Bất kỳ một quốc gia nào nếu như muốn
Tổ quốc không bị bất ngờ thì phải biết được nguy cơ thách thức an ninh
từ đâu đến? Lực lượng bao nhiêu? Đến bằng cách nào? Nhằm vào đâu? Và
chuẩn bị để đón nó ra sao. Việt Nam cũng vậy thôi.
Khi một láng giềng vốn hùng mạnh lại tăng cường lực lượng quân sự vượt khỏi giới hạn phòng thủ, không minh bạch, kèm theo thái độ nước lớn nghênh ngang, đe dọa dùng vũ lực; hành động ngang ngược, chèn ép bắt nạt… thì đó là vận hội hòa bình hay là nguy cơ chiến tranh? Dù không muốn thì Việt Nam cũng bắt buộc phải có ứng xử và hành xử với nguy cơ này. Bài phân tích và nhận định của Lê Ngọc Thống – nguyên sỹ quan Hải quân Việt Nam.
Khi một láng giềng vốn hùng mạnh lại tăng cường lực lượng quân sự vượt khỏi giới hạn phòng thủ, không minh bạch, kèm theo thái độ nước lớn nghênh ngang, đe dọa dùng vũ lực; hành động ngang ngược, chèn ép bắt nạt… thì đó là vận hội hòa bình hay là nguy cơ chiến tranh? Dù không muốn thì Việt Nam cũng bắt buộc phải có ứng xử và hành xử với nguy cơ này. Bài phân tích và nhận định của Lê Ngọc Thống – nguyên sỹ quan Hải quân Việt Nam.
Đối tượng và khu vực tác chiến
Từ
xưa tới nay dân tộc Việt trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh. Lúc thì
phải thực hiện chiến tranh giải phóng Tổ quốc; lúc thì thực hiện chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc, tuy nhiên những cuộc chiến này chủ yếu xảy ra trên
Lãnh thổ. Vùng biển, vùng trời thời đó con người cả 2 phía chưa đủ khả
năng để nhận thức được vị trí, lợi ích của nó nên được bỏ qua. Ngày nay
tình thế đã khác, khi mà lãnh thổ đã “rành rành định sẵn ở sách Trời”
rồi thì Vùng biển và Hải đảo con người có đủ khả năng để làm chủ, khai
thác nó thì dù có được bảo vệ bằng Công ước LHQ về biển, Luật biển Quốc
tế năm 1982 thì nó vẫn trở thành mục tiêu quan tâm của những kẻ có dã
tâm bành trướng
Việt
Nam là một quốc gia có 3260km bờ biển với hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ trong
đó có 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa (bị Trung Quốc đánh chiếm năm 1974)
và Trường Sa. Theo Công ước của LHQ về biển và Luật biển năm 1982 thì
Việt Nam có chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển với diện tích khoảng 1
triệu km2. Như vậy biển, đảo của Việt Nam thực sự là “Trời
cho” và những kẻ có dã tâm bành trướng thì nhìn vô với ánh mắt thèm
muốn, chờ cơ hội là hành động. Vấn đề đặt ra trước tình hình hiện nay là
ta phải làm gì để “giữ lấy nó” như lời Bác Hồ dạy.
Quả
thật, “Bảo vệ vững chắc vùng biển và hải đảo thiêng liêng của Tổ quốc”
mà Quân đội nói chung và Hải quân Việt Nam nói riêng gánh vác nghe có vẻ
như là chức năng và nhiệm vụ thường xuyên muôn thuở của mình nhưng thực
tế hết sức mới mẻ. Bởi lẽ để thực hiện tốt nhiệm vụ, nếu khi có kẻ xâm
lược vùng biển và hải đảo thì quân QĐNDVN mà nòng cốt là HQNDVN phải
tiến hành chiến tranh trên biển, nghĩa là có rất nhiều trận hải chiến
sẽ xảy ra. Mà hải chiến thì Việt Nam quá ít kinh nghiệm. Từ xưa tới nay
dù chỉ là quy mô nhỏ, lịch sử ghi nhận có 5 trận hải chiến mà cha ông
thực hiện. Trận thứ nhất ở cửa biển Vân Đồn do ông tướng thủy quân được
gọi là giỏi nhất Đại Việt thời bấy giờ – Trần Khánh Dư chỉ huy. Sử sách
không ghi diễn biến cụ thể, chỉ biết là đối đầu với hơn 400 thuyền chiến
của Ô Mã Nhi, “hải quân bờ” của Trần Khánh Dư đại bại.
Trước khi tự
trói chịu tội ông tướng nhà Trần phát hiện lẽo đẽo đằng sau có một đoàn
thuyền lương của Trương Văn Hổ do không kịp theo đoàn thuyền chiến của Ô
Mã Nhi, vậy là gom góp “tàn quân” Trần Khánh Dư diệt gọn đoàn thuyền
này. So với trận trước thì đây chỉ là trận thắng danh dự nhưng hậu quả
thì vô cùng khủng khiếp với nhà Nguyên… Trận thứ hai là của hải quân của
Chúa Nguyễn tiêu diệt 2 tàu chiến của Hà Lan xâm phạm lãnh hải. Trận
thứ 3 là Hoàng Sa 1974 và 2 trận còn lại (mang hơi hướng của chiến tranh
hiện đại một chút) là của HQNDVN gồm 3 tàu phóng lôi đánh đuổi tàu
Maddox và trận ngày 19/4/1972 gồm 2 máy bay MIG21 hợp đồng tác chiến với
3 tàu phóng lôi đánh nhau với Hạm đội 7 Hải quân Mỹ gồm 01 tuần dương
hạm, 02 khu trục hạm và 01 hộ tống hạm tại vùng biển Quảng Bình. Lần
xung đột trên biển năm 1988 không tính vì HQNDVN lúc đó chỉ có tàu vận
tải, không có tàu chiến tham gia.
Liệt
kê ra những điều này để chúng ta biết rằng hải chiến chưa phải là sở
trường của ta (và càng không phải là sở trường của Trung Quốc, với Nhật
Bản thì họ đã, đang là cường quốc biển không ai có thể phủ nhận). Vì thế
xây dựng thế trận, cách đánh, vũ khí trang bị … phải tích hợp với nhau
và theo kiểu Việt Nam để giữ biển, giữ đảo đòi hỏi rất nhiều trí tuệ,
rất nhiều công sức tiền của, tâm huyết của QĐNDVN và dân tộc Việt Nam.
Tình
hình hiện nay Việt Nam khẳng định chắc chắn rằng nếu như có quốc gia
nào đó xâm phạm vùng biển và hải đảo của mình thì quốc gia đó không ai
khác ngoài Trung Quốc. Và đương nhiên đối tượng tác chiến của Việt Nam
trong sự nghiệp giữ biển đảo không phải là Mỹ, Nhật Bản hoặc Nga mà phải
là Trung Quốc.
Vậy giả sử
khi Trung Quốc không còn đe dọa sử dụng vũ lực như đã từng đe dọa nhiều
lần nữa mà dùng vũ lực thật thì mục tiêu họ cần đạt được là gì, không
gian, khu vực tác chiến xảy ra ở đâu? Chẳng quá khó khi trả lời câu hỏi
này. Rõ ràng đó là các sân bay bến cảng trên bờ; quần đảo Trường Sa và
khu vực dầu khí. Nhưng lực lượng nào sẽ tham gia? Trung Quốc sẽ bung
toàn lực hay chỉ sử dụng một hạm đội nào đó có tăng cường để gây chiến
với Việt Nam?
Lật lại
trang chiến tranh Việt Nam – Mỹ. Việt Nam thắng nhưng trên phương diện
là làm cho Mỹ không leo thang chiến tranh; làm cho Mỹ phải rút quân về
nước; làm cho chế độ mà Mỹ dựng lên sụp đổ để Việt Nam thống nhất. Thời
điểm đó Mỹ có khả năng thực hiện một lúc 2 cuộc chiến tranh rưỡi và còn
cả khối NATO nhưng Mỹ không thể tập trung toàn
bộ lực lượng dù chỉ 1/4 sức mạnh bởi lợi ích ở Việt Nam của Mỹ không là
gì so với lợi ích toàn cầu của Mỹ. Mỹ thất bại tại Việt Nam là sự thật,
là do không hiểu Việt Nam nhưng cho rằng Mỹ yếu kém, hèn nhát, nhu
nhược, thì chẳng khác nào “nghé không sợ cọp”. (Giá như hồi đó Việt Nam
đối xử với Mỹ như Lê Lợi –Nguyễn Trãi đối xử với nhà Minh; như Nguyễn
Huệ đối xử với nhà Thanh thì lịch sử ít nhất cũng không lùi lại 20 năm.
Nhưng lịch sử thì không có “giá như”, đúng không?)
Trung Quốc thì khác Mỹ. Nếu như Mỹ không thể thì Trung Quốc là không dám
đem hết toàn bộ lực lượng để “dạy cho Việt Nam một bài học” như họ từng
nói. Bởi thứ nhất là: Ngay như Việt Nam năm 1975 mặc dù phải tung hết
lực lượng vào miền Nam nhưng Tướng Giáp vẫn kiên quyết để lại Sư 308 –
Sư đoàn thiện chiến nhất của Việt Nam lúc bấy giờ làm nhiệm vụ “Cận vệ”.
Dù đã có đủ cơ sở để khẳng định “có cho kẹo Mỹ cũng không can thiệp trở
lại Viêt Nam” nhưng Tướng Giáp và Bộ Chính trị Đảng CSVN vẫn dự kiến
tình huống xấu nhất xảy ra cho miền Bắc trước một thế lực khác ngay khi
chưa lộ mặt. Huống chi ngày nay Trung Quốc không có bạn, thời gian gần
đây lại đi gây thù chuốc oán thêm nên xung quanh chỉ có cựu thù, họ nhìn
Trung Quốc với con mắt cảnh giác, họ tăng cường tiềm lực quân sự để sẵn
sàng đối phó với Trung Quốc mà Trung Quốc lại đi “dốc hết túi cho một
canh bạc chưa đâu vào đâu” thì quả là mạo hiểm về chiến lược và ngu xuẩn
về chiến thuật. Điều thứ hai là tình hình chính trị xã hội Trung Quốc
rất bất ổn. Có lẽ đây là điều nguy hiểm nhất. Bởi không phải ai trong
giới cầm quyền Bắc Kinh cũng muốn đánh Việt Nam và nếu dùng hết toàn bộ
lực lượng hiện có tấn công (với giả thiết các nước láng giềng xung quanh
là bạn và không có nguy cơ nào thách thức đến an ninh quốc gia từ bên
ngoài) thì kết quả bắt buộc phải thắng nhưng thắng nhanh.
Không thắng coi như tự sát, nhưng thắng không nhanh cũng gây nên thảm
họa trong nước (nội bộ thì đấu đá hạ bệ nhau, bạo loạn, ly khai…) cũng
coi như tự sát (hình như cư dân mạng của Trung Quốc cũng sợ chuyện này
nên mới vạch ra kế hoạch nổi tiếng táo bạo 31 ngày thì phải).
Giá
như giới quân sự Trung Quốc trả lời chắc chắn được câu hỏi có “thắng
nhanh” hay không? Nhưng rất tiếc, câu trả lời là của phía Việt Nam.
Vậy
là đã rõ, lực lượng mà HQNDVN phải đối mặt nếu như không nhầm thì là
Hạm đội Nam Hải được tăng cường lực lượng không quân và tên lửa đạn đạo.
Có thể nói lực lượng, trang bị vũ khí của Hạm đội này cũng áp đảo, vượt
trội so với Hải quân Việt Nam chứ không phải là chuyện đùa. Đây là Hạm
đội chủ lực mạnh nhất, hiện đại nhất của Trung Quốc và duy nhất trong 3
hạm đội của Trung Quốc được biên chế 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ. Điều
này cũng chứng tỏ nhiệm vụ và đối tượng tác chiến của Hạm đội Nam Hải là
ai rồi.
Một trang sử
mới với một hình thái chiến tranh mới – chiến tranh trên biển trong sự
nghiệp giữ gìn, bảo vệ Tổ quốc của chúng ta bắt đầu.
Nếu
Mỹ tấn công Việt Nam với mục đích đạt được như Trung Quốc, theo kịch
bản mà Mỹ từng sử dụng ở Irắc, Coxovo, Apganixtan thì Mỹ sẽ sử dụng đòn
tấn công tên lửa, pháo hạm từ tàu ngầm, tàu nổi, cùng với máy bay cường
kích tên lửa chiếm lĩnh bầu trời đồng loạt vào các vị trí sân bay, bến
cảng, các trạm radar của Việt Nam. Mỹ có thể làm chủ cuộc tấn công nếu
như Mỹ với hàng trăm máy bay trên tàu sân bay làm chủ được vùng trời.
Đây cũng là ưu thế quyết định nhất của các trận hải chiến. Bởi vì lực
lượng không quân hải quân là lực lượng nguy hiểm nhất để áp chế, khống
chế hoặc tiêu diệt nhanh nhất lực lượng tàu nổi, lực lượng tên lửa bờ,
sân bay, bến cảng. Và tất nhiên kết quả phụ thuộc lớn về việc không quân
hải quân Việt Nam có giằng co được với đối phương trên vùng trời của
vùng biển xảy ra tác chiến hay không. Nếu giằng co được thì có cơ hội
phản công, nếu không thì chấp nhận trở về thời kỳ trước năm1975 thực
hiện chiến tranh du kích.
Nếu Trung Quốc tấn công Việt Nam cũng có kịch bản tương tự Mỹ thôi nhưng ưu thế quyết định nhất của các trận hải chiến
thì Việt Nam nắm giữ bởi lẽ không quân hải quân Trung Quốc chưa đủ cơ
để vươn ra đến khu vực xảy ra tác chiến. Trung Quốc lại không có khả
năng tấn công từ xa ngoài “tầm với” của đối phương như Mỹ, vì thế bắt
buộc họ phải tiếp cận gần hơn, mà gần hơn thì nằm trong tầm hỏa lực của
các lực lượng phòng thủ biển Việt Nam. Vì vậy dù lực lượng tàu ngầm, tàu
nổi, tên lửa hiện đại của Trung Quốc không kém Mỹ là bao nhưng do không
khống chế làm chủ vùng trời nên tạo điều kiện cho tàu ngầm, tàu mặt
nước, không quân hải quân Việt Nam “nhởn nhơ” tha hồ lựa chọn phương án
đáp trả. (Có lẽ bây giờ ta mới hiểu vì sao Trung Quốc lại có mơ ước khát
khao cháy bỏng là làm sao để có tàu sân bay đến thế. Họ đã có nó, tuy
nhiên chờ đến lúc được như Mỹ bây giờ là một khoảng thời gian dài).
Lối đánh và NMD Made in Vietnam
Ngày
nay, hoạt động tác chiến để giữ biển đảo của Việt Nam hiện nay xảy ra
trong một không gian rộng và sâu bao gồm trên không, trên biển, trong
lòng biển và dưới đáy biển. Tương ứng với nó là các lực lượng không quân
hải quân; tàu mặt nước; tàu ngầm; thủy lôi, mìn và lực lượng phòng thủ
bờ biển.
Hải chiến
ngày xưa thì các lực lượng này của hai bên thường tìm cách tiếp cận
nhau, gặp nhau là bắn nhau như vãi đạn. Hải chiến hiện đại ngày nay thì
khác, các lực lượng này hiếm khi đối mặt nhau mà chỉ tiêu diệt nhau khi khoảng cách còn rất xa. Vì thế kẻ nào nhìn xa hơn, vũ khí có tầm bắn xa hơn, độ chính xác cao hơn là kẻ đó thường
chiếm ưu thế (nói là thường vì trong trận hải chiến tháng 10/1973 giữa
hải quân Israel với Ai Cập và sau đó là Syria thì tàu tên lửa của hải
quân Ai Cập và Syria tầm bắn lớn hơn tàu tên lửa của Israel gấp 2,5 lần
nhưng do chiến thuật và gây nhiễu tốt nên khi tàu tên lửa của Ai Cập và
Syria tấn công ngoài tầm hỏa lực của tàu tên lửa Israel mà không trúng
mục tiêu thì lập tức tàu tên lửa Israel vận động tiếp cận đến đúng tầm
hỏa lực của mình phóng tên lửa diệt gọn). Tuy nhiên có một điều cần hiểu
là khoảng cách còn rất xa đó là xa bao nhiêu? Đây là vấn đề
tuyệt mật quân sự. Bạn có thể biết tàu này, máy bay kia trang bị vũ khí
này nọ nhưng bạn không thể biết tầm bắn có hiệu quả của nó là bao nhiêu km ngoài người làm chủ phương tiện đó ra. Vì
thế hải chiến, không chiến hiện đại vẫn phải có các hành động đợi cơ,
phục kích, hoặc vận động tiếp cận mục tiêu làm sao có lợi nhất để phát
huy hỏa lực của mình. Như vậy không có nghĩa những tàu chiến hiện
đại nhất được trang bị hỏa lực phòng, chống đầy mình là miễn bị tiêu
diệt, tấn công.
Từ
kinh nghiệm chiến tranh với Mỹ, như trong trận hải chiến ngày 19/4/1972
Lực lượng Hạm đội 7 Mỹ mạnh như vậy, bầu trời, vùng biển Việt Nam bị
khống chế, phong tỏa như thế mà hải quân và không quân Viêt Nam vẫn hợp
đồng tập kích làm cho 4 tàu chiến hiện đại bậc nhất lúc bấy giờ bị bất
ngờ, rối loạn, lúng túng đối phó và bị dính đòn đau. Vì thế, để chống
lại một lực lượng hải quân mạnh, hiện đại tầm cỡ như Trung Quốc, Mỹ thì
nguyên tắc sống còn trong tấn công đối phương là cơ động nhanh, bí mật,
tập kích bất ngờ với các đòn dồn dập, nhiều hướng, nhiều chiều, nhiều
phương tiện hỏa lực vào một mục tiêu làm cho đối phương lùng túng, rối
loạn dễ bị tiêu diệt hoặc bị thiệt hại nặng nề. Tình thế hôm nay Việt
Nam càng thuận lợi, dễ dàng hơn rất nhiều lần so với thời đánh Mỹ, do đó
nguyên tắc sống còn trong tấn công trên biển này càng phát huy uy lực.
Các tàu, xuồng phóng lôi, tên lửa loại nhỏ tốc độ cao Việt Nam đang đóng
hàng loạt có thể đợi cơ phục kích ở bất cứ nơi đâu trên cửa sông, luồng
lạch và gần 3.000 hòn đảo lớn nhỏ của bờ biển Việt Nam được sự hỗ trợ
của không quân, lực lượng trên đất liền tùy theo tình hình tác chiến sẽ
là một mối nguy hiểm cực lớn, tiềm tàng rất khó đối phó. Bất kỳ lực
lượng tuần dương hạm, khu trục hạm nào dù hiện đại đến đâu mà “mon men”
vào vùng biển và hải đảo của Việt Nam thì ngoài việc phải tập trung đối
phó tương xứng với các máy bay, tàu chiến hiện đại của Việt Nam còn bị
nguy cơ tiêu diệt rất cao bởi những con tàu “đặc nhiệm” này. Sự phối hợp
bộ 3 giữa tàu tên lửa, phóng lôi loại nhỏ tốc độ cao và tàu ngầm với
không quân phục kích hay tập kích có vẻ như trở thành loại hình tác
chiến cơ bản, sở trường của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Hải
chiến hiện đại với vũ khí công nghệ cao thì ngư lôi, tên lửa là hỏa lực
chủ yếu mà bên này dùng để tiêu diệt bên kia và ngược lại, trong đó tên
lửa là hỏa lực chính. Đến đây một bài toán hóc búa đặt ra là làm thế
nào để cho tên lửa, ngư lôi của ta phóng ra là trúng đích và làm gì để
vô hiệu hóa hoặc ít ra là hạn chế tên lửa, mgư lôi của đối phương?
Việt
Nam nghèo không có cơ sở vật chất kỹ thuật để bố trí hệ thống phòng thủ
tên lửa như Mỹ, điều đó không có nghĩa là chỉ biết trương mắt nhìn tên
lửa bay vào lãnh thổ mà chịu. Để đánh chặn các đòn tấn công bằng tên lửa
hành trình, đạn đạo, máy bay tàng hình tầm thấp của đối phương, Việt
Nam phải xây dựng, bố trí các tổ hợp phòng không nhiều tầng nhiều lớp
nghĩa là các vùng lưới lửa như thời chống Mỹ với các cỡ nòng từ 12ly7
trở lên ở những hướng mà tên lửa, máy bay có thể xuất hiện. Các vị trí
quan sát bằng kỹ thuật ở bờ biển, hải đảo sẽ thông báo cho tổ hợp phòng
không biết tên lửa bay theo hướng nào, độ cao bao nhiêu, thời gian bao
lâu để đồng loạt khai hỏa. Máy bay tuy tốc độ thấp nhưng đường bay không
cố định; tên lửa có tốc độ cao thì đường bay lại cố định. Thuận lợi và
khó khăn khi đánh chặn 2 loại này như nhau nhưng cũng lưới lửa này Việt
Nam đã từng tiêu diệt máy bay F111 cánh cụp cánh xòe tốc độ siêu thanh
thì ngày nay mọi điều đều có thể. Ngoài ra Việt Nam cũng phải học cách
rải nhiễu, gây nhiễu của B52 Mỹ trong chiến dịch Linebacker; tạo ra các
khu vực nhiễu loạn điện từ để tên lửa bay qua vùng đó thì mất điều khiển
tự nổ hoặc ít nhất cũng phải hạn chế tối đa độ chính xác của tên lửa
đến mục tiêu…
Như
vậy, căn cứ vào nội lực và động thái chuẩn bị của Việt Nam thì bất kỳ
một quốc gia nào trừ Mỹ mở một cuộc chiến tranh trên biển với Việt Nam,
chẳng hạn Trung Quốc đang coi Trường Sa của Việt Nam và 80% diện tích
Biển Đông là lợi ích cốt lõi thì điều đó (gây chiến tranh) có thể xảy ra
thì nên bây giờ hoặc không bao giờ. Nhưng với nhãn quan của mình tôi
cho rằng điều đó đã qua và ngay bây giờ cũng là quá khó. Không những
Việt Nam đã mạnh lên rất nhiều mà tình hình khu vực đã thay đổi chóng
mặt không có lợi cho Trung Quốc tý nào. Trung Quốc đã như hay bị coi như
Liên Xô trước kia? Liệu một cuộc chiến tranh lạnh có xảy ra nữa không?
Phản ứng của Trung Quốc nói lên điều gì? Chúng ta chờ xem.
L. N. T.
Nguồn: Viet-studies.info
No comments:
Post a Comment