Lê Minh Nguyên - Như chúng ta biết, nhân loại đã được chuyên chở bởi ba làn sóng vĩ đại để đi qua bốn thời đại. Làn sóng thứ nhất đã đưa con người từ Thời Đại Du Mục sang Thời Đại Nông Nghiệp.
Làn sóng thứ nhì đã đưa con người từ Thời Đại Nông Nghiệp sang Thời Đại Kỹ Nghệ, và làn sóng thứ ba đã và đang đưa con người từ Thời Đại Kỹ Nghệ sang Thời Đại Thông Tin. Để dễ hiểu hơn, nó đưa luồng lao động chính yếu hay sự làm việc để sinh tồn đi qua các ngưỡng cửa mới trong khi sự sản xuất của các thời đại cũ như nông nghiệp hay kỹ nghệ vẫn tiếp tục gia tăng nhưng không còn cần nhiều tới sức bật con người do việc cơ khí hóa hay robot hóa.
Nếu
chúng ta lấy 4.5 tỷ năm tuổi của quả địa cầu dồn nén lại để còn là một
năm thôi với 365 ngày của 12 tháng thì sự sống của những sinh vật dưới
biển bắt đầu từ tháng 5, sinh vật trên đất từ cuối tháng 11. Khủng long
xuất hiện vào giữa tháng 12 rồi biến mất 10 ngày sau, khi rặng núi Rocky
Mountains được mọc lên. Sinh vật có hình dáng người xuất hiện vào buổi
tối ngày 31 tháng 12. La Mã cai trị Tây Âu được 5 giây, từ 15 đến 10
giây trước nửa đêm và ông Columbus khám phá Mỹ Châu 3 giây trước nửa
đêm.
Điều này cho thấy con người có
cuộc sống rất ngắn ngủi và là tinh hoa của sự tiến hóa trên quả địa cầu.
Sự tiến hóa này phải vượt qua muôn vàn cam go và khổ sở để tiến từ một
tế bào nguyên thủy, được tạo ra ở biển cả bởi sấm sét và khí âm dương để
đi vào thời đại thông tin ngày nay. Yếu tố khoa học vật chất này được
phát triển song song với yếu tố tâm linh, hổ trợ cho nhau để phát huy sự
sinh tồn. Các nhà khoa học ngày nay đã chứng minh được rằng chính tôn
giáo giúp con người thăng tiến sự sinh tồn và bộ óc con người, phần ở
phía trước được dành cho lãnh vực tâm linh, nếu mất đi phần này con
người vẫn sống nhưng không còn khả năng phân biệt thiện ác.
Do
con người không thể thoát ra khỏi các định luật thiên nhiên của quả địa
cầu và của vũ trụ, nên phải tuân lệnh thiên nhiên để vận dụng thiên
nhiên, hầu tối đa hóa khả năng sinh tồn. Có lẽ một ngày nào đó của một
tương lai xa, khả năng sinh tồn này sẽ giúp cho con người được trường
tồn, dưới một hình thức nào đó khi chúng ta tiếp tục tiến hóa, như các
bộ phận già nua có thể thay thế được hay là vươn lên đến một trạng thái
tinh anh bất diệt, hay con người nhảy qua được các hành tinh khác trong
vũ trụ để sinh tồn khi quả đất dần dà trở thành một hành tinh chết.
Chủ
nghĩa Dân Tôc Sinh Tồn xây dựng những nguyên tắc căn bản của nó trên
con người thực sự, không hư ảo như con người tự do bình đẳng có tính bổn
thiện của chủ nghĩa dân chủ, hay con người duy vật chất của chủ nghĩa
cộng sản. Chủ nghĩa DTST dùng các phương pháp phân tích khoa học để tìm
hiểu con người với những mối tương quan cơ cấu khách quan trong vũ trụ.
Vì không thể thoát ra khỏi các định luật của thiên nhiên, chủ nghĩa
nghiên cứu các luật thiên nhiên để biết nó như thế nào, hầu nương theo
nó và vận dụng nó để phục vụ cho sự sinh tồn. Chủ nghĩa khảo sát vị trí
con người trong vũ trụ, bản chất con người, động cơ thúc đẩy con người
hoạt động, và các điều kiện hoạt động.
Con
người là một tổng thể thuần nhất gồm thể xác và tâm hồn trộn lẫn nhau
một cách chặc chẽ với sự tương quan mật thiết giữa những hoạt động tâm
lý và sinh lý. Chủ nghĩa đi từ bản năng gốc rễ của con người là bản năng
sinh tồn, nó là động lực tự nhiên thúc đẩy con người hoạt động mà trong
đó chính yếu là sự trộn lẫn và quấn quyện của ba bản năng phía dưới và
phía trong là: bản năng vị kỷ, bản năng tình dục và bản năng xã hội. Ba
bản năng này đi từ việc phục vụ sự sinh tồn của cá nhân, để từ đó sự
sinh tồn của chủng loại được phát huy và hình thành một sự kết hợp để có
sức mạnh bảo vệ sự sinh tồn của tập thể.
Ba
bản năng này luôn luôn tương tác để tạo ra mô hình thích hợp nhất cho
từng hoàn cảnh không gian và thời gian hầu phục vụ một bản năng duy nhất
là bản năng sinh tồn. Mục đích của sự hiện hữu của con người trên quả
địa cầu này là để sống, để sinh tồn, duy trì và phát huy sự sinh tồn. Do
đó, ta không ngạc nhiên khi sự sinh tồn của dân tộc bị đe dọa thì bản
năng vị kỷ, nghĩa là vì mình, lấy mình làm trung tâm cho mọi ứng xử, sẽ
trở thành vị tha và liều chết để bảo vệ, như Hội Nghị Diên Hồng đời nhà
Trần.
Bản năng vị kỷ luôn biến hóa
theo sự tương tác với môi trường bên ngoài, cùng hai bản năng tình dục
và xã hội bên trong. Nó giống như vòng điện quang bao phủ chung quanh
mỗi người. Vòng hào quang này sáng chói khi bản năng vị kỷ tiến lên vị
tha như những bậc chân tu, những vị lãnh đạo vì dân vì nước v.v… Nó sẽ
nhỏ nhoi hay mờ yếu nếu bản năng vị kỷ thụt lùi thành ích kỷ. Nếu nó tắt
lịm thì người quá ích kỷ thường đi tìm cái chết bằng sự tự tử như những
người nhảy lầu hay treo cổ khi thua chứng khoán hay bị mất đi khối tài
sản mà họ coi là không có gì quý hơn.
Muốn
sinh tồn con người phải tranh đấu. Để chiến thắng trong sự tranh đấu
thì phải có sức mạnh, phải biết biến cải để thích ứng và tạo ưu thế
trong môi trường tranh đấu, và phải biết hợp quần để làm nên sức mạnh áp
đảo của tập thể. Hợp quần trong phạm vi dân tộc là hình thức hợp quần
vừa phải nhất và hợp lý nhất mà lịch sử loài người chứng minh là đã thực
hiện được một cách tốt đẹp.
Từ các
bản năng sinh tồn này, dân tộc xây dựng nó lên thành các định chế chính
trị và xã hội, để vừa phát huy sự sinh tồn vừa điều tiết những bản năng,
để con người không trở thành thú dữ và xây dựng được nếp sống văn minh.
Thí dụ như từ bản năng tình dục con người xây dựng những định chế về
gia đình, từ bản năng vị kỷ con người xây dựng những định chế về quyền
tư hữu, về thuế khóa v.v.., từ bản năng xã hội con người xây dựng những
định chế về sự lập hội, về tôn giáo, về nghiệp đoàn, về chính đảng, về
xã hội công dân, xã hội dân sự. Chủ nghĩa cộng sản phủ nhận các bản năng
của con người, tiêu biểu nhất là bản năng vị kỷ, cho nên nó tước đoạt
quyền tư hữu, vẽ ra một xã hội không tưởng, một con đường đi không đến
của thiên đường mù và tạo sự đau khổ cho nhân loại mà chúng ta đã và
đang chứng kiến.
Dân tộc là sự quy tụ
của khối đông người một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử, dù cho
có cùng hay khác sắc tộc và huyết thống, có một ngôn ngữ chung được chấp
nhận, có nếp sinh hoạt văn hóa giống nhau và những phong tục tập quán
như nhau. Ngoài ra còn có các yếu tố tinh thần là lịch sử, với sự đồng
lao cộng khổ, cùng nhau trong quá khứ tranh đấu để sinh tồn, tạo nên
tình tự quê hương và dân tộc, giữ cho sự đoàn kết càng thêm bền chặt, và
quan trọng hơn hết là có cùng ước vọng cho một vận mệnh tương lai
chung.
Chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn có thể được tóm tắt với các câu thơ đơn giản sau đây:
Sinh Tồn nguồn gốc Bản Năng
Trong ba tiểu bản giảm tăng môi trường
Bản Năng Vị Kỹ đo lường
Bản Năng Tình Dục nối đường cháu con
Bản Năng Xã Hội sắc son
Dân ta Tranh Đấu giữ non nước nhà
Muốn thắng thì phải có ba
Sức Mạnh, Biến Cải, thiết tha Hợp Quần
Văn minh định chế không ngừng
Phát huy Dân Tộc thắm nhuần Bản Năng
Dân
tộc Việt Nam chúng ta là một dân tộc có tổ quốc, có căn cước rõ rệt
được các dân tộc khác trên thế giới công nhận. Nhìn về lịch sử nước ta,
dân tộc Việt Nam đã trãi qua một quá trình sinh tồn mãnh liệt, vươn lên
qua nhiều ngàn năm. Trong khi đó có nhiều dân tộc, hoặc đã đánh mất đi
căn cước của mình như người Mãn Châu ở Trung Quốc, người Hawaii ở Hoa
Kỳ, hoặc đã mất đi tổ quốc như người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, người da
đỏ ở Mỹ Châu, người Palestine ở Trung Đông hay người Do Thái trước năm
1948.
Dân tộc nào cũng muốn sinh tồn,
nhưng duy trì được sự sinh tồn và tiến lên để trở thành một dân tộc
mạnh của thế giới thì không phải dân tộc nào cũng làm được. Những dân
tộc mạnh trên thế giới ngày nay mà một số học giả còn gọi là các bộ lạc
hoàn cầu là dân tộc Do Thái, dân tộc Anh-Mỹ (Anglo-Sexon), dân tộc Nhựt,
dân tộc Trung Hoa, dân tộc Ấn Độ, dân tộc Lebanese v.v.., họ có những
đặc tính riêng để bảo tồn căn cước của dân tộc họ, và những đặc tính
chung của các điều kiện cần có, để vươn lên tranh đua cùng những dân tộc
khác.
Đặc tính riêng là cái gene DNA
của mỗi dân tộc để không bị đồng hóa như văn hóa, phong tục tập quán,
ngôn ngữ và lich sử chung, có cùng mơ ước về một vận mệnh tương lai
chung và hợp quần để cùng nhau thể hiện những mơ ước đó.
Đặc
tính chung là cái quan năng biến cải để thích ứng với môi trường của
thời đại và nơi chốn như khả năng tập hợp nơi các đô thị đa sắc màu
(cosmopolitan), khả năng nắm bắt các khoa học kỹ thuật, khả năng đầu tư
và kinh doanh thương nghiệp, khả năng tham gia chính trị chính dòng, khả
năng hợp quần để tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau.
Sự
sinh tồn của dân tộc Việt Nam là một sự sinh tồn vất vã và nhiều đau
thương trong quá khứ, có lẽ hầu hết chúng ta đã nghe qua bài hát của
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn «một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm đô hộ giặc
Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…» và ngày nay áng mây nô lệ mới
từ phương Bắc đang bay đến đất nước ta. Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy khi sinh
tiền nhận xét dân tộc Việt Nam là một dân tộc thông minh, dũng cảm
nhưng lại chịu quá nhiều bất hạnh. Ông đã mơ ước là giải phóng được dân
tộc thoát khỏi gông cùm cộng sản và nếu còn sống sót thì sẽ viết về
những ưu khuyết điểm của dân tộc ta, để các thế hệ mai sau học hỏi từ
kinh nghiệm của quá khứ mà đưa dân tộc tiến đến bến bờ vinh quang, qua
cơn bỉ cực và vĩnh viễn giải trừ sự bất hạnh bằng trí tuệ thông minh của
dân tộc.
Chính trong nỗi niềm đau
thương và bất hạnh này mà chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn đã ra đời, được
Đảng Trưởng Trương Tử Anh của Đại Việt Quốc Dân Đảng sáng tạo ra trong
thời tranh đấu với thực dân Pháp, và GS Nguyễn Ngọc Huy đã phát huy lên
trong thời chiến tranh quốc-cộng để chống lại chủ nghĩa cộng sản nhằm
tiêu diệt dân tộc, qua chủ trương vô tổ quốc và thế giới đại đồng. Hy
vọng rằng những tài năng trẻ sau này sẽ tiếp tục phát huy nó trong thời
đại thông tin (Information Age) của nhân loại ngày nay, để nó phục vụ
hữu hiệu cho dân tộc và tổ quốc Việt Nam.
Ông
Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ ràng tinh thần vô tổ quốc ấy qua bài thơ ông
so sánh sự nghiệp của ông với sự nghiệp của Đức Trần Hưng Đạo. Tiếc
thay, Đức Trần Hưng Đạo chiến đấu để bảo vệ sự độc lập và toàn vẹn lãnh
thổ của dân tộc Việt Nam, tách rời Việt Nam với Trung Quốc, còn ông Hồ
chiến đấu để mang Việt Nam sáp nhập lại vào Trung Quốc. Đã vậy mà ông Hồ
còn bảo Đức Trần Hưng Đạo cười một tiếng cho sự thành công phục vụ
ngoại bang của ông.
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dẫn năm châu đến đại đồng
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Rằng tôi cách mạng đã thành công
Dân
tộc Việt Nam ngày nay đã hội đủ một số điều kiện cần có để trở thành
một dân tộc mạnh, nhưng chưa có được các điều kiện đủ. Các điều kiện cần
mà ngày nay dân tộc của chúng ta có được là (1) sự hiện hữu của dân tộc
ta ở khắp nơi trên thế giới và phần lớn quy tụ ở những vùng đô thị đa
sắc màu, đa văn hóa, (2) dân tộc ta rất có khiếu và giỏi về khoa học kỹ
thuật, ở trong nước và nhất là ở hải ngoại với môi trường tự do, dễ phát
huy khả năng tưởng tượng, phát minh và sáng tạo, (3) dân tộc ta ngày
nay đã phát triển khá nhanh khả năng thương mại, mậu dịch, quản trị kinh
doanh, vượt qua tầm vóc tiểu thương gia đình và đang đi vào vĩ mô của
mậu dịch thế giới, (4) dân tộc ta ở hải ngoại đã và đang đi vào chính
dòng của những sinh hoạt chính trị của các nước sở tại, điều này đã tạo
sức mạnh lớn cho dân tộc Do Thái, (5) dân tộc ta chịu khó, cần cù, hiếu
học, đam mê kiến thức, trong khi thời đại ngày nay là thời đại thông
tin, thời đại của kiến thức mà nhân loại đang đi vào.
Tuy
nhiên, có những điều kiện đủ mà dân tộc ta chưa đạt được là (1) chế độ
chính trị độc tài độc đảng đang kìm hãm khả năng phát huy nội lực của
mỗi một người dân trong tổ quốc, chế độ này lo sợ kiến thức và tìm cách
kiểm soát, hạn chế kiến thức, lo sợ truyền thông tư nhân, Google,
Facebook, Twitter, các websites thông tin trung thực, các phản biện xây
dựng của những nhà trí thức của chính chế độ như Bauxite Việt Nam, IDS,
bloggers trong nước…, (2) khả năng hợp quần để gây sức mạnh, để giúp đỡ
nhau cùng đẩy dân tộc đi lên vẫn còn yếu kém, nhất là trong các túi dân
tộc (diaspora) ở nước ngoài như Nam California và nhiều nơi khác. Người
Trung Quốc có khá tốt khả năng này qua hình thức bang hội, người Anh-Mỹ
qua các định chế tài chánh và tổ chức hành chánh, người Nhựt qua tinh
thần võ sĩ đạo. Trong nước chế độ CS tìm cách triệt tiêu khả năng này
qua sự đàn áp, giam cầm, bắt bớ, cấm đoán…vì sợ nó đe dọa sự độc tôn của
chế độ, ở hải ngoại họ có Nghị Quyết 36 và ngân sách để thực hiện nghị
quyết này hầu làm tan rã khả năng hợp quần của dân tộc Việt, vì họ lo sợ
khả năng này của dân tộc mà họ còn gọi là “thế lực thù địch” sẽ đoàn
kết được người trong nước (3) dân tộc ta tuy yêu chuộng kiến thức nhưng
còn ít chịu phiêu lưu để tham gia mạnh vào lãnh vực chính trị hay kinh
doanh đầu tư, mà còn bảo thủ để chỉ làm chuyên viên, kỹ sư, bác sĩ, nhà
giáo, công chức…, không như dân tộc Do Thái hay dân tộc Trung Quốc, họ
xông pha vào chính trường và thương trường, nắm được nhiều quyền lực
chính trị và kinh tế của Hoa Kỳ và nhiều nơi khác.
Bà
cựu thủ tướng Anh, Margaret Thatcher, nói rằng một đất nước thịnh vượng
theo định nghĩa cũ là phải có ba yếu tố (1) đất rộng, (2) dân đông, và
(3) tài nguyên phong phú, ngày nay đã không còn đúng nữa vì Nga, Ấn Độ,
Ba Tây, Nam Dương… đều có đủ cả ba yếu tố đó và đều nghèo. Trong khi,
các quốc gia Âu Châu, Nhật, Đài Loan, Nam Hàn, Singapore… không có ba
yếu tố và đều giàu. Và theo bà, sự thịnh vượng nằm trong yếu tố con
người, tức là một dân tộc mạnh. Và muốn được vậy thì mỗi một người dân
trong dân tộc phải đều có năng lực. Muốn dân có năng lực thì chế độ phải
có tự do dân chủ để người dân phát huy được khả năng trí tuệ, khả năng
tưởng tượng, sáng tạo, phát minh, cải tiến, sản xuất. Nhìn ba nhạc sĩ
nổi tiếng của nước ta là Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn thì ta thấy
rõ điều này. Văn Cao ở lại Miền Bắc sống dước chế độ cộng sản nên sau
đó bị tịt ngòi. Pham Duy vào Nam và tiếp tục thăng hoa trong chế độ dân
chủ. Trịnh Công Sơn thì mất hẳn tinh hoa sau 1975 khi CS chiếm Miền Nam.
Những
công trình vĩ đại do con người tạo ra mà chúng ta thấy ngày hôm nay
trong thế giới đều là sản phẩm của trí tuệ. Chủ nghĩa DTST với bản năng
biến cải trong thời đại thông tin, chủ trương một sự giải phóng trí tuệ
của dân tộc VN. Nếu khoảng 90 triệu người VN ở trong và ngoài nước đều
có năng lực trí tuệ cao, dân tộc ta mới có cơ hội để trở thành một dân
tộc mạnh trong thế giới, tổ quốc ta mới mong giữ được sự độc lập và toàn
vẹn lãnh thổ, mới có khả năng bảo vệ Biển Đông. Chiến đấu trong tương
lai là bằng xe tăng, tàu lặn, máy bay không người lái, chiến tranh không
gian ảo (information warfare hay cyber war) và nhất là cân não. Dân tộc
VN không có năng lực trí tuệ thì làm sao chiến thắng được trong môi
trường chiến đấu như vậy và bảo vệ được sự sinh tồn?
Những
lý thuyết có nguồn gốc tôn giáo như lý thuyết thần quyền phản ảnh sự
bất lực của con người trước các hiện tượng thiên nhiên và dùng thần minh
để giải thích, xem thần minh là cứu cánh và cho rằng con người sinh ra
là để phụng sự thần minh, chính quyền là đại diện thần minh, đưa đến
chính quyền hầu hết là độc tài.
Lý
thuyết dân chủ tiến xa hơn, lấy con người làm cứu cánh, làm trung tâm
cho mọi hoạt động chính trị. Tuy nhiên con người trong lý thuyết này là
con người hư ảo vì John Lock và Jean Jacques Rousseau cho rằng ai sinh
ra tánh đều vốn tốt, có đầy đủ các quyền tự do, và hoàn toàn bình đẳng
với nhau. Đây là con người lý tưởng luôn luôn thăng bằng được giữa hai ý
niệm đối chọi nhau là tự do và bình đẳng. Trong thực tế lý thuyết này
cho ra các chế độ dân chủ thiên về ý niệm tự do, nên thiếu bình đẳng,
hay còn gọi là dân chủ tư sản của những tập đoàn kinh tế tài chính đầy
quyền lực.
Lý thuyết cộng sản nhìn
thế giới duy vật chất và bài bác phần tâm linh, cho nên đặt nền tảng
trên con người không luân lý hay con người vô tâm. Họ chủ trương đấu
tranh giai cấp để tiến đến một xã hội không giai cấp, một thế giới đại
đồng. Để tiến đến đó thì một nhóm người tự cho là ưu tú, biết đường đi,
tụ tập nhau làm đảng công sản, giữ lấy độc quyền chính trị và kinh tế để
dẫn dắt. Vì phủ nhận cái mà họ không biết (tâm linh) nên chủ nghĩa
thiếu tính khoa học. Chủ nghĩa dùng luật biến chứng để áp dụng vào vật
chất nhưng lại phản bội hai đặc tính của luật biện chứng là tinh cách
tương đối của chân lý và tính không cùng của luật biện chứng. Giai cấp
tranh đấu chỉ là một thể hiện của nhiều hình thức tranh đấu khác nhau
chứ không phải là sự tranh đấu duy nhất trong lịch sử loài người. Lý
thuyết CS nói hạ tầng kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc chính
trị, tức nền tảng kinh tế tạo ra thể chế chính trị, nhưng trên thực tế
họ đi ngược lại, dùng việc cướp chính quyền bằng bạo lực, tức dùng chính
trị để nhào nặn ra nền kinh tế tập trung chỉ huy. Thiên đàng địa giới
của thế giới đại đồng là một điều không tưởng và thực tế là họ tạo ra
một giai cấp mới, giai cấp thống trị của tư bản đỏ, trên danh nghĩa của
tranh đấu để xóa bỏ giai cấp.
Chủ
nghĩa Phát Xít là sự cực đoan hay quá độ của tinh thần quốc gia và Chủ
Nghĩa Siêu Tộc là sự cực đoan hay quá độ của tinh thần dân tộc. Lý
thuyết Phát Xít lấy quốc gia làm cứu cánh và bắt con người tuyệt đối hy
sinh cho quốc gia. Lý thuyết Siêu Tộc cho rằng siêu tộc lãnh đạo thế
giới và các chủng tộc khác phải phụng sự siêu tộc. Hai lý thuyết này chủ
trương độc tài chính trị và cho tự do kinh tế. Hai lý thuyết này thất
bại vì nó không phục vụ con người.
Chủ
nghĩa Tam Dân tìm cách hội nhập các ưu điểm của ba chủ nghĩa quốc gia,
dân chủ và xã hội mà trong đó (a) Dân Tộc để kêu gọi người dân Trung
Quốc ưu tiên đoàn kết trong phạm vi quốc gia, vượt lên phạm vi bang hội,
và không quá trớn như chủ trương đại đồng của CS, (b) Dân Quyền để phủ
nhận các chế độ độc tài, nhưng cũng giới hạn sự tự do và bình đẳng để
phục vụ quốc gia, và (c) Dân Sinh để phủ nhận chế độ tư bản và không tán
thành giai cấp tranh đấu, công nhận quyền tư hữu hạn chế. Chủ nghĩa này
gián tiếp phủ nhận sự tự do cá nhân, chứa nhiều lý luận mâu thuẩn nhau
và chưa có cơ hội thực hiện.
Ngày
nay, dân tộc Việt Nam đang đứng trước một sự hiểm nguy lớn lao bởi bá
quyền Trung Quốc ở bên ngoài và chủ nghĩa Mác-Lê phản dân tộc ở bên
trong. Nếu thế giới đại đồng, nếu bốn phương vô sản đều là anh em, nếu
Trung Quốc-Việt Nam núi liền núi, sông liền sông, đất nước chung nghe
tiếng gà gáy cùng thì làm sao mà giữ độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ với
TQ được?
Ông tiến sĩ Đổ Xuân Thọ,
một đảng viên của đảng CSVN ngày 13/4/2010 trả lời phỏng vấn đài BBC cho
biết ông đã gởi thư lên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, tha thiết yêu
cầu từ bỏ học thuyết Mác Lê và thay vào đó là chủ nghĩa dân tộc làm cơ
sở chính trị và tư tưởng cho Đảng và chế độ. Ông đã bị trù dập nặng nề,
bởi vì như ông Hồ đã nói là ông “dẫn năm châu đến đại đồng” và các đệ tử
của ông trong đảng CSVN đang thực hiện 16 chữ vàng, 4 tốt với Trung
Quốc.
Ngày nay TQ đang chuẩn bị dư
luận quần chúng của họ cho một kế hoạch đánh chiếm vùng biển đảo Trường
Sa, nếu họ không lấy được vùng này một cách êm dịu bằng sự lấn lướt.
Hiện nay có ba nơi mà TQ có thể gây chiến vì đã là những điểm nóng tranh
chấp lãnh thổ, đó là vùng biển Trường Sa, đảo quốc Đài Loan, vùng biên
giới Ấn-Hoa và tỉnh Arunachal Pradesh. Trong chế độ độc tài, nhất là một
nước lớn như Trung Quốc, khi nội bộ có vấn đề thì họ có nhu cầu cho một
cuộc chiến tranh bành trướng, đánh để lấy được một cái gì, thắng nhanh,
không sa lầy, không tốn kém nhiều, thỏa mãn được mặc cảm nhược quốc
trong thời thuộc địa, hướng dẫn dư luận quần chúng về hướng ái quốc để
giảm thiểu những xung đột nội bộ, gởi tín hiệu cho thế giới biết rằng TQ
ngày nay đã là một siêu cường. Các lãnh tụ của họ không thể hát giọng
thấp khi tranh chấp quyền lực, trừ khi muốn bị loại trừ như Triệu Tử
Dương.
Để thỏa mãn được những đòi hỏi
này thì vùng biển Trường Sa là đạt được tiêu chuẩn cao nhất cho chiến
tranh. Các chỉ dấu cho việc chuẩn bị này càng ngày càng biểu hiện rõ,
như tăng cường hải quân với ngân sách hơn 1/3 tổng số ngân sách quốc
phòng TQ, tuần tra vùng biển này thường hơn, cho ngư dân TQ nuôi cá ở
vùng biển này, xua đuổi những công ty ngoại quốc có ý hợp tác với VN để
thăm dò dầu khí, cắt cáp tàu thăm dò VN, bắt ngư dân, đâm tàu đánh cá và
tịch thu hay phá hủy ngư cụ, cho báo chi của họ thường xuyên loan tin
về chủ quyền biển đảo của họ ở vùng này, chỉ trích VN xâm phạm chủ quyền
và tuyên bố Biên Đông là “quyền lợi cốt lõi” của họ. Việc Hoa Kỳ muốn
can thiệp vào Biển Đông, bà ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố là
“quyền lợi quốc gia” đã làm cho TQ tức tối coi là kỳ đà cản mũi. Hành
động của HK tuy có lợi cho VN, nhưng chỉ là một điều kiện thuận lợi nhất
thời của môi trường bên ngoài, điều kiện đủ là chính dân tộc VN phải có
khả năng tự bảo vệ.
Với chủ nghĩa
Mác-Lê, cộng sản TQ xem CSVN là một bộ phận địa phương hay chi nhánh của
đảng CSTQ, báo chí TQ loan tải ông Hồ Chí Minh là đảng viên của đảng
CSTQ. Chủ nghĩa này rõ ràng bất lực trong việc bảo vệ chủ quyền đất nước
và bảo vệ sự sinh tồn của dân tộc. Muốn bảo vệ sự sinh tồn của dân tộc
và tổ quốc Việt Nam, lịch sử đã chứng minh rằng chỉ có huy động được sức
mạnh của toàn dân trong và ngoài nước thì mới mong chống được giặc
ngoại xâm.
Đây là lúc mà người dân VN
phải tìm cách vứt bỏ chủ nghĩa Mác Lê và nắm bắt lấy chủ nghĩa Dân Tôc
Sinh Tồn. Nếu không dựa vào chủ nghĩa dân tộc thì khó mà bảo vệ sự sinh
tồn lâu dài của dân tộc và tổ quốc VN. Trong nước, chỉ có sức mạnh của
toàn dân mới có đủ sức bảo vệ được chủ quyền ở Biển Đông dù cho vũ khí
có yếu kém hơn TQ, chỉ có toàn dân tham dự thì các sáng kiến về chiến
lược phòng chống như du kích biển mới có cơ hữu hiệu, mới huy động được
trí tuệ để phát minh được những vũ khí điều khiển từ xa. Ở hải ngoại,
chỉ có sức mạnh của dân tộc mới làm ồn ào được dư luận thế giới để chống
TQ, mới biểu tình ở các tòa đại sứ và lãnh sự của TQ, mới ảnh hưởng
được các chính quyền sở tại, mới tạo sự quan tâm can thiệp của các quốc
gia khác cho VN.
Các kỹ thuật của
truyền thông và vận chuyển đã làm cho quả đất nhỏ lại rất nhiều. Dân tộc
VN ngày hôm nay sống trong thời đại thông tin và sống khắp nơi trên thế
giới. Môi trường và hoàn cảnh đã thay đổi, quan năng biến cải của chủ
nghĩa cần được áp dụng để tối đa hóa hiệu năng của dân tộc cho sự sinh
tồn. Chúng ta có thể chiến đấu với TQ trên không gian ảo bằng thông tin
chiến, mở rất nhiều mặt trận và ở khắp năm châu, từ kinh tế như vận động
thế giới tẩy chay hàng hóa TQ, đến truyền thông, ngoại giao, chính trị
v.v… Chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn tạo cơ sở cho sự huy động sức mạnh toàn
dân trong và ngoài nước được tối đa và hiệu quả cho các công việc lớn
lao này.
Trong thời đại thông tin,
như nhà xã hội và tương lai học Alvin Toffler nhận xét, quyền lực đã
được chuyển đổi, sự cạnh tranh trong thế giới giữa những dân tộc sẽ mãnh
liệt hơn, thì sự sinh tồn của dân tộc đòi hỏi năng lực của mỗi một
người dân của dân tộc phải được phát huy tối đa và sự hợp quần phải có
tầm vóc thế giới. Mạnh yếu không hoàn toàn tùy thuộc ở việc đông người
mà tùy thuộc vào trí thông minh của dân tộc, điển hình là nước Anh trong
Thời Đại Kỹ Nghệ. Có như thế thì châu chấu mới có khả năng đá xe, dân
tộc Do Thái mới chống lại được khối Á Rập, dân tộc Việt Nam mới chống
lại được sự bành trướng của Trung Quốc.
Lý thuyết để dẫn dắt và tạo sự hùng mạnh cho dân tộc Việt Nam không phải là lý thuyết Cộng Sản mà là lý thuyết Dân Tộc Sinh Tồn.
© Lê Minh Nguyên
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment