TS.LS. Lưu Nguyễn Đạt - Ngay sau khi được công bố vào ngày 21 tháng 8 năm 2011, với chữ ký của 36 vị “trí thức” đang sinh sống tại hải ngoại, “Thư Ngỏ gửi Các Nhà Lãnh Đạo Việt Nam về Hiểm Hoạ Ngoại Bang và Sức Mạnh Dân Tộc”[1] đã khơi động một số phản ứng chống đối ồ ạt.
Lý do chính là đa số người Việt hải ngoại là những tỵ
nạn cộng sản, dù 36 năm đã qua, vẫn cảm thấy căn cước chung của họ bị
“vi phạm” bởi hành động bất tất của những người “đồng ký tên” trên. Lý
do phụ là sự công phẫn đôi khi có tính cách cá nhân, với những lời lẽ
mạt sát nặng nề, khi có dịp chỉ trích giới “trí thưc”.
Đôi khi sự phẫn
nộ còn có tính cách dây chuyền, căn cứ vào lời lẽ bất bình của người vừa
phẫn nộ.
Để có một khái niệm khách quan, sáng suốt và công bằng,
chúng ta hãy vịn vào chứng cứ cụ thể để đưa ra vài nhận định bên lề, đối
chiếu ngay với lá “Thư Ngỏ” trên.
MẶT NỔI THƯ NGỎ
Trước
hết, tài liệu đó không phải là một “kiến nghị”, với mục đích đề xuất
những ý kiến trọng đại lên cấp trên, hạ mình cầu khẩn, xin xỏ, khúm núm,
như một số điện thư và những bài tham luận đã ám chỉ hay minh thị chế
trách trên mạng. Trái lại tài liệu được xác định rõ rệt là một “Thư
ngỏ”, công khai, không có tính cách một thư mật, giấu giếm, đi đêm.
Những
thuật ngữ như “Kính gửi…Thưa quý vị…Trân trọng kính chào…” chỉ là cách
thức thảo bút xã giao, lịch thiệp, mà một người thư ký trung bình cũng
biết sử dụng. Những thuật ngữ này không hề ẩn ý một thái độ kính nể quá
đáng hoặc khúm núm bất xứng.
Mục đích công khai của lá “Thư ngỏ”
là để [a] “ủng hộ những ý kiến chính đáng của nhân sĩ, trí thức trong
nước” qua bản “Tuyên cáo” ngày 25 tháng 6, 2011 của 95 nhân sĩ, trí
thức, tố cáo và lên án nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục gây hấn, xâm
phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” và [b] để “hưởng ứng
bản “Kiến nghị” ngày 10 tháng 7, 2011 của 20 nhân sĩ, trí thức, kêu gọi
Quốc hội và Bộ Chính trị công khai hoá thực trạng quan hệ Việt-Trung,
nhấn mạnh vào nhu cầu đổi mới hệ thống chính trị, tôn trọng các quyền tự
do, dân chủ của nhân dân để có thể thực hiện thành công nhiệm vụ bảo vệ
và phát triển đất nước”.[2]
Như vậy, thiết nghĩ những mục đích
trên có tính cách chân chính, xác thực, xứng đáng với ý thức dấn thấn
khẩn trương của người trong cuộc, không vô cảm, không thờ ơ với vận mệnh
đất nước.
Thoạt tiên, phải thấy đó là những cảm nghĩ, tư duy và
quyết tâm của những người yêu nước, thương dân, dù đang bị cô lập, thất
thế trong nước, ruồng bỏ nơi hải ngoại, xứ khách quê người.
Và
cũng phải công nhận rằng, với những thời điểm nhiễu nhương, đổi đởi
trong và ngoài nước, khi không những đồng ký tên nơi Thư ngỏ “,[3] mà
còn đích danh tự nhận mình là “trí thức” thì quả thật quý vị này vừa can
đảm, vừa táo bạo. Cam đảm là dám trườn mặt đương đầu với những khó
khăn, thách thức, trong khi thái độ trùm chăn, nằm yên chờ thời, hay dè
dặt vô cảm có bề dễ dàng hơn và được coi là bình thường, khôn ngoan.
Táo bạo ở chỗ dám thú nhận gốc gác trí thức “bất sủng” với chế độ cộng
sản mà từ Mao Trạch Đông tới Hồ Chí Minh, thường bị đánh giá [về thực
dụng và chất phẩm] không bằng cục phân đồng quê, hay loại phân bón made in China, vừa giả mạo, vừa rẻ mạt, hoặc bị tiêu diệt tận rễ.[3B]
NỘI DUNG BẤT TÚC, THẤT CÁCH
Vậy
cai sai lầm, thất cách đầu tiên của Nhóm “Thư Ngỏ” là, tuy có thiện
chí, có khả năng trí tuệ, nhưng lại dấn thân không đúng cách, đối thoại
không đúng chỗ, đối diện không đúng người. Trong khi ai ai cũng đều
biết ngụy quyền cộng sản Việt Nam là con đẻ [hay con-ghẻ], cháu ngoan
[hay cháu-nợ] của bạo quyền Trung Cộng; trong khi người dân biểu tình
chống kẻ láng giềng tham lam, ác độc lại bị công an đảng phiệt CSVN tức
khắc giải tán, đánh đập, bỏ tù; trong khi rõ rệt từ Hồ Chí Minh, Phạm
Văn Đồng tới nhóm hậu sinh bất khả-kính, tiếp nối tiếm quyền, minh thị
bán nước, hợp doanh, làm ăn chia chác với kẻ thù dân tộc…thì Nhóm “Thư
Ngỏ” lại “trân trọng” dấn thân đầu tư vào thiện chí, thiện tâm của chính
lũ bán nước, phản dân, của băng đảng tội ác tày trời đó. Không khác
nào nhắm mắt đập đầu vào đá, hay tự đốt cháy như con thiêu thân khi dắt
díu nhau bước vào hẻm cụt của vấn nạn, mà người Tây phương gọi là
“impasse” hay “dead end”, có thể trắng trợn chuyển ngữ thành con
đường-chết hay tử đạo…
Thật vậy, cái “Thư Ngỏ” đó, nêu thực sự
chân chính, thì đương nhiên bị “thanh lọc”, loại bỏ tức khắc, rồi yên
ngủ nơi bùn lầy nước thải. Chỉ khi nào đó là loại tài liệu hiến kế a
tòng bán nước, hại dân, do mấy ngài “trí thức” dởm đề đạt thì may ra mới
lọt vào mắt đỏ, mắt xanh của quý ngài “lãnh đạo” đảng phiệt CSVN bất
chính [nghĩa] tại nước ta.[4] Vậy, cả dưới hai dạng — chính hay dởm —
“Thư Ngỏ” như vậy đều dẫn tới tử địa xã hội chủ nghĩa.
Cái sai lầm
bất túc thứ hai, cái sơ hở đáng trách của Nhóm “Thư Ngỏ” là quá tự tin,
tự hào, khi tự quyết đóng khung trong vị trí độc đạo, độc diễn — “Chúng
tôi, một số trí thức sinh sống tại nước ngoài” — đến nỗi mang tiếng bè
nhóm quyền lực trí não siêu đẳng [“đại-trí-thức”], tự coi vượt chúng,
độc nhất có ý kiến xây dựng,[5] có ưu thế dấn thân yêu nước hơn đám dân
đen trong nước, hơn đám tỵ nạn cộng sản, cưỡng đày nơi hải ngoại. [6]
Nhóm “Thư Ngỏ” đã quên rằng hay không muốn thấy, ngoài con đường thảo
công-văn-thơ-ngỏ, còn có rất nhiều cách xuống đường [“tới La-mã”] tới
Sài-gòn, tới Hà-nội, với đầy đủ tư cách và thực tâm yêu nước, thương
nòi, khi dõng dạc, kiên trì lên tiếng và hành động quy mô nhằm loại bỏ
một chính thể bất nhân, phản nước, hại dân như ngụy quyền CSVN còn sót
lại.
KHẢ NĂNG, TƯ CÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC
Trước
tiên, chúng ta hay định nghĩa rõ ràng thế nào là “trí thức”. Căn cứ
vào các từ điển cổ và thông dụng ngày nay, từ kép “trí thức” bao gồm một
số ý nghĩa chính đáng:
[a] tư cách, sinh hoạt liên hệ tới giới
chuyên làm việc “lao động trí óc”, có “tri thức chuyên môn” cần thiết
cho hoạt động nghề nghiệp giao phó;
[b] trí thức cần có “tri
thức”, khả năng hiểu biết nhờ học tập hoặc kinh nghiệm, có hệ thống về
sự việc, hiện tượng tự nhiên hay xã hội;
[c] tầng lớp trí thức, có giáo dục khoa bảng.
Căn
cứ vào cách định nghĩa theo khoản [a] và [b], người trí thức chỉ là các
nhân vật xã hội lạm lụng bằng trí óc và có khả năng hiểu biết chuyên
môn. Vậy họ là giới nhân viên văn phòng [white collar] song song với giới thợ thuyền làm việc tại cơ xưởng [blue collar].
Cao hơn, họ trở thành quản trị viên, giám đốc, giám thị, chuyên viên,
cán sự, kỹ sư v.v. Tóm tắt, người trí thức căn bản là những người có
khả năng làm việc bằng đầu óc, trí não [profession intellectuelle].
Nếu chỉ căn cứ vào khoản [b], trí thức cần có “tri thưc” [connaissance]
do học vấn và kinh nghiệm tạo thành. Vậy người trí thức trước tiên
phải là người hiểu biết rộng rãi, không ngu ngơ, biết tôn trọng sự thật
và lẽ phải.
Riêng khoản [c] định nghĩa người “trí thức” thuộc giai cấp hay thành phần xã hội có giáo dục khoa bảng [classe intellectuelle].
Thành phần này vừa có khả năng, vừa có trách nhiệm xã hội và chuyên
khoa. Họ thường là những nhà văn, tác giả, giáo chức, luật gia, bác sĩ,
chuyên viên khoa học, quản trị viên. Ứng dụng khả năng với trách
nhiệm, người trí thức phải có tài đức về mặt xã hội và chức nghiệp [professional ethics/social responsibilities].
Không thể chấp nhận loại trí thức, chuyên gia vô trách nhiệm, thiếu đức
độ chức nghiệp. Loại trí thức-phản-trí thức này sẽ bị xã hội chê trách,
ruồng bỏ, trừng phạp [đã xẩy ra nhiều vụ mất tư cách và đạo đức chuyên
nghiệp, điển hình trong giới giáo chức, bác sĩ, luật sư, quản trị viên,
v.v.].
Như vậy, hiện tượng “trí thức” không có gì xa lạ, biệt đãi,
đáng tránh né. Họ là chúng ta, người hàng xóm, anh chị em, con cháu,
họ hàng chúng ta. Họ trước sau chỉ là những con người đáng trọng, đáng
khen nếu thực sự có khả năng, có tư cách, có tài đức, có trách nhiệm.
Họ là những nhân lực luôn luộn phải tự tạo, tự xét, biết tự trọng. Nếu
khiếm khuyết những điều kiện cần và đủ trên, tốt hơn hết họ nên khước từ
tư cách và vai trò của người trí thức trong xã hội cẩn mẫn, nhân bản.
Tối
thiểu, người trí thức không thể sát nhập với lũ văn nô, nhân sĩ giả
mạo, xuất thân từ những lò in bằng giả, bằng dởm, bằng đại học rừng rú,
phế thải, mua bán như “đồ mã” nơi vỉa hè, xó xỉnh, hoặc thứ giấy bản loè
loẹt bịt mắt thế gian. Trong tương lai, một nhà nước chân chính tại
Việt Nam phải có thái độ gương mẫu và những biện pháp hữu hiệu gạt bỏ
tất cả những mảnh bằng giả mạo, lừa lọc đó, để trả lại chính danh chính
nghĩa cho những vị thầy khả kính, những học trò có kiến thức, thực tài,
xuất thân từ những giảng đường uy tín, được chứng nhận theo mẫu mực quốc
gia, quốc tế [accredited colleges & universities].[7]
Do
đó, chúng ta nên dung hoà quan niệm “trí thức” trên căn bản “tri thức”,
tài đức và trách nhiệm chức nghiệp. Như vậy, hiện tượng “trí thức” sẽ
trong sáng hơn, cần thiết hớn, chính đáng hơn, sau khi đã gạt bỏ mọi mặc
cảm tự tôn và tự ti, mọi thù hằn ngăn cách “giai cấp xã hội”; gạt bỏ
mọi đặc ân, đặc định giả tạo, tiếm quyền lố bịch; gạt bỏ hay giải toả
mọi hình thức ảo tưởng, mọi tung hô ma mãnh, bịp bợm.
TẠM KẾT ĐỐI DIỆN “THƯ NGỎ”
Trong
giai đoạn cứu nước và bảo tồn dân tộc Việt Nam, người trí thức đúng
nghĩa phải là hình ảnh chân thực và toàn diện của mọi công dân ý thức
khả năng và trách nhiệm xây dựng một nếp sống mới, có tự do, có dân chủ,
có phát triển nhân bản, trong thế hoà đồng, kết sinh, tiến bộ.
Người
trí thức là người cầm đuốc soi sáng, không những cho chính mình mà còn
cho tha nhân. Họ là nhũng mẫu mực tài đức sẵn sàng
“kết-sinh-chuyển-lực” tới đại chúng, khi toàn thể người dân cần minh
mẫn, đòi hỏi sinh tồn, tự do và quyền dân tự quyết.
Do đó, người
trí thức chân chính cần tạo dựng cho mình và tha nhân một môi trường
sinh sống cẩn mẫn, trung thực, rộng lượng, cho phép con người suy đoán,
chọn lựa cái hay, cái tốt; đồng thời tôn trọng khả năng suy nghĩ và hành
động khả chấp, tương xứng, thức thời của người khác.
Riêng đối với “36 vị trí thức đồng ký tên thư ngỏ”, người viết với tư cách đồng môn, đồng nghiệp, đồng thuyền, đồng cảnh — người trong cuộc – xin ân cần và trân trọng tiếp lời:
Nếu
Quý Vị thực sự yêu nước trọng dân, thực sự nhận trách nhiệm cao cả,
đáng trọng của người trí thức, của người Việt tử tế, hiểu biết rộng, tự
trọng và tôn trọng sự thật về hiện tình đất nước, về nguyện vọng và sứ
mạng chung của 90 triệu người dân trong nước,[8] của 3 triệu người dân
tại hải ngoại, thì Quý Vị ắt phải thấy rõ CSVN là nguồn gốc và động lực
của mọi tai ương hủy hoại tổ quốc, đầy đọa nhân dân. CSVN chuyển từ một
thực trạng tiếm quyền tới một tổ chức quốc tế khủng bố nhân loại, cướp
của, giết người, nay vỏn vẹn là một băng đảng mafia đợi ngày phá sản tập
thể.
Nếu so sánh về mắt khoa học đối chiếu, chắc Quý Vị cũng phải
thẩm định rằng hiện tượng cộng sản tại Trung Hoa và Việt Nam là những
biến chứng của một căn bệnh nan giải, một thứ ung thư đã di căn, vô
phương cứu chữa, vừa ngụy xã hội, vừa ngụy ý thức hệ, vừa vô nhân đạo
đến nỗi cả Karl Marx đã phải lên tiếng chối từ: “… Je ne suis pas Marxiste”, [9] để đổi lấy mạng sống.
Vậy
nếu Quý Vị thực sự không muốn “tái nhập” căn bệnh CS, ít nhất Quý Vị
đừng nên công nhận [9B], vun xới, góp sức kéo dài căn bệnh hiểm nghèo
đó. Nếu Quý Vị không nỡ ra tay cắt bỏ những bọc lở loét thân thể Việt
Nam, ít ra Quý Vị không nên để người khác lo ngại, có cảm tưởng Quý Vị
coi thường những cố gắng trị bệnh, ngăn bệnh của đa số người Việt tỵ nạn
cộng sản.
Và nhất là — tối thiểu — Quý Vị cũng không nên chỉ
trích những nạn nhân lịch sử, từng bị CS hành hạ, bỏ tù, hủy hại thân
xác, khủng bố tinh thân, bôi nhọ danh dự, tước đoạt tài sản và mạng sống
nhân bản… là “những phần tử chống cộng cực đoan…hạ cấp” [10], là những
kẻ “ngoại đạo”, sai đường, lạc lối.
Nếu có dịp thảo lại “Thơ
Ngỏ”, mong Quý Vị điền thêm vài chữ biểu hiện mức độ “danh chính ngôn
thuận” như sau: “Thơ Ngỏ Cảnh Cáo Các Nhà Lãnh Đạo Việt Nam”.
Còn
phần trân trọng, thiết tha, xin Quý Vị dành lại cho toàn dân. Họ mới là
đối tượng thực sự của các “Thư Ngỏ, Kiến Nghị, Tuyên Cáo”. Họ mới là
thành tố quyết định mọi cải tổ tốt đẹp, vững bền cho đất nước, cho chính
họ.[11]
Xin Quý Vị bảo trọng thanh danh chân chính của giới trí
thức Việt Nam bằng cách nuôi dưỡng chí khí phục thiện, thuần khiết, hoặc
ít ra cũng có thiện tâm, thiện cảm tôn trọng những người Việt Nam tử
tế, có liêm sỉ và nghị lực thực hiện nốt sứ mạng giải thể cộng sản, cứu
nước, trọng dân.
Chúng ta hãy cùng nhau thực hiện chí khí đanh thép bất diệt của Nguyễn Trãi, đúc kết trong áng văn bất hủ Bình Ngô Đại cáo – “Đem Đại Nghĩa Để Thắng Hung Tàn. Lấy Chí Nhân Để Thay Cường Bạo.” [12]
Trần trọng,
TS.LS. Lưu Nguyễn Đạt
CHÚ THÍCH
[1& 2] Nguyên bản ”Thư Ngỏ” đính hậu.
[3]
danh sách 36 người đồng ký tên gồm đa số là ở Mỹ: 22, còn lại thì ở rải
rác, Pháp: 7, Canada: 3, có nước chỉ mời được một vài người như Úc: 2,
Anh:1, Thụy Sĩ: 1 [Nguyên bản "Thư Ngỏ" đính hậu].
[3B] Chỉ Mao
tuyên bố câu nói “Trí thức không bằng cục phân” thôi! Còn Hồ phát động
Cải Cách Ruộng Đất bằng cách khích động lòng ganh tị nhỏ nhen, lòng hằn
thù giai cấp trong nhân dân với khẩu hiệu “TRÍ, phú, địa, hào đào tận
gốc trốc tận rễ”, rồi sau khi khóc nhận sai lầm thì ông đã dùng Nhân Văn
Giai Phẩm để tiêu diệt nốt số TRÍ THỨC còn sống sóT trong Cải Cách
Ruộng Đất. Có nghĩa là Hồ đã tiêu diệt tầng lớp TRÍ THỨC một cách tinh
vi, nham hiểm hơn Mao, Tần Thủy Hoàng…
[4] Lê Xuân Khoa,”Bàn thêm về “Thư Ngỏ” của 36 trí thức hải ngoại”, Hẹn Nhau Saigon 2015, September 12, 2011. Xin đọc thêm: Chu Tất Tiến, “THƯ NGỎ KÍNH GỬI GIÁO SƯ VŨ QUỐC THÚC”, Làng Báo, Ngày 10 tháng 9 năm 2011… “Nhung
trong linh vuc quôc tê , theo quy tac cung nhu lê thoi bang giao quôc
tê, ho vân là chinh quyên chinh thuc (gouvernement légal) cua nuoc Viêt
Nam và da duoc quôc tê thua nhân. Chung ta gui thu ngo cho ho ( thu ngo
không phai là kiên nghi hay don thinh câu ) vi hiên thoi chi co ho là co
kha nang thay dôi thê chê . Nhu vây là ” danh chinh ngôn thuân”
[5] Chúng tôi cũng không chủ trương kêu gọi lấy chữ ký của mọi người để tránh bị hiểu lầm là có ý đồ lãnh đao cộng đồng. [như trên-ibidem].
[6] Chu Tất Tiến, “THƯ NGỎ KÍNH GỬI GIÁO SƯ VŨ QUỐC THÚC”, Làng Báo, Ngày 10 tháng 9 năm 2011… “Chinh
vi nhân dinh nhu vây nên tôi không dê y toi nhung loi chi trich – dôi
khi rât ha câp – cua môt sô phân tu ” chông công cuc doan “.
[7] What is the role of the accrediting agency?
The goal of accreditation is to ensure that education provided by
institutions of higher education meets acceptable levels of quality.
Accrediting agencies, which are private educational associations of
regional or national scope, develop evaluation criteria and conduct peer
evaluations to assess whether or not those criteria are met.
Institutions and/or programs that request an agency’s evaluation and
that meet an agency’s criteria are then “accredited” by that agency. For
more information on accreditation in the United States, please visit: http://www.ed.gov/admins/finaid/accred/index.html.
[8] Việt Nam, 90,549,390 Tháng 7, 2011, CIA World Factbook ước tính
[9] “… Je ne suis pas Marxiste” – This exchange is the source of Marx’s remark, reported by Friedrich Engels: “ce qu’il y a de certain c’est que moi, je ne suis pas Marxiste” (“what is certain is that [if they are Marxists], [then] I myself am not a Marxist”).
[9B] Chu Tất Tiến, “THƯ NGỎ KÍNH GỬI GIÁO SƯ VŨ QUỐC THÚC”, Làng Báo, Ngày 10 tháng 9 năm 2011… “Nhung
trong linh vuc quôc tê , theo quy tac cung nhu lê thoi bang giao quôc
tê, ho vân là chinh quyên chinh thuc (gouvernement légal) cua nuoc Viêt
Nam và da duoc quôc tê thua nhân. Chung ta gui thu ngo cho ho ( thu ngo
không phai là kiên nghi hay don thinh câu ) vi hiên thoi chi co ho là co kha nang thay dôi thê chê . Nhu vây là ” danh chinh ngôn thuân”.
[10] Chu Tất Tiến, “THƯ NGỎ KÍNH GỬI GIÁO SƯ VŨ QUỐC THÚC”, Làng Báo, Ngày 10 tháng 9 năm 2011… “Chinh
vi nhân dinh nhu vây nên tôi không dê y toi nhung loi chi trich – dôi
khi rât ha câp – cua môt sô phân tu ” chông công cuc doan “.
[11] Chu Tất Tiến, “THƯ NGỎ KÍNH GỬI GIÁO SƯ VŨ QUỐC THÚC”, Làng Báo, Ngày 10 tháng 9 năm 2011… “Nhung trong linh vuc quôc tê , theo quy tac cung nhu lê thoi bang giao quôc tê, ho vân là chinh quyên chinh thuc (gouvernement légal) cua nuoc Viêt Nam và da duoc quôc tê thua nhân.
Chung ta gui thu ngo cho ho ( thu ngo
không phai là kiên nghi hay don thinh câu ) vi hiên thoi chi co ho là co kha nang thay dôi thê chê . Nhu vây là ” danh chinh ngôn thuân”.
[12] Bình Ngô đại cáo (1427)
là bài cáo của Nguyễn Trãi viết thay lời Bình Định vương Lê Lợi để
tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho
Đại Việt.
==============
THƯ NGỎ GỬI CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO VIỆT NAM VỀ HIỂM HOẠ NGOẠI BANG VÀ SỨC MẠNH DÂN TỘC
Kính gửi:
Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chủ tịch và Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Thủ tướng và Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tổng Bí thư và Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
Thưa quý vị,
Chúng
tôi, một số trí thức sinh sống tại nước ngoài, gửi đến quý vị lá thư
ngỏ này để phát biểu những suy nghĩ thẳng thắn và xây dựng trước tình
hình nghiêm trọng của Việt Nam hiện nay.
Trước hết, chúng tôi muốn
bày tỏ sự ủng hộ bản “Tuyên cáo” ngày 25 tháng 6, 2011 của 95 nhân sĩ,
trí thức, tố cáo và lên án nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục gây hấn,
xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Chúng tôi đồng
thời hưởng ứng bản “Kiến nghị” ngày 10 tháng 7, 2011 của 20 nhân sĩ, trí
thức, kêu gọi Quốc hội và Bộ Chính trị công khai hoá thực trạng quan hệ
Việt-Trung, nhấn mạnh vào nhu cầu đổi mới hệ thống chính trị, tôn trọng
các quyền tự do, dân chủ của nhân dân để có thể thực hiện thành công
nhiệm vụ bảo vệ và phát triển đất nước.
Cả hai bản Tuyên cáo và
Kiến nghị đại diện những tiếng nói can đảm, trung thực của giới trí thức
yêu nước mà chúng tôi có cơ hội tiếp xúc, trực tiếp hay gián tiếp,
trong nhiều năm qua. Dù xa quê hương đã lâu, dù còn mang quốc tịch Việt
Nam hay đã trở thành công dân nước ngoài, chúng tôi vẫn luôn quan tâm
đến các khó khăn và thuận lợi của đất nước. Do đó chúng tôi ủng hộ những
ý kiến chính đáng của nhân sĩ, trí thức trong nước và chỉ trình bày
ngắn gọn một số nhận định bổ túc sau đây.
Hiểm hoạ ngoại bang
Sau
chiến tranh biên giới cực Bắc năm 1979, nguồn tư liệu do Nhà nước bạch
hoá về quan hệ Việt-Trung cho thấy mối quan hệ giữa hai nước không tốt
đẹp như nhiều người lầm tưởng. Do hơn 30% dân số Việt Nam hiện sử dụng
internet, thông tin ngày nay không còn là độc quyền của riêng ai. Kết
hợp các nguồn tư liệu khác nhau cũng cho thấy rằng đối với Trung Quốc, “Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính” (“Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua”, nxb Sự thật, 1979, trang 8).
Quan
điểm trên được thể hiện rõ nét qua một chiến lược nhất quán của Trung
Quốc trong gần 60 năm nay tuy chiến thuật tùy lúc, tùy thời có khác
nhau: phản bội Việt Nam ở Hội nghị Geneva năm 1954, ngăn cản Việt Nam
thương lượng với Mỹ năm 1968, dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa
năm 1974, phát động chiến tranh biên giới năm 1979, dùng vũ lực đánh
chiếm một phần Trường Sa năm 1988; và sau khi quan hệ giữa hai nước đã
bình thường hoá năm 1991, từng bước lũng đoạn kinh tế, thu vét tài
nguyên, thực hiện mưu đồ đồng hoá, xâm phạm chủ quyền và đối xử tàn bạo
đối với ngư dân Việt Nam trên Biển Đông.
Sức mạnh dân tộc
Việt
Nam có lịch sử chống ngoại xâm, phần lớn là từ phương Bắc, trong nhiều
thế kỷ. Việt Nam cũng có nhiều tài nguyên thiên nhiên, với non 20 triệu
héc-ta rừng, và hơn 3.200km đường biển. Trong dân số gần 90 triệu, hơn 3
triệu người có trình độ đại học trở lên. Do biến chuyển thời cuộc, hiện
có hơn 3 triệu người gốc Việt sinh sống tại nước ngoài, trong đó có hơn
300.000 người có trình độ đại học trở lên và nhiều người là chuyên gia,
giáo sư ở những công ty, trường đại học hàng đầu của thế giới.
Vị thế chính quyền
Sau
hơn 35 năm lãnh đạo một đất nước thống nhất, các nhà cầm quyền chắc
biết rõ hơn ai hết toan tính thâm độc của Trung Quốc và tình thế nguy
nan của Việt Nam. Nhưng trong thời gian qua những chính sách và biện
pháp đối nội và đối ngoại được thực thi đã tỏ ra lúng túng và mâu thuẫn,
trái với sự mong đợi của toàn dân. Tình trạng này hiển nhiên làm suy
yếu sức mạnh dân tộc, đòi hỏi chính quyền cần phải có những thay đổi
toàn diện về cơ chế và chính sách mới có thể bảo vệ được chủ quyền và
phát triển đất nước.
Những việc cần làm
Khác
với các cuộc xâm lăng trong quá khứ, Trung Quốc trong thế kỷ XXI có
nhiều lý do cần thiết hơn và nhiều điều kiện thuận lợi hơn để “khuất
phục và thôn tính” Việt Nam mà không cần sử dụng vũ khí hay tổn thất
nhân mạng. Mặc dù yếu kém hơn Trung Quốc về kinh tế và quân sự, Việt Nam
có một lợi thế lớn chưa từng có trong lịch sử: không một nước tự do,
dân chủ nào muốn thấy một nước độc tài chuyên chế như Trung Quốc xâm
phạm quyền lợi hay quyền tự quyết của một nước khác, đe dọa tình trạng
ổn định trong khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, cũng sẽ không có quốc gia
hay liên minh nào có thể hỗ trợ Việt Nam nếu, trước hết, chính phủ Việt
Nam không chứng tỏ là có ý chí và khả năng bảo vệ dân tộc và đất nước
của mình.
Một lần nữa, chúng tôi khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ các ý
kiến chính đáng vừa qua của nhân sĩ, trí thức trong nước. Chúng tôi hi
vọng quý vị lãnh đạo tiếp thu đóng góp quan trọng ấy và sớm thiết lập
một lộ trình cải cách cụ thể để được nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Chúng
tôi đề nghị những điểm chính dưới đây cần được chú trọng khi quyết định
lộ trình:
1- Đối với Trung Quốc: Cần xác định
công khai và rõ ràng lập trường của Việt Nam đối với chủ quyền Hoàng
Sa-Trường Sa-Biển Đông: mọi tranh chấp phải được giải quyết dựa trên
luật pháp quốc tế và chứng cứ lịch sử. Cần xét lại toàn bộ quan hệ
Việt-Trung và chỉnh sửa những quyết định sai lầm trước đây khiến Việt
Nam mất cân bằng, lệ thuộc vào mối quan hệ này trên các lãnh vực khác
nhau. Cần nhấn mạnh truyền thống hiếu hòa của Việt Nam với nhân dân
Trung Quốc, đặc biệt là trí thức tiến bộ, để tranh thủ sự ủng hộ của họ
trong việc cùng tranh đấu cho công bằng và quan hệ bình đẳng giữa hai
nước.
2- Đối với ASEAN và các nước khác: Cần tiếp
tục củng cố và phát triển quan hệ hợp tác với thành viên ASEAN cũng như
những nước then chốt khác. Cần đồng thuận trong việc bác bỏ đòi hỏi
trên 80% chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc và trong lập trường đàm phán
đa phương với Trung Quốc về Trường Sa. Cần tranh thủ sự ủng hộ của
ASEAN và quốc tế cho một giải pháp về Hoàng Sa trên cơ sở luật pháp quốc
tế và chứng cứ lịch sử. Cần thúc đẩy sự đồng thuận của ASEAN trong việc
đổi tên Biển Đông thành Biển Đông Nam Á để góp phần vô hiệu hóa đòi hỏi
chủ quyền phi lý của Trung Quốc, và để tránh ngộ nhận về các tên gọi
khác nhau cho một vùng biển chung.
3. Đối với nhân dân trong nước:
Cần sửa đổi Hiến pháp để đẩy mạnh quá trình dân chủ hoá với ba cơ chế
hoàn toàn độc lập: Quốc hội và cơ chế đại diện ở cấp thấp hơn, cơ chế
toà án và cơ chế chính quyền. Cần thực hiện tự do bầu cử và ứng cử. Cần
tôn trọng các quyền tự do công dân quy định bởi Hiến pháp Việt Nam và
những công ước quốc tế mà Việt Nam cam kết tôn trọng, cụ thể như quyền
tự do biểu tình và tự do phát biểu nhằm phản đối hành động hung hãn của
Trung Quốc trên Biển Đông. Cần trả lại tự do cho những công dân bị giam
giữ vì tranh đấu ôn hòa cho tự do, dân chủ, cho chủ quyền quốc gia, để
đoàn kết toàn dân. Cần cải tổ hệ thống luật pháp, kinh tế, tài chính,
giáo dục, y tế, v.v. để đẩy lùi tham nhũng, giảm thiểu bất công, gia
tăng năng lực, bảo vệ tài nguyên. Cần tham khảo với những nhóm nghiên
cứu độc lập (như Viện Nghiên cứu Phát triển IDS đã phải tự giải thể năm
2009) trong quá trình hình thành các chính sách có tầm vóc quốc gia và
quốc tế.
4. Đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài:
Cần tạo bước đột phá để cải thiện sự hợp tác của cộng đồng vào công
cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Cần cho tái thiết Nghĩa trang Biên Hoà
vô điều kiện, giúp đỡ chương trình tìm kiếm hài cốt những người đã bỏ
mình trong trại tù cải tạo, không can thiệp vào việc xây dựng bia tưởng
niệm thuyền nhân ở các nước Đông Nam Á. Đây là bước cần thiết bắt đầu
một quá trình nghiêm túc thực hiện hoà giải và hoà hợp dân tộc.
Mặc
dù chính quyền kêu gọi trong nhiều năm, sự đóng góp về trí tuệ của cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài vẫn quá nhỏ bé: số chuyên gia, trí
thức hàng năm về nước “chuyển giao công nghệ” chỉ trong vòng 500 lượt
người trên con số hơn 300.000 trí thức.
Có hai nguyên nhân chính:
(1) cơ chế chính quyền hiện hữu không những đánh mất niềm tin của người
dân trong nước mà còn là cản trở lớn cho trí thức ở nước ngoài muốn đóng
góp vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” do chính Nhà nước đề ra; (2) sự nghi ngờ, thiếu tin tưởng vào
thiện chí của trí thức còn phổ biến trong một bộ phận không nhỏ của lãnh
đạo.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài còn có điều kiện
nghiên cứu và vận động tìm kiếm những giải pháp thuận lợi cho Việt Nam,
như tranh thủ sự ủng hộ của các chính phủ và dư luận quốc tế cho quan
điểm của Việt Nam. Thực tế là một số chuyên gia trong và ngoài nước từng
hợp tác với nhau trong các hoạt động theo chiều hướng này và công cuộc
vận động đã đạt được một số kết quả tích cực về vấn đề Biển Đông và sông
Mekong.
Trước chiến lược trước sau như một của Trung Quốc đối với
Việt Nam và trước tham vọng bành trướng, bá quyền ngày càng lộ rõ của
Trung Quốc, đất nước và nhân dân đòi hỏi quý vị phát huy sức mạnh dân
tộc, đoàn kết toàn dân trong và ngoài nước trong giai đoạn cực kỳ hiểm
nguy cho Việt Nam. Chúng tôi mong quý vị dũng cảm nắm lấy thời cơ duy
nhất để thực hiện một cuộc cách mạng dân chủ toàn diện, xây dựng một
chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân, nhằm đưa Việt Nam lên vị
thế xứng đáng với các nước trong khu vực và cộng đồng thế giới.
Trân trọng kính chào,
Ngày 21 tháng 8 năm 2011
Đồng ký tên:
http://www.vietthuc.org/2011/09/27/t%C6%B0-cach-va-vai-tro-tri-th%E1%BB%A9c-d%E1%BB%91i-di%E1%BB%87n-%E2%80%9Cth%C6%B0-ng%E1%BB%8F%E2%80%9D-g%E1%BB%ADi-cac-nha-lanh-d%E1%BA%A1o-vi%E1%BB%87t-nam/
Trước hết tôi xác định thân phận của tôi không là nhà trí thức, hay dân khoa bảng, chỉ là một thằng dân ngu khu đen bình thường như tất cả dân đen khác ở trong nước hay hải ngoại.
ReplyDeleteCá nhân tôi không quan trọng hóa, đặt vấn đề đó là "Thư ngỏ" hay "Kiến nghị" hoặc "Thỉnh nguyện thư" của 36 ông bà trí thức hải ngoại gửi "Thư ngỏ" cho bọn Việt gian cầm quyền csVN mà :
Tôi nghi ngờ khả nặng nhận thức, hiểu biết của những vị vỗ ngực xưng tên mình là trí thức này về bản chất cố hữu của bọn VGCS ra sao, vì nếu đã hiểu VC rồi thì :
1. 36 vị này có biết thân phận của lá "Thư ngỏ" gửi cho chúng ra sao không ? Chắc chắn vào sọt rác, đó là sự thật đã, đang và sẽ còn tiếp tục xảy ra trong tương lai từ đó 36 vị trí thức có biết mình đã làm cái chuyện múc nước đổ đầu vịt hay lá môn không ?
2. 36 vị trí thức ký tên có biết rằng trước quý vị đã có hằng hà vô số kể trí thức khác mà 66 năm qua đã làm rồi không ? Hay là quý vị xem chuyện gửi thư ngỏ như là 1 phong trào của thời đại này, kế đến có thể quý vị làm như vậy thì người ta mới biết đến mình chăng ? Tôi không nghĩ như vậy !
Sau cùng NẾU 36 ông bà trí thức gửi thư ngỏ cho bọn VGCS cho là việc làm mình đúng và chính đáng, sẽ có kết quả thì tại sao chỉ có vỏn vẹn 36 người ký tên mà không là 360 người, 3,600 người hoặc nhiều hơn, không lẽ giới trí thức ở hải ngoại chỉ có 36 người chừng ấy thôi sao ?. Tôi muốn nhắc chừng cho quý vị nhớ chủ trương của đảng CS (chủ thuyết Mác Lê) luôn xem thành phần trí thức là thành phần cần phải triệt tiêu vì chúng luôn quan niệm nếu ngu dân thì dễ trị, nếu có dùng chỉ lợi dụng có giai đoạn, xong chúng sẽ vứt bỏ như trái chanh đã vắt hết nước. Mao trạch Đông đã từng nói "Trí thức không bằng cục phân" ngẫm nghĩ lại cũng đúng vì chúng có thích học hành gì đâu, cần bằng cấp thì bỏ tiền ra mua như quý vị theo dõi tin tức dư biết rồi đó !
Tôi nghĩ bọn chúng đang cười vào mặt quý vị đấy và bảo nhau :
- Chúng mày xem đó thời nay những đứa bằng thật phải viết thư "Kính thưa , Trân trọng" với đám bằng giả như tụi mình.
Đau lắm, nhục lắm quý vị ơi !
Duc H. Vu
www.vuhuyduc.blogspot.com