão………………………………………….tr 43
Cơn bão chết người tầm thường………………………………….. tr 44
Hội An: ngập lụt hàng thế kỷ…………………………………….. tr 52
Quảng Ngãi: tàn phá bên bờ biển…………………………………tr 57
Mái trường thân yêu………………………………………….. tr 63
Trường tư nơi “hổng” trường công……………………………… tr 64
Trường công: thu chính, thu phụ……………………………….. tr 74
“Hối lộ hợp pháp”………………………………………………. tr 79
Ở bậc học cơ sở thế tốt rồi, lên trung học có thể làm tốt hơn…… tr 83
Công-Tư: trò ảo thuật cũ rích………………………………… tr 89
Thăng trầm một gia đình doanh nhân…………………………… tr 90
1975: Hà Nội gặp thị trường……………………………………. tr 95
Muốn cứu chế độ, phải cứu Nhà nước!…………………………………. tr 101
Công-Tư: tù mù………………………………………………… tr 104
Nền y tế thiếu đồng bộ ……………………………………. tr 111
Đời sống hai mặt của Hùng, một bác sĩ giỏi………………….. tr 112
Đau đớn và giải thoát…………………………………………. tr 116
“Bàn tay nhờn mỡ của công chức”………………………… tr 123
Những chân gỗ khó tránh và tốn kém…………………………. tr 124
Tuân thuyết phục các bạn ra sao?……………………………….tr 128
Nhà công vụ và bất động sản…………………………………..tr 134
Các yếu tố làm trầm trọng thêm tình hình: tản quyền và mua chuộc cán bộ………………………………………………………………tr 137
Người ta cảm thấy gì và nghĩ gì?……………………………….tr 144
Trò chơi phong bì, ai được ai mất?……………………………..tr 149
Hiên, một trường hợp kết nạp đảng điển hình……………..tr 153
Tiếp cận và vận động kết nạp………………………………………tr 154
Kiểm tra và kết nạp………………………………………………..tr 158
Chi bộ đảng hoạt động như thế nào?……………………………….tr 165
Càng trong đảng, càng ít làm chính trị……………………………..tr 171
Quân đội: Nhà nước trong Nhà nước, Đảng trong Đảng……….. tr 179
Cán bộ dân sự học quân sự………………………………………….tr 179
Dịch vụ cho người nghèo và người “không nơi nương tựa”………..tr 184
Giải ngũ, tái vũ trang……………………………………………..tr 189
Lực lượng dân quân trong công sở, nhà máy…………………….tr 192
Tự chủ và làm ăn trong quân đội…………………………………tr 195
Tư nhân hoá một phần rất nhỏ các doanh nghiệp quân đội………tr 199
Rắc rối những đối tượng bất đồng chính kiến…………………….tr 202
Bạn của người có thể “xin lại cái quần đùi”………………………tr 205
Việc làm: “Tay làm hàm nhai”…………………………………tr 211
Chim non tìm tổ……………………………………………………tr 211
Kinh tế tư nhân hay phi chính thức?………………………………..tr 215
Việt Nam cũng có thất nghiệp………………………………………tr 223
Sống chui trong thành phố………………………………………….tr 226
Xuất khẩu lao động ư? Vay nợ đi trước đã!……………………………… tr 235
Mất đất!…………………………………………………………tr 243
Tam Đảo, nông dân rời ruộng……………………………………..tr 245
Một thày bói thạo tin giải toả………………………………………tr 250
Nông dân: một gương mặt điển hình, vinh quang và quen thuộc….tr 253
“Bỏ” nhà được đền bao nhiêu?…………………………………………………..tr 258
Nhà ở xã hội thành đối tượng đầu cơ……………………………….tr 261
Đất xanh bóng trắng…………………………………………………tr 265
Chiến lược vét đồ rơi vãi……………………………………………tr 271
Nhà đầu cơ dễ mến………………………………………………tr 275
Hệ thống chia phần: ăn mồi có tổ chức……………………………..tr 277
Hà Nội, sào huyệt của giới đầu cơ………………………………….tr 283
Tôn giáo: Trời hay đất?………………………………………………………tr 287
Một câu chuyện tôn giáo với hai nhát bào………………………..tr 288
Công giáo: Thoả hiệp và kháng cự………………………………..tr 292
Nhà thờ được người ngoại đạo ủng hộ…………………………….tr 296
Đạo phật bị chia nhỏ……………………………………………….tr 298
Sự quan liêu hoá thận trọng của các tôn giáo………………………tr 302
Thánh hoá chính trị…………………………………………………tr 305
Đầu óc phê phán và chế giễu dưới chế độ độc đảng……………tr 307
Giới trí thức mưu mẹo……………………………………………..tr 308
Ngôn từ nước đôi và trở mặt……………………………………….tr 313
Khi nhà báo muốn đưa tin………………………………………….tr 316
Khi tự kiểm duyệt làm tê liệt……………………………………….tr 323
Bà Anastasie trong những bộ đồ nhàu nát………………………… tr 328
Những kẻ chế nhạo………………………………………………… tr 333
“Người buôn gió”…………………………………………………..tr 338
Blog, bất đồng chính kiến, Trung Quốc: khi chính quyền thấy sợ……………………………………………………………… tr 343
Blog, “thông tấn xã vỉa hè”……………………………………….tr 344
Blog và Bloc (khối): sự kết hợp bất đồng chính kiến…………….tr 349
Những phiên toà bất công để sân khấu hoá sự bất công……………tr 353
Trên Internet, các “thế lực thù địch xúi giục bất ổn”………………tr 357
Bóng đen Trung Hoa, bùng nổ chủ nghĩa dân tộc………………….tr 360
Sợ vết dầu loang……………………………………………………tr 364
Sao cho 100 hình ảnh này lan xa!…………………………………..tr 369

Lời tựa

Lời kết mỉa mai của cuốn sách thật hay này chính là chìa khoá. Ban đầu tôi cũng tự hỏi không hiểu cái cảm giác về một sự rõ ràng, tươi mát, “mới mẻ” hoàn toàn khi đọc cuốn sách tìm hiểu thực tế Việt Nam này ở đâu ra. Câu trả lời hoá ra lại đơn giản: đó là do các tác giả đã hoàn toàn bỏ qua các định kiến, mà suy cho cùng các định kiến ấy là do tính chuộng ngoại lai mà ra. Chuộng ngoại lai hiểu cho đúng cũng là một dạng dối trá. Bao giờ cũng dối trá. Chính nó ve vãn và làm khách du lịch lạc lối.

Chúng ta hãy cùng nhớ tới những lời quảng cáo năm này qua năm khác mời gọi ta lên đường. Phần lớn những lời quảng cáo này đều có một tính hai mặt đáng ngờ. Đó chính là nghịch lý căn bản của mỗi chuyến đi, mỗi khám phá (rởm). Có thể tóm lại trong vài từ. Thứ mà chúng ta đi tận chân trời góc bể để kiếm tìm, thứ “ngoại lai” rởm ấy chẳng qua cũng chỉ là “đồ sơn” mà thôi. Cái cứ tưởng là “nơi khác” ấy khiến chúng ta bỏ tiền ra mua lời hứa hẹn trong các ca ta lô của các hãng lữ hành chuyên nghiệp, nó là một trò dối trá thô thiển nhằm đáp ứng một nhu cầu mà ta có thể tạm coi là chủ nghĩa tiêu thụ.

Cái chúng ta tìm kiếm một cách bản năng khi rời khỏi quê hương, khỏi thường nhật, khỏi môi trường quen thuộc, đó không chỉ là vẻ đẹp đặc thù của phong cảnh hay công trình. Chúng ta còn hy vọng sẽ có thêm chút gì thật là khác thường, một sự lạ nước lạ cái hoàn toàn, một sự “khác biệt” càng lớn càng tốt. Đi thăm chợ ả rập, phố Ấn độ hay đường mòn châu Phi, chúng ta muốn được sửng sốt trước những người đàn ông và đàn bà có cách sống khác, truyền thống khác và thế giới quan khác. Khác tuyệt đối.

Tất cả những sản phẩm báo chí nói về lữ hành chẳng qua cũng chỉ nhằm tụng ca một cách ít nhiều khéo léo về sự “khác biệt” này. Phụ nữ cao cổ ở Myanmar, thầy tu khổ hạnh ở Bénarès, người Inuit ở Groenland, nông dân còng lưng dưới ruộng ở Việt Nam: đó là sự lạ mà các hãng lữ hành mời chúng ta tận hưởng.

Vậy mà, cách nhìn thế giới như vậy là ngược lại với sự thật. Trước hết, cái mà chúng ta cho là đẹp như tranh thường là do tác động của nghèo đói. Cái mà chúng ta cho là thú vị (những đám đông chân trần lê bước ở châu Phi, những thành phố lúc nhúc loè loẹt, những bà nông dân còng lưng gánh củi, .v.v.), lại chính là nỗi khốn cùng của người trong cuộc. Trong cái cách mà khách du lịch lượn quanh các chợ nhòm ngó, máy ảnh nháy lia lịa, có chút gì đó hơi dã man.

Sau đó, phải thấy là cả thế giới đã thay đổi, nhất thể hoá, đô thị hoá và phát triển. Những cô bé chăn dê ở châu Phi ngày nay nghe nhạc techno bằng máy kỹ thuật số; sư sãi ở Việt Nam đi taxi và học vi tính; các dân tộc trên thế giới cũng, giống như chúng ta, muốn tham gia vào tất cả những gì gọi là toàn cầu và sự đơn điệu của nó. Sự tầm thường hoá hành tinh đương nhiên làm chúng ta không thoả được cơn khát ngoại lai. Nó làm ta bực bội. Nên ta cứ có xu hướng muốn giữ lại sự hư cấu về cái đẹp đẽ đã qua, nhốt người dân các xứ sở xa xôi trong nhà tù của sự khác biệt. Để đạt được mục đích ấy, ta sẽ lại sáng tạo ra một thế giới tưởng tượng, còn giả hơn cả đề co sân khấu; ta sẽ quay phim như thể đó là một vườn bách thú màu sắc khổng lồ. Ta sẽ đòi các dân tộc phải giống y hệt ý ta.

Tôi vẫn còn nhớ một câu chuyện được nghe ở châu Đại dương. Ở quốc đảo Fidji, chính phủ năm nào cũng yêu cầu nhân dân không mặc quần áo kiểu phương Tây trong mùa du lịch để khỏi làm khách thất vọng. Nói thế là đủ hiểu.

Thực ra nước nào cũng có nét ngoại lai đặc thù của mình và cả một bộ sưu tập các hình ảnh mà người ta thường quen gán cho nơi ấy. Đối với trường hợp Việt Nam, các hình ảnh định sẵn ấy trong đầu óc chúng ta có nhiều tầng nghĩa. Tất nhiên trong đó có những hình ảnh về vẻ đẹp rực rỡ của phong cảnh. Ngay cuối thế kỷ XIX, những người đầu tiên phát hiện ra Việt Nam đã mê đắm kể về những ruộng lúa bát ngát bao quanh là những rặng núi ẩn hiện trong mây. Họ tả về những ruộng lúa sắp xếp khéo léo như những tổ ong, phân cách đất và nước từng xăng ti mét một, tới tận chân trời; những ô bờ đê bằng đất sét bao lấy những người đàn bà oằn vai dưới sức nặng của chiếc đòn gánh; những động tác và nhịp điệu ấy – những chiếc gầu tưới mà hai người đàn ông đứng đối mặt cùng nhịp nhàng kéo nước, những con trâu bì bõm trong nước ngập tới nửa ống chân.

Bổ sung vào những tụng ca dai dẳng về vẻ đẹp địa lý – quả thật là không thể chối cãi -, qua thời gian còn có thêm những kỷ niệm về thời thực dân và các cuộc chiến tranh liên tiếp diễn ra sau đó. Lính Pháp, những cựu binh Đông Dương, đã góp phần lớn vào việc làm cho đất nước này có một sự “mê hoặc” đặc biệt. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ, vượt qua nỗi đau thể xác và tinh thần, đã phát triển, và làm lan truyền, một nỗi nhớ Việt Nam lạ lùng và da diết. Thậm chí họ còn chế ra từ “namstalgie” để chỉ nỗi nhớ này. Qua bao năm lắng lại, tất cả những hình ảnh này cuối cùng đã tạo ra một Việt Nam tưởng tượng, một Việt Nam ảo trong đó đời sống của nhân dân ra sao, xã hội (thực) biến chuyển thế nào ít ai quan tâm. Phần lớn sách báo và sách hướng dẫn du lịch ở các nước phương Tây đều nói tới nước Việt Nam tưởng tượng này.

Trong khi đó, nước Việt Nam thật lại rất ít được biết đến – giống như phía kia của mặt trăng. Philippe Papin và Laurent Passicousset sẽ giúp chúng ta khám phá “mặt khuất” này. Để làm được như vậy họ có một thái độ bình tĩnh – thậm chí hài hước nhẹ nhàng – mà chỉ những người hiểu tường tận đất nước và ngôn ngữ này mới có được, mà những người như vậy đâu có nhiều.

Với tất cả những ai, giống như người viết những dòng này, yêu mến Việt Nam từ lâu nay, với những ai tưởng rằng mình có chút hiểu biết về đất nước này, có được cuốn sách này quả là duyên trời định, tuy nghe có vẻ nghịch lý. Khách quan nhưng uyên bác, xây dựng nhưng phê phán, những trang sách đưa ta thẳng đến thực tế, một thực tế trần trụi nhưng đáng say mê của một đất nước.

Jean-Claude Guillebaud

Đề dẫn

Với số dân 90 triệu và nằm ở giữa Đông Nam Á và Đông Á, có thể nói Việt Nam là một đất nước có vị thế quan trọng. Ấy thế mà còn nhiều điều về đất nước này mọi người vẫn chưa được biết. Nguyên nhân là do cách trở xa xôi, hẳn là vậy rồi, nhưng còn bởi những biến cố lịch sử gần đây đã dựng lên trước đất nước này một tấm màn chiếu phẳng không góc cạnh. Và người xem bị hút vào những hình ảnh nối tiếp nhau trên cái khuôn hình đó: nào là Đông Dương, nào là Điện Biên Phủ, nào là chiến tranh và bom na-pan, nào là những cảnh trực thăng Mỹ lượn đi lượn lại hay sự sụp đổ của chế độ Sài gòn. Tất nhiên người ta có thể làm cho cái màn hình này dịch chuyển, nhưng khi đó người ta lại thấy những hình ảnh khác hiện ra: một Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa cộng sản dân tộc, hay những tấm áp phích tuyên truyền, và hình ảnh búa liềm. Khi những hình ảnh này trôi qua, một loạt những hình ảnh mới mẻ hơn, song chẳng kém phần biểu trưng và loá mắt lại xuất hiện.
Đằng sau tấm màn đó mới là một đất nước thực sự đang cựa mình. Dường như nó không thể được tiếp cận. Khi ta không biết ngôn ngữ của người dân bản địa thì đương nhiên việc giao tiếp với họ bị hạn chế. Còn những tiếp xúc nghề nghiệp mang tính hình thức xã giao, chỉ trừ những trường hợp đặc biệt mà thôi. Khi chỉ đi lướt qua thì tất nhiên chẳng thể nào thấy được gì nhiều. Nhưng khi ta lưu lại đây lâu thì lại thấy quá nhiều điều đang diễn ra. Quả vậy, giờ nếu ta đặt câu hỏi đâu là xứ sở đang chuyển động, đang sôi lên sùng sục, đang đổi thay liên tục đến nỗi chẳng một ai có thể đưa ra được một nhận định chắc chắn, thì câu trả lời chính là Việt Nam. Từ khi Việt Nam mở cửa ra thế giới vào năm 1994, đất nước này chưa hề vượt qua được một chặng đường dài kì tích như người ta vẫn thường được nghe đi nghe lại quá nhiều. Mọi người đã quá quen với lề lối cũ, đến mức một thay đổi nhỏ nhất dù là trước đây hay bây giờ đều được xem như một sự đảo lộn. Điều đó cũng đúng ngay cả với những điều giản đơn nhất, chẳng hạn như: từ bỏ chiếc áo bông trấn thủ, chiếc mũ cối xanh hay đôi dép cao su Bác Hồ; việc thay chiếc mũ nồi xứ bas-kơ bằng chiếc mũ lưỡi trai kiểu Mỹ; việc mặc quần tất; sự xuất hiện của những chiếc váy in hoa hay những hoạ tiết nữ tính; và cả việc hạ những chiếc loa phóng thanh công cộng hay việc lắp đặt đèn xanh đèn đỏ tại các ngã ba, ngã tư đường; cuối cùng là quyền phát ngôn, quyền đi lại trong nước và ra nước ngoài…
Sự đồng nhất cách ăn mặc và lối nghĩ vốn đã làm người ta bối rối cách đây hai mươi năm giờ đây đã nhường chỗ cho những sắc thái và quan điểm đa dạng mà ngày nào cũng đập vào mắt ta. Quả thực là xã hội Việt Nam đã trở thành một cơ cấu phức hợp, góc cạnh hơn, nhất là trên phương diện kinh tế hay văn hoá, duy chỉ có hệ thống chính trị dường như có phần biến đổi chậm hơn. Xã hội Việt Nam đã lật qua một số trang cũ và đã viết thêm vài trang mới. Xã hội đó đã trở lại là một quần thể được cấu thành từ vô số những cá thể mà không dễ để ai đó làm phẳng đi. Nó khởi phát từ thành thị, từ nông thôn, từ bắc chí nam, cho tới miền trung, từ những miền đồng bằng và miền núi, từ những người giàu và người nghèo, từ lớp người trung lưu mới nổi, từ giới trẻ, từ người già, từ những cán bộ chính trị, những doanh nhân, rồi dân ghiền Internet. Hơn bao giờ hết, Việt Nam và người Việt Nam giờ đây đang chuyển hoá từ đơn thể sang đa thể. Khi ta chối bỏ sự đa dạng này, khi ta nhìn cuộc sống qua mặt phẳng được bào nhẵn và xem xét con người bằng những chiếc thước đo, ta sẽ không tránh khỏi sa vào cái mớ những sự khái quát và những lối nghĩ rập khuôn vốn đã được nghe đi nghe lại quá nhiều rồi: chúng tôi đã tập hợp tất cả những thứ đó, để thay lời kết luận cuốn sách này.
Ngay khi đọc những chương đầu của cuốn sách, độc giả sẽ hiểu ra rằng mục đích của chúng tôi không phải là chỉ ra phần nổi – bởi lẽ đó là những thứ chẳng mấy chốc sẽ được coi là chuyện dân gian ở những xứ sở xã hội chủ nghĩa nhiệt đới -, mà là thực sự giới thiệu những gì ở đằng sau tấm rèm. Những chuyện đó lại không hề xa lạ với chúng tôi. Chúng tôi đã lục lọi ở những chốn đó từ hai mươi năm nay và chúng tôi thậm chí nắm giữ cả chìa chính và chìa phụ để mở một vài cánh cửa (chúng tôi không có chìa để mở mọi cánh cửa).

Việc chúng tôi tìm cách tìm hiểu và miêu tả mọi người sống như thế nào giải thích những nỗ lực của chúng tôi để định lượng, để đếm, sắp xếp lại những thông tin mà chúng tôi đã thu thập trên thực tế, thuật lại những tình huống xác thực và những trải nghiệm cụ thể. Mối bận tâm đó của chúng tôi cũng minh chứng một điểu rằng tiêu chí duy nhất mà chúng tôi đã theo đuổi là nói những gì có thực dù ở mức độ nào đi nữa.

Dẫu sao, xét ở một góc độ khác thì đất nước này vẫn là một cơ cấu đơn nhất, một bức tường chắn vững chắc, một chiếc mỏ neo bám chặt vào đất và không lay chuyển: đó là chính thể một Đảng duy nhất. Đảng đó chưa bao giờ bị những xu hướng khác thẩm thấu, chưa bao giờ bị chia rẽ hay rạn nứt; và dù bản thân chính Đảng đó đang đứng trước nhu cầu phải thay đổi thì điều đó cũng không ngăn cản Đảng vạch ra cái vòng tròn để giới hạn những gì người ta có thể nói và có thể làm. Và thế là quyền lực tuyệt đối của Đảng đã thống nhất những sự khác nhau, từ cực này cho tới cực kia của đất nước, người ta không có sự lựa chọn nào khác là phải qui thuận theo. Người ta cũng không thể không tính đến sự tồn tại của Đảng, bởi lẽ sự ảnh hưởng của nó lan toả trong mọi lĩnh vực của đời sống thường ngày dù ở những mức độ khác nhau. Bởi vì con người ta không phải là những cỗ máy, cho nên mục đích thực sự của cuốn sách này là miêu tả chi tiết mối quan hệ, sự không tương thích cũng như nguyên lí giải thích tại sao cái cuộc sống hàng ngày này lại không hề diễn ra hoàn toàn đúng theo những gì mà ý chí chính trị mong muốn.

Ngay khi ta đề cập tới các vấn đề về chính trị, về nhà nước, về hệ thống kinh tế được tầng lớp lãnh đạo xã hội tạo dựng nhằm đảm bảo lợi ích lớn nhất cho mình, tất yếu ta sẽ nghe thấy những lời phê phán. Chúng tôi đã không hề né tránh những chỉ trích đó, bởi vốn dĩ chúng tôi luôn trung thành với nguyên tắc của mình là luôn theo sát những gì con người đã trải nghiệm, nhất là những ai ít được phát biểu nhất. Đó không chỉ là những lời bàn tán giễu cợt đâu đó vốn đã luôn tồn tại, mà là một luồng dư luận trái chiều thực sự, một luồng dư luận đang hình thành và đang có xu hướng tách ra thành nhóm. Nhóm này đang bị xử lí nghiêm khắc. Chúng ta lại không thể nhắm mắt làm ngơ và hành động như thể tất cả mọi người đều đồng tình với những diễn biến mới đây liên quan tới chính quyền.

Những lời chỉ trích chúng tôi đưa ra chẳng hề làm giảm đi chút nào những cảm mến của chúng tôi với Việt Nam. Đúng hơn, những ý kiến đó của chúng tôi đã minh chứng một điều rằng chúng tôi không hề coi thường những người dân của đất nước này. Cuối cùng chúng tôi cũng phải thú nhận rằng chúng tôi đã đắn đo rất nhiều khi viết ra những lời đó. Những do dự của chúng tôi có hai loại. Đối với loại thứ nhất, chúng tôi đã không nói ra, bằng cách thay đổi họ và tên, vì chúng liên quan tới sự bình yên của những người đã kể cho chúng tôi những chuyện nhạy cảm. Thế còn loại do dự thứ hai thì sao? Nói ra điều không hay hẳn không phải lúc nào cũng dễ nghe, dù là trong lĩnh vực chính trị. Chính lời nhận xét thẳng thắn sau đây của một người bạn gái Việt Nam – người mà chúng tôi đã tâm sự nói ra những e ngại của mình (cô cũng là người hiểu rõ mức độ kiểm duyệt cũng như cái giá của việc kiểm duyệt nội bộ ) – , đã giúp chúng tôi dẹp đi những do dự này: “Nếu các bạn không nói ra những điều đó, vậy ai sẽ nói ra đây ?”.


Phần II: Blog, bất đồng chính kiến, Trung Quốc: Khi chế độ lo sợ

Thật là sáo rỗng khi nói rằng Internet đã thay đổi tất cả. Ở Việt Nam cũng như ở Iran và Trung Quốc, điều khẳng định đó có điểm nổi bật riêng: thế giới thông tin, sự kiểm soát và tiếp cận hoàn toàn thay đổi. Đất nước được kết nối theo chiều hướng tốt hơn.

Tính đến năm 2010, có tới 25 triệu người ở Việt Nam vào mạng thường xuyên và điều cốt yếu là phải nói rằng người ta có thể tìm thấy một hàng Internet tại bất kỳ một thị trấn nào ở tất cả các tỉnh. Chắc chắn ở những cửa hàng đó, trang thiết bị đều không mới cũng chẳng chạy nhanh, nhưng tất cả các quán net đều đông nghịt thanh thiếu niên đang giao tiếp với thế giới mà chỉ cần dùng đầu ngón tay. Do vậy, chỉ trong vài năm, các tờ báo truyền thống dưới dạng báo in, vốn rất nhiều song cũng đều bị kiểm duyệt, đã phải thành lập thêm báo mạng như các cơ quan báo chí quốc tế, các trang web nước ngoài bằng tiếng Việt, thậm chí có cả những tờ báo mới của Việt Nam chỉ tồn tại trên Internet và có phong cách khá tự do kiểu như Vietnamnet.

Mặt khác, mạng Internet cho phép mọi cá nhân đều có thể tiếp xúc với những người truy cập khác trên toàn thế giới, trong đó đặc biệt có cả cộng đồng kiều bào ở nước ngoài, thông qua các trang báo điện tử, các trang web cá nhân, các diễn đàn và trang blog.

Chính những trang blog này khiến chúng tôi quan tâm. Ít ra cũng là những trang blog chính trị hơi thiếu tôn kính một chút, bởi với những trang blog khác phải nói thật là chán ngắt, chỉ thoả mãn với việc đăng tải những chuyện tình cảm thầm kín, những kết quả thi đấu thể thao và những lời khuyên về các sản phẩm chăm sóc sắc đẹp (ngay cả khi những trang blog đó thể hiện tính đa dạng và chủ nghĩa cá nhân trong một đất nước cộng sản giống như các dạng tạp chí đã tận dụng những phương tiện này). Những người dám đề cập đến lĩnh vực chính trị và thời sự là những người có nhiệt huyết và có rất nhiều trang blog như vậy.

Các trang blog, “những thông tấn xã vỉa hè”

Blog Osin nêu những vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội hiện tại nhạy cảm nhất. Huy Đức, người quản trị trang blog này, không hề lùi bước trước bất cứ thứ gì khi lưu trữ các bản tin hài hước mà ông đã đăng tải gần như hàng ngày. Người ta tìm thấy ở đó những bản tin về Đảng, về các quan chức, về Trung Quốc, bất động sản, giải phóng mặt bằng, mức sống sa sút và tình trạng thất nghiệp bị che giấu, nạn tham nhũng, buôn lậu, sự thông đồng trong hệ thống thể chế: tất cả những gì mà ở Việt Nam phải nói thầm. Là một người rõ ràng có nguồn tin rất nhanh nhạy chứ không phải một người Việt Nam bình thường, nhưng ông không tiết lộ nguồn tin riêng, cũng không chạy theo những chuyện ngồi lê đôi mách. Chiến lược của ông tinh tế hơn nhiều, chỉ thể hiện suy nghĩ của mình về những sự việc hoặc thông tin đơn giản được cung cấp từ nguồn báo chí chính thống mà bất cứ ai cũng có thể đọc được. Chính lời bình của ông mới đáng chú ý và ông trình bày như một lời kết luận logic về những điều ông vừa đọc được trên báo chí.

Khi bình luận về những số liệu thống kê chính thức được Viện Kiểm sát công bố, trong đó nhấn mạnh việc giảm được 12% các vụ tham nhũng và 18,7% lượng can phạm trong sáu tháng vừa qua, trước hết ông nhận định rằng những kết quả khả quan này phù hợp về mặt thời gian với việc đưa vào áp dụng “Luật phòng chống tham nhũng” như một sự ngẫu nhiên, nhưng sau đó lại dẫn chứng một cuộc thăm dò của một văn phòng phương Tây cho thấy hơn 80% số doanh nghiệp phải đối mặt với vấn đề này. Từ đó, ông khiến người đọc thắc mắc cả về tính xác thực của các số liệu chính thức, hiệu quả của luật quy định các cán bộ phải kê khai tài sản cũng như tỷ lệ tham nhũng thực tế ở Việt Nam; ông tiếp tục đưa ra lưu ý rằng những kẻ bị kết án chỉ thuộc những cấp thấp trong hệ thống chính quyền chứ không bao giờ ở những cấp gần tới trung ương. Theo quan niệm của ông, chiến lược Osin rất tốt bởi nó dựa trên việc diễn giải, vốn không bị cấm, chứ không tiết lộ thông tin vì điều này có thể sẽ không được phép.

Một trang blog khác cũng rất có tên tuổi là Buôn Gió, tức Bùi Thanh Hiếu, 37 tuổi, hiện sống tại Hà Nội. Ngoài việc cáo buộc thẳng thừng cách xử sự của Hà Nội với Bắc Kinh, ông cũng đề cập thẳng thắn đến những vấn đề chính trị, đặc biệt phê phán cách điều hành của chính phủ trong việc xung đột với Giáo hội Thiên chúa giáo mà ông rõ ràng cũng là thành viên.

Trong bản tin gần đây nhất của mình, ông đã đăng tải những bức ảnh cho thấy sự đàn áp cộng đồng giáo dân Đồng Chiêm, phá bỏ thánh giá, hai phụ nữ bị công an đánh đập, những bộ quần áo đầy máu me nằm trên một đống gạch. Trong số những trang blog táo bạo này cũng cần phải kể đến các trang Điều Cầy ở Thành phố Hồ Chí Minh bài xích ngọn đuốc Olympic và chủ nghĩa đế quốc Trung Quốc; “Trang the Ridiculous” quan tâm sát sao tới lĩnh vực kinh tế và cũng tự cho phép mình chỉ trích vai trò của Trung Quốc trong lịch sử gần đây của Việt Nam; Mẹ Nấm ở Nha Trang cũng nổi khùng trước những mưu đồ chiến lược của Trung Quốc; Quê Choa có lượng người xem rất đông; Anh Ba Sàm do một cựu công an lập ra đã có được 2 triệu lượt người xem và có hàng trăm đường link cho phép chuyển sang những trang web và blog khác ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài.

Tất cả những trang blog này đều có một lợi ích lớn cả về mặt cung cấp thông tin ngay từ gốc, được rút ra từ những trải nghiệm cá nhân được mô tả một cách tự do, cũng như về nội dung bình luận. Ở đó người ta được hít thở mùi hương của không khí thời cuộc, đó là sự thật, sự thật từ phát ngôn của người dân. Tất cả những thông tin ở đó chắc chắn không nhất thiết phải chính xác, cũng chẳng tô vẽ, thậm chí chẳng thiếu những ẩn ý, song tất cả đều là những cái hộp cộng hưởng nho nhỏ của những điều mà người Việt Nam trao đổi với nhau.

Trang chủ trên blog của Nguyễn Hữu Vinh (tức Ba Sàm) nhại lại câu của một cơ quan thông tấn với hàng chữ đậm: “Cơ quan của Thông tấn xã Vỉa Hè”. Không thể bỏ qua những trang blog này bởi dù sao đó cũng là nơi duy nhất thực sự có tự do ngôn luận và ngoài việc bàn luận không đâu vào đâu thì đây là phương tiện duy nhất để biết được điều mà mọi người muốn nói. Vả lại, đó cũng là một việc thực hành rất bổ ích khi so sánh những điều được đăng tải trên báo chí với những điều mà các bloger thể hiện trên các trang Yahoo-360 hay Multiply mỗi khi xảy ra những sự kiện lớn.

Trong những năm 2008 và 2009, khi báo chí chỉ trích những người Thiên chúa giáo biểu tình ở Hà Nội thì các bloger tỏ ra dè dặt hơn, có thái độ nghi ngờ trước sự thống nhất của các phương tiện truyền thông chính thống, tỏ ra bối rối khi một bloger tiết lộ rằng cảnh sát đã cài những thành phần lưu manh vào nhóm biểu tình để gây rối loạn, kinh tởm khi bloger “Buôn gió” đăng tải những bức ảnh người bị thương. Người ta có thể suy nghĩ những gì mình muốn về vấn đề Thiên chúa giáo, nhưng không thể nói rằng về chủ đề này, người Việt Nam rất ngây thơ hay chỉ biết theo đuôi.

Mặt khác, người ta cũng không còn thờ ơ khi đọc tin về sự phẫn nộ của một phụ nữ trẻ trước việc bắt giam hai nhà báo đã tiết lộ tin tức về vụ bê bối tham nhũng PMU 18. Trong lĩnh vực kinh tế, đây đó đều có những phân tích không chính thống và đặc biệt gây khó chịu bởi nó xuất phát từ những môi trường mà không bao giờ được phép phát ngôn, chẳng hạn từ khu vực kinh tế tư nhân phàn nàn về tình trạng cạnh tranh không lành mạnh của khu vực kinh tế Nhà nước. Có thể dẫn ra vô vàn ví dụ song ý tưởng vẫn hết sức đơn giản: nếu không đọc những trang blog này, làm sao người ta có thể nghe được những tiếng nói cá nhân và đôi khi là không hoà hợp của Việt Nam? Vì vậy hãy lắng nghe những tiếng nói đó, dù nó mang lại sự bực bội (hay niềm vui) khi phải đọc những nội dung như vậy, trực tiếp bằng ngôn ngữ của họ, những trang blog của khoảng 2,5 triệu đồng bào hải ngoại ở Mỹ, Canađa, Úc, Pháp hay Nga.

Quả thực những trang blog của người Việt ở nước ngoài được đọc rất nhiều. Đối với thanh niên cũng như nhiều đối tượng khác, đó là một khung cửa rộng mở và càng dễ dàng truy cập hơn khi không còn rào cản ngôn ngữ. Tất nhiên vẫn có những trang web chính trị rất cay nghiệt, nhất là trong cộng đồng người Việt ở California, nhưng chúng ta đừng quên rằng theo kênh này, tất cả các cuộc tranh luận có thể kết nối với tầng lớp trí thức cũ đã rời khỏi Việt Nam từ năm 1954 hay 1975.

Trong số hàng ngàn ví dụ này có thể kể đến những trang viết được đánh giá rất cao của Trần Hữu Dũng, giáo sư kinh tế tại Đại học Wright thuộc bang Ohio, hiện đang trở thành một địa chỉ tham khảo về thông tin. Quả thực những người Việt đang sống ở Việt Nam có thể tìm thấy trên trang này những phân tích kinh tế có chất lượng cao dưới ngòi bút của Trần Hữu Dũng cũng như của cây bút xuất sắc Vũ Quang Việt, bên cạnh đó là những bài viết có tính chính trị hơn hoặc hướng vào thời sự trong nước và quốc tế kèm theo những tài liệu tham khảo được dịch sang tiếng Việt từ những ấn phẩm tiếng Anh và tiếng Pháp.

Chỉ với một cái nhấp chuột, dân mạng đã có thể có ngay những tạp chí và sách chưa được biết tới hay bị cấm ở Việt Nam, ví dụ như tập hồi ký của luật sư bất đồng chính kiến Nguyễn Mạnh Tường; nhấp thêm một cái nữa, họ có thể vào được hồ sơ đầy đủ của những trí thức hàng đầu Việt Nam như triết gia Trần Đức Thảo, học tại Đại học sư phạm Paris, tốt nghiệp thạc sĩ triết học năm 1944, chuyên gia hàng đầu về Husserl và tác giả công trình nghiên cứu nổi tiếng về hiện tượng học. Con người này, dù đã tham gia chiến khu Việt Minh từ năm 1951, về sau vẫn bị gạt bỏ, đến mức phải xuống làm sếp một ga nhỏ ở tỉnh, chỉ bởi vì ông có đầu óc phê phán không chịu chấp nhận những khẩu hiệu chính trị thời bấy giờ. Con người vĩ đại này ít được giới trẻ Việt Nam biết đến: nếu họ qua các blog và trang mạng mà biết hơn tí chút về ông thì là điều tốt. Điều này cũng đúng với tất cả những người lớn tuổi đang sống ở nước ngoài, những người đã được hưởng một nền đào tạo cổ điển, là những chuyên gia và là những người yêu nước, nhưng bị lịch sử nghiền nát, họ phải ra đi và tạo thành một đội ngũ song song với các cụ cẩn trọng còn ở lại trong nước.

Thế giới mạng về bản chất là mở, nên các blogger Việt Nam học được ở các bạn nước ngoài bao nhiêu thì cũng cấp nhiều thông tin cho họ bấy nhiêu. Ở khắp nơi trên đất nước, núp dưới những cái tên giả nhiều khi nghe rất bí ẩn, có hàng trăm ngàn người đang đẩy cánh cửa tham gia vào thế giới này. Số lượng và bí mật làm nên sức mạnh, chống lại những kẻ mạnh nhưng bị cô lập, ý tưởng này chính là khẩu hiệu của blog Osin: “Cái cây tìm sự cô đơn ở trên cao/Ngọn cỏ tìm sự đông đảo ở dưới đất”. Cũng chẳng sao nếu đôi khi cũng có những blog lộn xộn và những cuộc trao đổi lằng nhằng.

Diễn đàn X-café minh họa cho sự lộn xộn vui vẻ này: mọi người tha hồ trình bày, cảm thán, chê trách mà không ai biết được họ là ai, viết từ đâu, họ tin vào ai. Về toàn cục là bát nháo, phải biết chọn lựa, nhưng phải công nhận rằng nhờ có blog và các forum, người Việt trên toàn thế giới nói chuyện được với nhau. Đứng trên quan điểm nhà cầm quyền Hà Nội, đó là cái hay nhưng đồng thời cũng là cả một vấn đề.

Blog và Bloc (khối): kết nối bất đồng chính kiến

Những người bất đồng chính kiến quả thật đã tận dụng những phương tiện truyền thông này. Khởi đầu là năm 2006. Không muốn nói quá chi tiết, nhưng chúng ta hãy nhớ lại năm đó như có một cơn cuồng tự do đột nhiên xâm chiếm lấy giới lãnh đạo chóp bu; họ mở van cho khai thông ngôn luận, phản biện, làm cho đất nước được hưởng một luồng gió nhẹ tự do. Cả bộ máy của đảng, lúc đó đang chuẩn bị đại hội, cũng bị ảnh hưởng. Báo cáo truyền thống của Bộ Chính trị, bao giờ cũng được viết trước nhưng thường được giữ kín, nay được truyền tay trong giới trí thức và báo chí. Dần dà, một cuộc tranh luận nổ ra. Rất nhanh chóng, nó vượt khỏi những khuôn khổ cho phép và đi vào các blog và trang mạng, ở đây chủ đề tranh luận chuyển thành đa đảng, bầu cử đại biểu đại hội đảng, lựa chọn các ứng cử viên vào các bộ ngành, và không tránh né cả vấn đề tham nhũng nội bộ.

Khi đại hội khai mạc vào tháng 4, các đại biểu không tin nổi vào mắt mình. Họ đạt được việc cho phép đảng viên được “làm kinh tế tư nhân không giới hạn quy mô”, như bên Trung Quốc; họ có tiếng nói trong việc bầu khoảng ba chục trong số 160 vị trung ương ủy viên, mà trước đây việc bầu bán toàn là trò vờ vịt; và, một điều phi thường, họ được phép đánh dấu vào tên của vị trung ương ủy viên mà họ muốn bầu vào chức tổng bí thư. 

Cũng trên tinh thần ấy, danh sách 14 vị từ Ban chấp hành trung ương đảng được bầu vào Bộ chính trị được công bố không phải theo thứ tự chức vụ đảng như mọi khi mà, lần đầu tiên, theo số lượng phiếu bầu mỗi ứng viên nhận được.

Sự thay đổi không chỉ về mặt hình thức. Các vị ủy viên Ban chấp hành trung ương và Bộ chính trị được trẻ hóa, đổi mới, và có nhiều vị từ cán bộ hạng hai ở tỉnh lên. Tháng sau, tháng 5, chính phủ được cải tổ, khẳng định thêm rõ ràng đã có sự thay đổi quan trọng.

Bây giờ ta đã biết đó chỉ là một điều kiện trong quá trình đàm phán khó khăn để Việt Nam được gia nhập Tổ chức thương mại thế giới-WTO. Dưới sự quan sát liên tục và cảnh giác của nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, chính quyền buộc phải đưa ra các đảm bảo, trưng ra bộ mặt đẹp nhất, và trên thực tế phải giảm bớt sự kiểm soát chính trị và xã hội. Mọi việc cốt chỉ để đưa ra ấn tượng tốt nhất, và nhất là, để tránh cho các vấn đề nhân quyền và tự do ngôn luận khỏi nổi lên: tai nạn đã đến rõ nhanh. Cho nên chính quyền để yên cho mà làm, trong khi ký một loạt các hiệp ước, hiệp định xếp Việt Nam vào chuẩn mực của luật pháp quốc tế.

Rồi, sau khi đã vào được WTO tháng giêng năm 2007, người ta đậy lại vung nồi và mọi thứ trở lại như xưa, thậm chí còn tốt hơn vì những kẻ to đầu bây giờ đã được xác định.

Ngay tháng 3, đòn trấn áp giáng xuống đầu Bloc (khối) 8406, có tên như vậy vì bản “tuyên ngôn vì tự do chính trị” đầu tiên của khối, do 178 người bất đồng chính kiến ký tên, được công bố ngày 8/4/06. Hơn một tá thành viên của khối bị tống vào tù và xử vội vã, như luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân hay cha Nguyễn Văn Lý (người trước đó chịu án 14 năm tù và vừa bị kết án 8 năm bổ sung trong một phiên tòa giả tạo). Một hình ảnh trứ danh, chụp từ máy điện thoại di động, được truyền đi trên Internet và được lên trang bìa của một tác phẩm khoa học xã hội tại Australia: người ta thấy một cảnh sát mặc thường phục ngăn không cho cha Lý nói tại tòa bằng cách dùng tay bịt miệng cha. Vậy là sự kiểm duyệt không những được nối lại mà còn bị siết chặt hơn, để lấy lại thời gian đã mất.

Khác với thời điểm trước 2006, một số trí thức, nhà báo, nhà văn, luật sư, giáo sư đã thấy nghiện tranh luận. Họ không muốn dừng nữa. Tận dụng tình hình lúc đó, họ tổ chức lại thành một hệ thống chặt chẽ, thay vì chỉ dừng ở những hoạt động cá nhân đơn lẻ. Khối 8406 nhanh chóng nhận thêm những người trước đây là đảng viên Đảng dân chủ Việt Nam, đột nhiên sống dậy từ đống tro tàn, rồi thêm các linh mục và sư sãi trong một liên minh phức tạp. Khối được mở rộng, cho ra một tờ báo bí mật. Đặc biệt, các thành viên đều sử dụng tài nguyên công nghệ mới. Blog, nhắn tin trên Yahoo Messenger và MSN, các đường link dấu trên các trang mạng, hội thoại qua IP và Skype, đưa video lên Youtube trở thành các phương tiện để trao đổi ý kiến, kiến nghị, yêu sách mà vẫn qua mặt được công an.

Sự kết nối giữa Internet và giới bất đồng chính kiến làm thay đổi thế cờ. Cho đến thời điểm đó, mạng được mở rộng, tự do hơn Trung Quốc, với những lỗ hổng lớn, đơn giản là vì không ai để ý mấy và vì khách quan mà nói thì số trang web phản đối chính quyền còn ít, hoặc là quá khích đến mức tự làm mất uy tín của mình. Thư điện tử bị kiểm soát nhờ một phần mềm lọc password-tần số của việc giám sát tùy thuộc vào chỉ số nguy hiểm do công an thiết lập, chủ yếu là đối với người nước ngoài. Những tư tưởng hơi tự do một chút, hoặc phản đối chỉ trích, sớm bị nhận diện ngay, bản thân họ và gia đình họ bị “nhẹ nhàng” thúc bách để lại đi đúng đường. Phải nhắc lại là tất cả những điều này chỉ liên quan đến các cá nhân đơn lẻ.
Sau vụ “mở cửa giả hiệu” năm 2006 và sự xuất hiện của khối 8406, tình hình không còn như trước nữa. Từ nay, giới bất đồng chính kiến được tổ chức hẳn hoi, và lần đầu tiên có hẳn một chính cương mang đến một lựa chọn chính trị khác ngoài sự cai trị của đảng, và phe bất đồng chính kiến này phát triển đồng hành với sự phát triển của các phương tiện trên Internet. Món cocktail trở nên dễ nổ, vì thời gian này đúng là lúc các blog trong giới trẻ đang nở rộ, vì những lý do chẳng liên quan gì tới chính trị. Chỉ đơn giản là đã đến lúc. Khổ nỗi là lúc này không hợp, Internet đã bị nghi ngờ đến nỗi trong các bộ cũng có bộ phận theo dõi. Nhưng khác với thư điện tử, blog rất khó nắm bắt. Tất nhiên là có thể biết tác giả ở đâu, khó nhưng vẫn làm được, nhưng không thể biết độc giả là ai, ở đâu, nhất là khi những người này rất khoái chí khi lướt mạng theo cách vô danh, chẳng thể nào xác định được.
Luồng thông tin cứ thế mà đi ra, đi vô, lặp lại, bật lên, gây tiếng vang, rẽ ra các nhánh nhờ vào các đường link, chuyển ra nước ngoài, phong phú thêm với các bình luận và lời nhắn, cho phép người Việt ở trong nước không chỉ đọc, mà còn có thể viết và phát biểu. Blogger, độc giả và nước ngoài cùng phát ngôn, một cách tự do: còn gì nguy hiểm hơn? Nhất là khi việc phải đến đã đến rất nhanh: blog của các nhà bất đồng chính kiến ở nước ngoài có người vào đọc, và tệ hơn nữa, là lây nhiễm tư tưởng cho các blog trong nước, không rõ vì tin tưởng hay vì cắt/dán dễ quá mà cũng chia sẻ những chỉ trích của họ, ít ra là những chỉ trích dễ chấp nhận nhất.
Người ta bắt đầu đọc những lời phản loạn liên quan tới đời sống hàng ngày của người dân, ví dụ như chuyện giải tỏa đất đai hay chuyện đút lót trong giáo dục. Qua các thông điệp có thể đưa lên blog, thanh niên, sinh viên, con cái nông dân kể chuyện mình, chuyện bố mẹ mình và đối thoại với những người đang đi làm, giáo sư, công nhân, hưu trí, những người này trả lời lại họ và thế là thực sự có trao đổi bàn luận.
Phần III: Những phiên tòa bất công để sân khấu hóa bất công
Ngay giữa thời điểm công an đang siết lại vòng kiểm soát, xảo trá thay, chính trị lại đang thoát ra khỏi những kẻ vốn nắm độc quyền về lĩnh vực này. Bản chất họ không muốn dân can dự vào chính trị làm gì; trong bối cảnh này, họ sợ sẽ có thêm người gia nhập đội ngũ bất đồng chính kiến. Kinh nghiệm của Trung Quốc đã thuyết phục họ: bản kiến nghị tung lên mạng năm 2008 bởi nhóm tác giả bản tuyên ngôn 08 (tương đương khối 8406 của Việt Nam) đã thu được một vạn chữ ký trong 2 tháng từ mọi tầng lớp trong xã hội, cả ở Trung Quốc cũng như ở nước ngoài. Ở Việt Nam, từ 2008, chính quyền lồng lên: một mặt tiếp tục loại bỏ các lãnh tụ tư tưởng của nhóm 8406, mặt khác nhắm bắn cả hệ thống mạng Internet. Đến năm 2010 tình trạng này vẫn còn, với việc cố tình đánh đồng giữa những nhà bất đồng chính kiến viết blog và những người viết blog có thể trở thành bất đồng chính kiến.
Nhớ lại hồi tháng 10/2009, có 9 nhà bất đồng chính kiến bị kết án từ 2 đến 6 năm tù. Tháng 1/2010, Trần Anh Kim, cựu sĩ quan, bị tòa án tỉnh Thái Bình kết án 5 năm rưỡi tù giam kèm thêm 3 năm quản thúc. Cùng tháng đó, tại Hải Phòng, Nguyễn Xuân Nghĩa và 5 người khác bị tòa phúc thẩm giữ nguyên mức án từ 2 đến 6 năm tù. Tất cả đều bị kết án với các tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “đe dọa an ninh Nhà nước xã hội chủ nghĩa”, hay “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” (mức án cao nhất có thể là tử hình, theo điều 79 Bộ luật hình sự).
Phạm Thanh Nghiên, 37 tuổi, nhà văn, được tặng thưởng giải Human Rights Watch, thành viên nhóm 8406, ngày 29/1/2010 bị tòa án Hải Phòng kết án 4 năm tù, cộng thêm 3 năm quản thúc, vì tội “tuyên truyền chống Nhà nước, câu kết với các phần tử phản động, và phát tán truyền đơn vu khống trên Internet”. Là một phần tử đối lập đã bị tố cáo lên chính quyền, cô bị quấy rối ngay từ tháng 9/2008 (từ đó đến giờ, sau khi đã bị một số tay chân của công an hành hạ, cô bị tống giam vì có ý định tổ chức tại Thanh Hóa một cuộc biểu tình ủng hộ gia đình những ngư dân Việt Nam đã bị hải quân Trung Quốc bắn hạ).
Một tuần sau khi Nghiêm bị kết án, ngày 5/2/2010, đến lượt Trần Khải Thanh Thủy ra trước vành móng ngựa. Nhà văn, 49 tuổi, cũng được giải của Human Rights Watch, thành viên danh dự của Pen Club, thỉnh thoảng viết blog, bà đã từng bị tù 9 tháng năm 2009 vì ủng hộ nông dân mất đất. Lần này bà bị xử 3 năm rưỡi tù, chồng bị 2 năm, và bị quản thúc. Trường hợp của cặp vợ chồng này rất có ý nghĩa. Thanh Thủy bị bắt ngày 8/10/2009, khi đang định đi Hải Phòng ủng hộ một số nhà hoạt động sau này cũng bị kết án nốt. Tối hôm đó, công an cho du côn đến nhà vợ chồng chị ở phố Khâm Thiên, Hà Nội và đánh đập họ không ghê tay; họ đi bệnh viện và bị công an chính quy bắt ngay ở đó. Ngay ngày hôm sau, một chiến dịch tuyên truyền trên báo chí được dựng lên chống lại họ. Báo chí theo lệnh trên kết tội họ đã đánh đập hai người qua đường ở chợ Khâm Thiên, khi hai người này trách người chồng dựng xe không đúng chỗ; sau một hồi cãi nhau, Thanh Thủy vì muốn giúp chồng đã ném hai viên gạch vào mặt một công dân lương thiện và dùng một tấm ván đánh người kia.

Báo chí đăng ảnh người bị thương ; không may các bloggers lại thạo tin học nên chỉ ra ngay được chỗ nào là ảnh ghép. Có sao đâu : cặp vợ chồng này bị khép tội phá hoại trật tự công cộng (chẳng liên quan gì tới quan điểm chính trị của họ, tất nhiên) và bị kết án vào tháng 2, tức là 4 tháng sau đó.

Ngày 20/1/2010, tại thành phố Hồ Chí Minh diễn ra phiên xử 4 người bị công khai khép tội có âm mưu và tiến hành các hoạt động phản động. Họ bị kết án từ 5 đến 16 năm tù giam. Trong số các bị can có luật sư Lê Công Định, được đào tạo ở Mỹ về, chuyên gia về các hồ sơ dính dáng đến nhân quyền (nhưng cũng là người đã đứng ra bảo vệ cho quyền lợi kinh tế của Việt Nam trước Hoa Kỳ), cựu phó chủ tịch đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh, bị bắt từ tháng 6/2009, đến tháng 8 thì bị buộc phải đọc một bản công khai nhận tội thảm hại trước các máy quay truyền hình, sau đó thì bị kết tội “câu kết với những phần tử Việt kiều phản động và các thế lực thù địch sống lưu vong”: kết án 5 năm tù giam. Nguyễn Tiến Trung, sinh viên tin học đã từng học ở Rennes, Pháp, bị giam từ tháng 7/2009, lãnh án 7 năm tù. Lê Thăng Long, thuộc “nhóm nghiên cứu chấn hưng nước Việt”, lãnh án 5 năm. Còn Trần Huỳnh Duy Thức, đảng viên Đảng dân chủ Việt Nam, không chịu nhận tội trước toà nên phải chịu bóc lịch 16 năm.

Phiên xử những người bất đồng chính kiến này diễn ra nhanh chóng và được báo chí đưa tin rất có mức độ nhưng cũng đủ để thể hiện đúng bản chất của nó: một đòn cảnh cáo. Ngay ngày đầu tiên của phiên toà, đài truyền hình trung ương đã phát một trích đoạn chọn rất chuẩn lời khai của 2 trong số các bị can mặt mày căng thẳng đọc bài học của mình, thì thầm nói họ đã vi phạm luật pháp Việt Nam (bài học được phần lớn các báo trích lại khi đặt tít nhỏ “Họ công nhận đã phạm pháp”). Ngày hôm sau, đến phần cuối cùng của chương trình thời sự, đài truyền hình dành hẳn 6 phút cho đề tài này; phát thanh viên nhấn mạnh đến tính chất “đặc biệt nghiêm trọng” của tội phạm có mục đích lật đổ chính quyền. Khán giả được nghe lời khai của Lê Công Định và Nguyễn Tiến Trung, công nhận hoạt động cho Đảng dân chủ và Liên đoàn thanh niên dân chủ Việt Nam; đài đem tách riêng phần Lê Công Định nói có nhận được sự ủng hộ từ nước ngoài, sau đó phóng sự đến phần phỏng vấn một nữ luật sư ở thành phố Hồ Chí Minh, sau khi một đồng nghiệp ở Hà Nội đã phát biểu, cô này mặt mày nghiêm túc khẳng định rằng “quá trình xét xử đã diễn ra đúng luật và bản án là khách quan”. Cuối cùng, như ai cũng biết, là phần phỏng vấn nhanh một loạt người để chứng tỏ với khán giả rằng nhân dân đồng tình với phán quyết của tòa án…

Bốn trong số nhiều nạn nhân của những phiên tòa bất công
Giới quan sát viên ngoại quốc, vốn được xếp ngồi phòng kế bên phòng xử án, nơi diễn biến phiên tòa được truyền một phần qua màn ảnh nhỏ (tiếng tắt, hình đứt đoạn), được một phen cười gần chết trước trò nhại công lý này. Tất nhiên họ không nhầm. Tuy nhiên phải hiểu mục đích của phiên tòa bất công này chính là dàn dựng ra sự bất công: đây chính là một vở kịch được trình diễn; một sự chứng minh người thật việc thật để răn đe chớ có kẻ nào dại dột mà đi theo vết xe đổ của 4 bị can kia. Cuối cùng, phiên tòa theo kiểu Stalin này không chứng tỏ chính quyền đã rắn hơn, vì thực ra chính quyền luôn cư xử như vậy, mà cho thấy một sự bất mãn phổ biến trong xã hội, sự bất mãn ấy buộc chính quyền phải đe dọa nhân dân, đi xa hơn việc mọi khi vẫn làm là vô hiệu hóa những phần tử bất đồng chính kiến.

Khán giả cũng như độc giả chẳng ai tin các bị can có tội. Cứ hỏi thử xung quanh mà xem. Ngay ngày hôm sau trên blog của mình, Ba Sàm viết Lê Công Định đã không trình bày quan điểm của mình mà chỉ đọc bài đã được học, và để độc giả của blog thấy được vụ xử này đã gây căm phẫn trong dư luận quốc tế đến như thế nào, blogger này cấp luôn một loạt đường link đến các báo quốc tế. Trong lúc đó, một số người bạn Việt Nam tâm sự với chúng tôi rằng họ thấy tởm lợm trước trò diễn thảm hại này, vì “dù lên án việc gì đi chăng nữa, trò diễn này cũng kéo lùi lịch sử nước nhà đến 30 năm và càng làm xấu đi hình ảnh đất nước”. Tuy thế, hiện nay, việc bày tỏ ý kiến của nhân dân cũng không vượt qua mức độ tâm sự riêng; mà đấy là còn phải khuyến khích mãi: sự chán nản và e sợ làm mọi vận động như ngưng trệ.

“Trên Internet, các thế lực thù địch xúi giục bất ổn”

Không hiểu là tin thế thật hay giả vờ tin, chính quyền lại hâm nóng chuyện kẻ thù từ bên ngoài và âm mưu quốc tế. Chỉ thị số 34 Ban chấp hành TƯ Đảng, một văn kiện lạ lùng được ban hành từ tháng 12/2009, khẳng định: “các thế lực thù địch lợi dụng công nghệ mới, Internet và blog để in các tài liệu xấu, thông tin sai lạc, quan điểm sai trái, khuyến khích mọi người thu thập và trao đổi thông tin trên Internet, báo mạng để biến những vấn đề Việt Nam đang gặp phải thành những vấn đề thời sự, gây bất bình trong dân chúng và xúi giục bất ổn, làm loạn”. Trong một bài phát biểu, tháng 2/2010, Tổng bí thư Đảng trích dẫn nguyên văn một số đoạn trong chỉ thị này, chứng tỏ nó đã trở thành kinh thánh.

Quân đội cũng cùng lập trường với Đảng, như vẫn luôn như vậy. Trên báo quân đội, tướng Hoàng Minh Thảo viết: “thế lực thù địch”, trung thành với âm mưu thâm độc “diễn biến hòa bình” (nghĩa là gây bất ổn ở Việt Nam mà không cần chiến tranh), đang lén lút cuốn hút các “trí thức trẻ Việt Nam”, thậm chí mua chuộc họ, để họ phản đối chế độ và đòi đa đảng. Trước mối hiểm họa này, theo ông, phải cấp bách tăng cường giáo dục chủ nghĩa mác xít-lê nin nít và “lòng yêu nước chân chính”.

Thế lực thù địch, âm mưu từ bên ngoài, xúi giục thanh niên: mục tiêu được nhắm tới sau tất cả những từ cũ kỹ từ thời chiến này chính là Internet. Với bản chất quốc tế, vô danh, đặc biệt là khi truy cập từ các tiệm café, mạng Internet làm cho giới canh gác cổ hủ càng thêm tin rằng mối họa núp dưới vỏ bọc của sự hiện đại đến từ nước ngoài. Cho nên phải kiểm soát mạng, cũng như tất cả những thứ khác. Kỹ thuật cho phép làm điều chính trị yêu cầu. Thế nên mới có chuyện khó truy cập, tăng cường thêm phần lọc bằng cách sử dụng từ khoá và chặn một số trang và mạng (ví dụ như Facebook, bị khóa tháng 9/2009: đại sứ Mỹ phản đối, hai chúng tôi cũng vậy). Cũng giống như người Trung Quốc và với sự giúp đỡ ra mặt của họ, Việt Nam tỏ ra có hỏa lực cỡ tuần dương hạm khi tiến hành tấn công mạng. Cuộc tấn công lớn nhất, tháng 4/2010, nhằm vào Google. Họ cũng tiến đánh có trọng điểm, như vụ đánh mạng X-café đầu năm 2010; tháng 2, trang này không truy cập được từ Việt Nam, và từ Pháp, một ghi chép cho hay: “Trang này thường xuyên bị tấn công từ 19/1”. Sau khi đã gõ mã bảo vệ và vào được trang, các quản trị viên cho biết các cuộc tấn công xuất phát từ các máy chủ đặt ở Việt Nam và Trung Quốc.

Bây giờ chẳng ai lạ gì việc các tiệm café Internet ngày nay bị theo dõi chặt chẽ và người phụ trách các diễn đàn phải chịu vô vàn phiền toái. Một số thành viên quen thuộc của mạng X-café bị công an truy hỏi mấy ngày liền vì tội “nói xấu Đảng”. Một trong số họ, Phạm Hùng Vĩ, đã phản ứng ngay lập tức bằng cách tung lên mạng một bài viết lên án chuyện công an không ngừng can thiệp để anh bị đuổi việc (cũng giống như blogger Osin): “Hôm qua, ông chủ bảo tôi là công an cách đây 2 ngày đã đến gặp ông, để hỏi vì sao ông lại thuê tôi, và dọa nếu còn giữ tôi thì sẽ phải đóng cửa doanh nghiệp! Mối nguy này liên quan đến bài viết “Khủng hoảng và các giải pháp có thể cho Việt Nam” của tôi được đăng lại trên BBC. Đây không phải lần đầu người ta tìm cách dọa tôi bằng đủ mọi cách, nhưng lần này tôi quyết định không để yên nữa. Lần đầu tiên, năm 2006, họ bắt tôi trên đường mà không có lệnh bằng văn bản. Năm 2007, khi tôi định ra ứng cử kỳ bầu cử địa phương, công an đã tìm mọi cách để ngăn cản. Sau đó, dưới sức ép của họ, gia đình tôi buộc tôi quay lại làm việc ở Phú Yên, nơi trước đây tôi làm tiếp thị cho một nhà máy bia. Ngay cả ở đó, mọi tiếp xúc của tôi với khách hàng cũng đều bị theo dõi. Vì không muốn ảnh hưởng đến công ty, tôi xin thôi việc, mà tôi làm thế là đúng vì giám đốc nhà máy cho tôi biết công an đã hứa trả một khoản tiền hậu hĩnh để ông tố tôi tội biển thủ công quỹ. Thế nên tôi lên Hà Nội tìm việc. Ngay cả đến giờ, hễ cứ tìm được việc nào là công an lại can thiệp để tôi bị đuổi!”.

Bối cảnh hiện tại và tình hình đàn áp các bloggers và forum là thế. Tổ chức Phóng viên không biên giới trước đây xếp Việt Nam vào vị trí thứ 168/173 trong số các nước khảo sát về tự do báo chí lại vừa cho nước này vào trong nhóm 12 nước là “kẻ thù của Internet”. Về phần mình, Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ, New York) xếp nước này vào vị trí thứ 6/10 nước khó khăn nhất cho các bloggers. Đối với chính quyền, coi như canh bạc này thua chắc. Người dân càng thấy rõ hơn mình bị tước đoạt quyền được tự do và thông tin như thế nào. Phe bất đồng chính kiến xoa tay. Họ đã thành công, dịp Tết Nguyên đán 2010, trong việc cho dán lên tường và đè lên các áp phích tuyên truyền của Đảng, tại nhiều thành phố, một loạt truyền đơn trả thù kêu gọi dân chúng nổi dậy chống lại “bọn phản quốc, hại dân và bọn xâm lược Trung Quốc”. Theo như chúng tôi được biết thì đây là lần đầu tiên có chuyện này.

Bóng đen Trung Quốc, bùng nổ chủ nghĩa dân tộc

Cùng thời gian đó dấy lên một cuộc đàn áp đối với các bloggers trước đây chưa hề phải lo lắng gì. Điếu Cày bị bắt tháng 4/2008 thì đến tháng 12 bị kết án 2 năm rưỡi tù giam theo kiểu rất mafia về tội trốn thuế từ 10 năm nay. Vào tháng 9, khoảng 15 bloggers khác ít nổi tiếng hơn cũng bị bắt. Tháng 7/2009, khoảng 40 người ra trước vành móng ngựa vì tội “lạm dụng tự do dân chủ”. Khi dư luận đã chuẩn bị xong (một kỹ thuật địa phương) là đến lượt những bloggers có nhiều người đọc nhất.

“Người buôn gió” bị bắt ngày 27/8, hôm sau đến lượt “Trang the Ridiculous” (Phạm Đoan Trang), rồi “Mẹ Nấm” (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, 30 tuổi) ngày 2/9. Tất cả đều bị giam 1, 2 tuần, trong điều kiện nghe nói là cũng tử tế. Osin hình như chỉ bị báo mình cho thôi việc, vì dám nói quá tự do về bức tường Berlin, nhưng các thông tin liên quan đến người này còn nhiều mâu thuẫn. Trong khuôn khổ hạn hẹp của giới nhà báo và trí thức chỉ có thể biết được rằng đợt trấn áp này cực kỳ mạnh trong quý 1 năm 2010 đối với thế giới nhỏ bé của các bloggers Việt Nam và gia đình họ (lại một kỹ thuật địa phương nữa).

Người ta có thể tưởng rằng nguyên nhân của những vụ bắt bớ này là nỗi sợ đối với tranh luận chính trị, hay tự do ngôn luận với một đề tài nào đó, nhưng không hẳn như vậy. Một số người bất mãn khác, dù là bloggers, nhà báo hay trí thức tên tuổi, thỉnh thoảng vẫn có thể phát biểu về những chủ đề này một cách khá dễ dàng mà không bị đem ra xử chính thức. Nhiều blogs mạnh bạo vẫn tiếp tục hoạt động, các blogs của Osin, Trang the Ridiculous hay Người buôn gió lại mở cửa trở lại. Rút cục, người ta chỉ đánh động vài người, kiểm tra xem họ có nằm trong nhóm bất đồng chính kiến không, tống họ vào tù 10 ngày, và tất nhiên, nói đôi ba câu tử tế với gia đình họ. Chẳng qua chỉ là cảnh cáo. Cảnh cáo về cái gì? Và tại sao lại nhằm vào các bloggers này mà không phải những người khác? Trên thực tế, đó là vì họ đã dám chỉ trích Trung Quốc và chính sách hòa hoãn của Việt Nam với nước này.

Điểm chung của tất cả các bloggers đã bị xét xử này (những người khác “nản chí” không dám làm tiếp nữa) đúng là việc họ đã lên tiếng phản đối những tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc đối với biển Đông và về chuyện Hà Nội nhượng cho Trung Quốc các mỏ bô xít ở Tây Nguyên. Mấy vụ phiền hà của Trang the Ridiculous và Mẹ Nấm bắt đầu khi họ mặc áo phông in chữ “No China. The Spratleys and Paracels belong to Vietnam”, cùng lúc với cuộc biểu tình hơn một ngàn thanh niên trước cửa Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, tháng 12/2007. Phiền nhiễu lại tăng lên khi hai cô này tham gia phong trào phản đối rộng rãi chống công ty Chinalco của Trung Quốc khai thác mỏ bô xít và nhân đó xuất khẩu lao động tới Việt Nam.

Việc khai thác lộ thiên quặng bô xít để sản xuất nhôm gây rất nhiều ô nhiễm vì tạo ra loại bùn độc hại, tốn nước và tốn điện trong khi Việt Nam đang rất cần những tài nguyên này, và việc khai thác lại diễn ra trong một khu vực chiến lược và nhạy cảm, nơi có nhiều dân tộc ít người sinh sống, mà những người này đã từng nổi dậy trước việc mọi trật tự bị đảo lộn, một phần là do trồng café tràn lan, một phần là do Tin lành nhiệt tình lôi kéo. Việt Nam, nhà sản xuất bô xít thứ 3 trên thế giới, không có nổi 15 tỷ euros để tạo ra một nền công nghiệp chiết xuất quặng hiện đại: nên Trung Quốc đứng ra lo, cho dù Trung Quốc đã đóng cửa các nhà máy bô xít ở chính nước mình. Và dự án được triển khai mặc dù vấp phải sự phản đối của những người dân thường, các bloggers, những người chống Trung Quốc đủ loại (số này đông), và thậm chí cả tướng Giáp, người chiến thắng đầy uy tín tại Điện Biên Phủ, với 2 bức thư ngỏ gửi tới chính quyền. Cũng trong thời điểm này, một báo cáo của các chuyên gia Liên xô đánh giá làm bô xít ở đây không thuận lợi từ thời còn Hội đồng tương trợ kinh tế được nhắc lại. Các blogs và trang mạng dày đặc tin về chủ đề này, có hẳn một trang hoàn toàn dành cho bô xít.

Người ta hoàn toàn có thể chỉ trích việc đẩy nông dân ra đường và việc công chức tham nhũng, chế nhạo nhẹ nhàng các lãnh đạo, kêu ca nền giáo dục tệ hại, nhưng Trung Quốc là đề tài cấm kỵ. Về bản chất là cấm kỵ và đề tài này còn đưa ra điểm chung cho 3 nguồn bất mãn chủ yếu: bloggers, bất đồng chính kiến và đường phố. Nói cách khác, nếu chính quyền điên lên đến mức bỏ tù các bloggers và cho bên ngoài thấy hình ảnh tồi tệ của mình, làm hỏng cả những nỗ lực đã bỏ ra bao năm trời, thì đó là vì chính quyền sợ sẽ có một mặt trận chung chống Trung Quốc hình thành.

Tình cảm này trước đây có lợi vì nó ve vuốt bản sắc dân tộc. Nhưng bây giờ chính quyền cho rằng Việt Nam không được phép có sự xa xỉ ấy nữa: nước này phụ thuộc không những về mặt cơ cấu thương mại với Trung Quốc (60% số hàng nhập khẩu của Việt Nam là từ Trung Quốc), mà còn cả về tài chính (thậm chí cả tiền tệ). Người ta biết, dù không có bằng chứng chính thức, rằng Việt Nam đã bí mật sang xin tiền Trung Quốc để khỏi phải bỉ mặt công khai đi vay Quỹ tiền tệ quốc tế IMF. Nhưng tiền vay thì phải trả, nhất là vay bí mật. Cho nên với Trung Quốc đã có thỏa thuận, trao đổi, mặc cả. Ta thấy chính quyền Hà Nội làm mọi thứ để bịt miệng những kẻ phản đối chính sách bành trướng của Trung Quốc trên biển Trung Hoa (biển Đông theo tiếng Việt), thậm chí cả khi chính sách này làm hại đến mình (như chuyện liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa), và bịt miệng những người chỉ trích những điều kiện quá ưu đãi mà chính quyền dành cho các doanh nghiệp Trung Quốc.

Nếu phải phân biệt giữa bloggers và các nhà bất đồng chính kiến, thì cũng phải phân biệt giữa các blogs chỉ trích thông thường và các blogs động chạm đến quan hệ Việt-Trung. Loại thứ nhất bị quấy rối, thỉnh thoảng lại bị công an gọi lên (như các tác giả của blog boxite đã trở thành tiếng nói của giới trí thức Việt Nam) và, một cách ma mãnh hơn, là bị nhân bản bằng những blog cá nhân giả danh thực ra là do người của chính quyền nắm; loại thứ 2 bị thẳng tưng coi là mục tiêu trấn áp. Phân biệt rõ ràng. Tuy nhiên cần nói rõ: phản đối chính quyền yếu đuối trước Trung Quốc là một việc dũng cảm, nhưng điều đó không có nghĩa là cởi mở dân chủ. Chỉ cần đọc qua một số blogs là thấy chủ nhân của chúng đôi khi có những lập luận kiểu nước lớn, dân tộc cực đoan.

Ngại vết dầu loang

Đối với chính quyền, việc dân chỉ trích chính sách đối ngoại của họ là nguy hiểm, vì dân Việt vốn đã chẳng mấy ưa Trung Quốc. Vấn đề lãnh thổ cực kỳ nhạy cảm, còn hơn cả chuyện bô xít, vì nó biểu trưng cho việc Việt Nam lùi bước trên đường biển sau khi đã lùi bước trên đường bộ. Năm 1999, người Việt đã rất khó chịu khi mất 227 cây số vuông vào tay anh bạn láng giềng, đặc biệt là thác Bản Giốc và ải Nam Quan nổi tiếng, nơi trước đây hai bên sứ thần vẫn tiến hành trao đổi. Người Việt nổi giận, vào cuối năm 2007, khi được tin Hoàng Sa đã bị biến thành một đơn vị hành chính của Trung Quốc: thành phố Tam Sa (Sansha). Xung đột liên tục diễn ra đặc biệt là giữa dân chài hai nước, nhưng vẫn không ngăn được việc Hoàng Sa đã mất.

Và thế là dân chúng suy nghĩ và tự đặt câu hỏi. Chưa bao giờ chỉ trích xã hội lại đi xa đến thế. Tình cờ nói chuyện với bà chủ một quán café bình thường ở Vinh, chúng tôi ngạc nhiên thấy tự nhiên bà này hăng tiết rồi cao giọng nói dù chế độ Sài Gòn ngày xưa có là bù nhìn của Mỹ đi chăng nữa, những người lính của chế độ ấy vẫn chiến đấu kiên cường năm 1974 để lấy lại những hòn đảo đã bị chính quyền cộng sản ngoài Bắc để cho Trung Quốc chiếm giữ: “Hơn 100 người đã bỏ mạng, trong đó có nhiều sĩ quan, nhưng đảo đã lấy lại được. Ngày nay, những người còn sống sót sau chiến công anh hùng đó thậm chí còn không được coi là thương binh. Thật là thảm hại!”. Ở Việt Nam này, rất ít khi thấy ai ca ngợi chính quyền miền Nam, đặc biệt là ở miền Trung và miền Bắc, nên lời nói của người đàn bà này càng thêm sức nặng. Cuối cùng, bà kết luận: “ Hai anh tôi đã hy sinh trong cuộc chiến chống lại chính quyền miền Nam, tôi khổ tâm lắm, thế mà tôi buộc phải công nhận với các anh là kẻ thù ngày xưa còn bảo vệ lãnh thổ quốc gia tốt hơn chúng tôi bây giờ.”

Trong không khí căng thẳng ấy, cái gì cũng nổi lên hết. Từ biển đảo đến bô xít, người ta tiến tới lật lại hồ sơ chủ nghĩa Mao, cải cách ruộng đất, sự phản bội của Trung Quốc trong kháng chiến chống Mỹ; rồi chẳng chóng thì chầy người ta sẽ nhắc tới các mỏ apatit ở miền Bắc vốn cũng trong cùng tình trạng với các mỏ bô xít ở miền Trung. Rồi người ta lại tự hỏi sức nặng kinh tế thực sự của Trung Quốc là gì, bao nhiêu công ty Việt Nam đã bị mua chuộc, tại sao Trung Quốc lại được hưởng đối xử ngoại giao khác với các nước khác. Nhiều tin đồn điên rồ đang lan tràn về việc Trung Quốc có kế hoạch xâm chiếm Việt Nam, như một minh chứng rõ ràng cho nỗi bức xúc của nhân dân.

Cần phải hiểu rõ diễn biến tình hình từ năm 2008. Cho tới thời điểm đó, chính sách ngoại giao, cũng như chính sách nói chung, chỉ là việc của chính quyền. Dân chúng tự hài lòng với việc lơ đãng nhìn TV một tí khi bản tin thời sự hầu như chỉ là một chuỗi các hình ảnh chán ngắt về các chuyến thăm viếng chính thức, các đoàn ngoại giao và các vị khách mời nước ngoài uy tín. Dân chúng không những không tham gia vào chính sách mà nói cho đúng ra là không quan tâm. Và trong các trường hợp gai góc thì thông tin bị giấu nhẹm: thời đó chẳng ai biết gì về việc xử lý bí mật việc phân chia đường biên giới trên bộ. Cũng như chẳng biết gì việc Việt Nam bảo hộ chính trị với Lào và cái cách mà Việt Nam đã mất đi sự bảo hộ ấy. Từ bấy tới giờ mọi thứ đã thay đổi, công luận tham gia ngày càng tích cực và mạnh mẽ hơn vào các cuộc bàn luận về chính sách đối ngoại. Nguồn cơn của sự thay đổi ấy chính là vấn đề Trung Quốc đã động phải một sợi dây vô cùng nhạy cảm của lòng tự hào dân tộc. Hơn cả vấn đề tự do ngôn luận, chính những sự sỉ nhục liên tiếp này mới là lý do khiến các công dân không còn có thể mãi e dè nữa.

Việc ý thức dân tộc đang được thức tỉnh mạnh mẽ chính là mối nguy to lớn nhất đối với đảng cộng sản từ nhiều năm nay. Đảng bị tấn công dữ dội trên mặt trận dân tộc chủ nghĩa, vốn là thế mạnh của mình. Nếu như làm mất uy tín phe đối lập gồm có lèo tèo vài người bất đồng chính kiến và các tổ chức đến từ nước ngoài là dễ dàng, thì đối phó với sự tức giận của dân chúng trước việc thể diện quốc gia bị xúc phạm là không đơn giản chút nào. Đảng bị thua ngay trên sân nhà là chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Trong suốt bao nhiêu thập kỷ, Đảng đã xây dựng Việt Nam thành một huyền thoại, ca ngợi truyền thống kháng chiến chống ngoại xâm và tinh thần thượng võ của dân tộc. Thế mà giờ đây ai cũng bảo đảng chịu uốn mình chỉ vì vài lý do kinh tế tài chính tầm thường…

Trong bối cảnh ấy, khi Đảng chuẩn bị đại hội XI cũng là lúc người ta bắt đầu lo lắng. Đất nước mở cửa chính là dịp để chơi một trò ảo thuật chính trị, lén lút chuyển cái chính danh do đã chiến thắng về mặt quân sự thành cái chính danh do đã mang lại tăng trưởng kinh tế cho đất nước. Bản thân Đảng cũng đưa yếu tố chính trị xuống hàng thứ hai mà đặt cược tất cả vào phát triển kinh tế. Nguy cơ quả thật là lớn. Hóa đơn sẽ nặng. Nếu kinh tế khó khăn, uy tín Việt Nam giảm sút, như từ khi bắt đầu khủng hoảng năm 2008, thì không gì có thể thay thế được những lý lẽ hay ho thời xưa đã từng gắn chặt Đảng với lịch sử dân tộc. Đứng trên quan điểm của mình, chính quyền có lý khi lo ngại sự kết nối giữa nỗi bức xúc của những người dân thường, các bloggers và cả phe bất đồng chính kiến. Và thế là, một kết quả không lường trước của việc Trung Quốc lăng nhục Việt Nam là dân chúng lại bắt đầu làm chính trị, trong khi Đảng 10 năm nay không còn làm nữa.

Trang sử phi chính trị hóa quần chúng đã được lật qua.

No comments:

Post a Comment