
A. Những lý do đưa đến cuộc chiến dấu mặt.
Tôn giáo là những ý niệm hướng tới Chân
Thiện Mỹ, là điểm công lý ẩn sau trong tim lòng của mỗi con ngưới, là
gốc sinh ra an toàn cho xã hội. Trở thành điểm tựa an toàn cho con
người. Hơn thế, cho cả xã hội dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. Theo đó,
không có một sức mạnh nào từ bên ngoài có thể phá vỡ và tiêu diệt được
niềm tin tôn giáo trong lòng người. Trừ ra chính cá nhân ấy muốn từ bỏ.
Như thế, cộng sản với chủ trương vô tôn giáo, chẳng bao giờ muốn giúp
vốn cho tôn giáo vững mạnh trong xã hội qua những cuộc đập phá toàn
diện. Trái lại, chúng muốn tạo cho các tôn giáo có thêm nhiều Giuđa, hơn
là có nhiều thánh tử đạo.
Thứ hai, công lý không chỉ có ở trong
lòng một người, nhưng là ở trong mọi người. Công lý không phải chỉ có
trong nhất thới, nhưng là vĩnh cửu. Có khi nó tự phát sinh ngay trong
lòng kẻ cầm búa đập phá các cơ sở của tôn giáo. Như thế, cuộc chiến trực
diện nhắm đạp đổ chân lý của các tôn giáo do Hồ chí Minh chủ trương
không thể kéo dài. Nó được xử dụng như một phương tiện để tạo ra khủng
hoảng, sợ hãi. Nếu cần, nó có thể tái diễn, rồi ngưng. Bởi vi nếu kéo
dài, nó sẽ đập vỡ chính đầu nó.
Lý do thứ ba. Đây là cuộc chiến người ta
không tìm ra được khúc đầu, cũng không tìm ra được khúc cuối. Bởi vì
phải sống trong gian dối, cá nhân những thành viên hoạt động trong cuộc
chiến dấu mặt này, cũng như kẻ chỉ huy chúng, không bao giờ để lộ ra
tung tích làm tay sai, phản đạo của mình. Trái lại, thành phần này luôn
nhân danh tôn giáo, hoạt động lầm lũi theo lệnh như những loài côn
trùng, sâu bọ có đầy ở dưói mặt đất, ngày đêm đục khoét, phá hoại rễ hay
thân cây đang sinh hoa kết trái ngon ngọt, nhưng không ai nhìn thấy
chúng. Nên dù biết cây trái mùa màng của mình bị phá hoại, chủ nhân lại
không tìm ra cách trị đúng mức, hoặc không biết chúng ẩn nấp ở đâu để
triệt hạ cho dứt căn bệnh.
Sự việc này được giải thích là: Khi thấy
vừờn hoa trái có nhiều trái thối, trái sâu, trái bệnh. Lúc đầu, chủ nhân
khu vườn cho là nó bị ảnh hưởng thời tiết trái mùa. Ông đi tìm mua một
số loại thuốc sát trùng về dùng với hy vọng sẽ cải tạo lại được vườn hoa
trái. Kết qủa, tốn kém lên cao mà không đạt kết qủa. Số cây lây bệnh
cho nhau, sinh ra trái hủi ngày càng nhiều. Chặt đi thì tiếc công lao
nuôi trồng, mà để lại thì khó chịu. Trong lúc phân vân tìm hiểu nguyên
nhân, ông dùng cái cuốc, cuốc sâu xuống đất, xát bên một gốc cây. Hỡi
Trời đất ơi! Phơi ra theo nhát cuốc ấy là vô số những loại sâu bọ đang
đục khoét rể và gôc cây. Có đủ loại. Con thì to con thì nhỏ. Ông bị hoa
mắt, chẳng thể phân định được loại nào có mang trùng độc hại cây.
Dĩ nhiên, theo nhát cuốc, có con đứt đầu,
con đứt mình, con bị chết, con bị phơi ra ánh nắng và lộ mặt như qúy cụ
Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Vương đình Bích… Nhưng
còn biết bao nhiêu con khác thấy động thì tìm chỗ ẩn núp, ông không thể
nào tìm ra được. Nếu dùng loại thuốc cực mạnh đổ xuống cái lỗ ông vừa
đào. Cây ăn trái kia sẽ bị ảnh hưởng nặng, đất có thể thành chai cứng
không xử dụng được mà sâu bọ trùng độc kia có khi lại không chết. Nó di
sang gốc cây khác thì cái hoạ càng lớn. Ông đành lấp đất lại, tự nhủ, để
cho nó trốn ở đây còn hơn là làm động để chúng di đi nơi khác!
B. Những điểm tựa, hỗ trợ cho cuộc chiến dấu mặt.
1. Điểm tựa từ tôn giáo.
Có thể nói một cách không qúa sai lệch
là: Tôn giáo là nạn nhân nhưng cũng là điểm tựa, rồi trở thành bức tường
thành vững chắc hỗ trợ cho cuộc chiến dấu mặt, triệt tiêu tôn giáo của
cộng sản. Đọc qua đoạn viết này, nhiều người sẽ nổi giận. Nhưng sự thật
hiển nhiên đã được chứng minh là:
Vì nhiều lý do thực tế, hay vì sinh hoạt,
có khi vì thể diện của tôn giáo, nên các chức sắc cao cấp của các tôn
giáo dù không muốn bao che, nhưng cũng không dám công khai, công nhận
thực tế là có những thành viên thuộc cấp lãnh đạo trong tôn giáo của
mình thoái hóa, rồi trở thành những kẻ dấu mặt trong cuộc chiến phá hoại
tôn giáo do cộng sản chỉ huy. Đã thế, các tôn giáo liên hệ cũng không
dám công khai triệt hạ, hay đặt những kẻ dấu mặt này ra ngoài vòng sinh
hoạt nghi lễ của tôn giáo mình, dù có đầy đủ những bằng chứng cá nhân,
cũng như luật lệ của tôn giáo quy định về những trường hợp phản nghịch
này. Điển hình là trường hợp của nhóm gọi là “tứ nhân bang” Minh, Cần,
Từ, Bích… thuộc giáo hội công giáo, hay Nguyễn văn Bồng, tức TT Quang
bên giáo hội PGVNTN? Đây có phải là một tai họa hay không? Tôi sẽ trở
lại phần này sau.
2. Sự hỗ trợ từ nhà nước Việt cộng.
Ngoài việc xây dựng, giáo dục, vận động,
cài cắm ngưòi của cộng sản vào trong các hoạt động của tôn giáo, Việt
cộng còn triệt để áp dụng hai phương án tối độc để hỗ trợ cho cuộc chiến
dấu mặt, phá hoại niềm tin đạo hạnh của tôn giáo. Đó là việc dùng bạo
lực để trấn áp, thách đố những vị lãnh đạo cao cấp của các tôn giáo đã
bị cài đặt người vào. Thứ hai, dùng thủ thuật Xin- Cho để chế ngự các
tôn giáo.
a. Dùng áp lực.
Câu chuyện được kể lại như sau. Không
phải là TGM Nguyễn văn Bình muốn xử dụng nhóm “tứ nhân bang” gồm các ông
Hùynh công Minh, Trương bá Cần, Phan Phắc Từ, Vương đình Bích là những
Linh Mục đã hoạt động cho các tổ chức của cộng sản để họ di họa cho giáo
hội về sau. Xin mở dấu ngoặc là “theo Sắc Lệnh của Đức Pio XII công bố
năm 1949, thì những người này đã đương nhiên bị khai trừ khỏi giáo hội
vì những hoạt động của họ cho cộng sản mà không cần phải công bố. Theo
đó, ngay tư cách ngưòi công giáo của họ cũng không còn, nói chi đến phẩm
hàm Linh mục, nên trong danh xưng với nhửng vị này tôi chỉ dủng chữ qúy
ông cho việc xưng hô mà thôi.(The Decree against Communism is a 1949
Catholic Church document (by Pope Pius XII) which excommunicates all
Catholics collaborating in communist organizations.) “.điều 4, (Q.4 If
Christians declare openly the materialist and antichristian doctrine of
the communists, and, mainly, if they defend it or promulgate it, “ipso
facto”, do they incur in excommunication (“speciali modo”) reserved to
the Apostolic See? R. Affirmative).
Trái lại, sau khi những con cờ này đã lộ
diện trong vụ tấn công TGM Nguyễn văn Thuận và có những hành động phản
nghịch của họ trong việc tát (theo LT) và đẩy TGM Henry Lemaitre ra khỏi
tòa Khâm Sứ ở đường Hai bà Trưng Sài Gòn vào ngày 14-5-1975. Tòa GM
SàiGòn đã sửa soạn những văn bản cần thiết để công bố vô hiệu hóa tất cả
những năng quyền thuộc lãnh vực tôn giáo của nhóm người này theo luật
định. Nhưng, Nguyễn Hộ, một hung thần trong ban tôn giáo vụ ở Sài gòn
lúc đó, đứng chống lưng, ra mặt thách đố tòa TGM Sài Gòn thực hiện việc
công bố các văn kiện này. Tệ hơn thế, Nguyễn Hộ và nhóm “cố vấn” này,
sau khi thành công trong việc đẩy TGM Nguyễn văn Thuận ra khỏi Sài Gòn,
còn áp lực TGM Nguyễn văn Bình, đưa kiến nghị sang Rôma để xin đổi tên
của TGP là Sài Gòn ra cái tên chết cạn HCM. Vì sự bạo phát của cộng sản
lúc bấy giờ và vì cái thế ngoại giao trong lúc khó khăn, Rôma đành phải
chấp thuận việc đổi tên này cho hợp với thủ tục hành chánh. Dĩ nhiên,
việc Sài Gòn mất tên, và TGP Sài Gòn cũng mất tên còn là một vết thương
lâu dài. Vết thương không phải chỉ dành cho người công giáo, mà còn là
cho dân tộc Việt Nam nữa.
b. Thủ thuật Xin- Cho.
Cộng sản biết rất rõ một điều là: Tôn
giáo không có việc làm là tôn giáo chết. Việc làm ở đây có nhiều dạng.
Từ việc xây dựng cơ sở thờ phượng đến các cơ sở giáo dục. Việc phát
triển nhân sự, việc sinh hoạt của các hội đoàn, đoàn thể thuộc lãnh vực
riêng của tôn giáo, hay các tổ chức từ thiện, xã hội do tôn giáo tổ chức
v.v. Nên về mặt lý thuyết, cộng sản có đủ mọi loại giấy tờ chứng mình
rằng nhà nước tôn trọng và bảo vệ sự tự do tín ngưỡng của người dân.
Nghĩa là nhà nước Việt cộng chỉ bảo đảm không cấm cản việc người dân
theo bất cứ một tôn giáo nào họ muốn mà thôi. Ngoài ra không có bất cứ
một giấy tờ, văn bản nào công nhận hay bảo đảm việc các tôn giáo được tự
do trong các sinh hoạt phát triễn về nhân sự, cũng như các sinh hoạt
làm tăng tiến đời sống đạo hạnh của các tôn giáo, ngõ hầu đem lại phúc
lợi cho xã hội. Chính vì cái lối lý luận thịt ba rọi , công nhận “tự do
tín ngưỡng” nhưng không cộng nhận tự do sinh hoạt theo tín ngưỡng mà
cộng sản đã đặt cái lệ Xin – Cho, rồi áp đặt lên trên các tôn giáo với
mục đích bóp nghẹt và kiểm soát các tôn giáo.
Lệ Xin- Cho là cái lệ gì?
Theo nguyên tắc, tất cả các dịch vụ hành
chánh đều mở ngõ cho mọi ngưòi, nên khi cần chuyện gì thì đương sự phải
có đơn xin. Đơn xin trong trường hợp này chỉ là những thủ tục thông
thường.Thí dụ như xin giấy khai sinh, khai tử, xin giấy hôn thú, xin kết
hôn, xin xuất cảnh, xin việc làm…. Và sự thường là các loại giấy tờ này
đều có thời hạn để giải quyết. Riêng các đơn xin có liên hệ đến sinh
hoạt của các tôn giáo như xin xây nhà thờ, cơ sở, xin tuyển sinh, xin
phong chức cho ngưòi đã đủ điều kiện thì cái thời gian “ cho” nó giống
như sợi giây thung. Thích thì địa phương xét sớm, trường hợp cần thêm
tiền lót tay, hay các mưu toan mờ ám thì cứ ngâm tôm. Thời gian ngâm
tính tháng hay năm, không thính theo ngày! Trong thời gian bị ngâm cũng
chính là lúc các khẩu lệnh và điều kiện ngầm được các cán bộ nhà nước từ
trung ương cho đến địa phương triệt để áp dụng, trao đổi để đưa đến chữ
“cho”. Đó là nguyên tắc, là luật của xã hội chủ nghĩa Việt cộng!
Trong khi đó, sinh hoạt của tôn giáo
không hề tách rời ra khỏi đời sống xã hội và con người. Trái lại, còn đi
sâu vào trong lòng xã hội để truyền rao Chân Lý, Sự Thật, nên các chức
sắc trong các tôn giáo tại Việt Nam, đều bị áp chế bởi thủ thuật Xin –
Cho của Việt cộng. Nó chính là cái lưỡi câu, là cái chìa khoá, có kịch
độc dùng để tiêu diệt sự đạo hạnh chân chính của tôn giáo, và là đòn
buộc tôn giáo phải nâng cấp cái phẩm cách gian dối, bất lương của cộng
sản lên ngang hàng với những đạo đức của xã hội. Hoặc kéo tôn giáo xuống
ngang hàng cái gian dối của cái xã hội chủ nghĩa. Đó là cái gía quá
đắt, ai cũng biết, nhưng các tôn giáo ở Việt Nam hôm nay lại không thể
vượt thoát ra ngoài cái thủ thuật vô đạo Xin- Cho của cộng sản.
Điển hình, việc Nguyễn thiện Nhân, một
cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước Việt cộng có mặt trên lễ đài trong
đại hội La Vang dịp kết thức năm Thánh là một việc rất khó giải thích và
khó chấp nhận. Bởi lẽ, không phải chỉ có giáo dân, mà tất cả mọi người
đến đây để cầu nguyện, xin ơn bình an, xin Mẹ yên ủi chúng con đều không
muốn nhìn thấy kẻ vô thần, hại đạo ngồi trên nơi cao kia nhìn xuống.
Như thế, sự hiện diện này được coi như là một thứ “điều kiện” của cái lệ
xin cho của nhà nước. Nghĩa là, qúy tôn giáo xin được tổ chức những
buổi lễ lớn, tuy là thuần túy của tôn giáo, nhưng có hiện diện của cả
khách nước ngoài thì cũng phải mời cả đại diện của nhà nước đến dự và
đọc điễu văn. Dù cái diễu văn của nhà nước chưa đọc thì ngưòi ta đã biết
rõ nội dung của nó chỉ là những xảo trá tuyên truyền cho thê giới biết
là ở Việt Nam có tự do tín ngưỡng. Người ngoài thì xấu hổ thay cho những
hành động này, nhà nước Việt cộng thì không.
Trong khi đó, tại Hà Nội, như một biểu
tượng cho những người đi tìm Tự Do, Sự Thật và Công Lý. Ngày 20-9-08 ,
trong cuộc họp chung với UBNDTP Hà Nội để giải quyết về quyền sở hữu khu
nhà đất TKS, thuộc tài sản của tòa TGM Hà Nội. TGM Ngô quang Kiệt đã
công khai đặt vấn đề với nhà nước phải phá bỏ, tháo gỡ cái lệ xin cho mà
họ đã áp đặt trên các tôn giáo từ khi nắm công quyền. Bởi vì: “Tự do
tôn giáo là quyền chứ không phải là cái ân huệ xin cho “ Nghĩa là GM
Kiệt muốn xác định cả cái quyền tự do sinh hoạt tôn giáo đều thuộc về
ngưòi dân, chứ không phải chỉ có cái quyền tự do theo đạo mà thôi. Đây
là một sự kiện lớn có thể dẫn đến việc thay đổi cả bộ mặt đất nước. Kết
qủa, sự tự do sinh hoạt trong tôn giáo không có. Trái lại tất cả mọi dự
án thuộc TGP Hà Nội, từ trung ương đến địa phương, ngoài cái lệ xin cho
vốn đã có những điều kiện khắt khe từ trước, nhà nước còn chủ động tạo
ra thêm nhiều khó khăn, dẫn đến việc làm tê liệt đời sống hoạt động Mục
vụ của TGP. Tạo nên một lý do sâu sắc, khiến Ngài phải từ nhiệm.
Và còn rất nhiều trường hợp khác như câu chuyện dưới đây:
Hai vị LM có thới từng học chung trường
và chung một Giáo phận. Một hôm cả hai gặp nhau trao đổi ý định xin giấy
xuất cảnh, ra hải ngoại để vận động người thân quen, mạnh thường quân,
giúp đỡ tài chánh để về xây dựng lại ngôi thánh đường mái tôn, vách đất
đã xuống cấp mà giáo dân thì không có khả năng đóng góp nhiều. Ít năm
sau, một vị thì đang chạy đông chạy tây, mời khách đến dự khánh thành
nhà thờ mới. Một vị vẫn chưa qua cửa ải phỏng vấn để được xuất cảnh:
- Bác làm thế nào mà công việc chạy nhanh thế?
- Mình mất cả mấy tháng trời, đi không lại về không. Sau có một người giáo dân trong xứ đề nghị là lên thành phố, xin cái giấy giới thiệu của một vị trong ủy ban đoàn kết xem thế nào. Kế qủa, khi trở về tỉnh là giáy xuất cảnh được thuận. Tôi đi ra ngoại vài chuyến và được đồng bào hảo tâm trợ giúp.
- Họ có thần thế lắm à?
- Thần thế gì. Trong nhà là sâu là mọt, nhưng mình lợi dụng được sâu mọt để xong chuyện của mình thì tôi cũng phải liều một chuyến. Không ngờ thành sự!
- Mình rất kém về ngoại giao kiểu trao đổi này.
- Cha cứ nghe tôi, sen trong bùn mà hoa rất tươi đẹp, chỉ cần mình không mang theo mùi bùn là được! Hơn nữa, gặp cái thời thế đảo điên vô luật lệ này. Mình chỉ mặt kẻ phản bội, có khi lại lỡ việc. Nó đã chủ trương tạo cho nhau cái thế như vậy. Minh muốn bước qua, e rằng qúa khó…
- Chúa ơi! C’est la vie!
Câu chuyện này là sự thật hay sao? Thưa, chỉ nói lên được một phần nhỏ của sự thật thôi. Bởi vì, có một sự thật rất thật là:
Việt cộng có đủ mọi thứ giấy tờ để chứng
minh, tuyên truyền rằng có tự do tôn giáo tại Việt Nam . Chúng hoàn toàn
không can dự gỉ vào việc đào tạo và phong chức cho những tân chức trong
các tôn giáo. Trong thực tế, mỗi khi giáo phận muốn phong chức cho
những nhân tuyển đã đủ điều kiện học hành, tu đức thì đều phải nộp danh
sách cho nhà nước duyệt trước. Nghĩa là kẻ duyệt có toàn quyền quyết
định xem trong cái danh sách ấy ai được giữ lại và ai bị loại ra ngoài.
Sự việc duyệt danh sách này không chỉ nằm ở cấp phong chức LM mà còn có
thể ở những cấp cao hơn nữa? Nghe nói chuyện khởi đầu là do chính nhóm
tứ nhân bang đã tạo ra tiền lệ trong việc nhờ Nguyễn Hộ và ban tôn giáo
vụ ở Sài Gòn đẩy Đức TGM Nguyễn văn Thuận ra khỏi Sài Gòn. Chuyện đẩy đi
thành công thì chuyện về cũng phải có ý kiến của nhà nước. Và người đầu
tiên bị ảnh hưởng trong chuyến về Sài Gòn là Đức GM Huỳnh văn Nghi, xảy
ra sau khi ông Huỳnh công Minh trở lại Viêt Nam sau chuyến đi Rôma. Đến
nay, cái lệ Xin – Cho đã thành nếp và tạo ra những sự kiện nghiêm trọng
đầy tai hoạ:
1. Cài người vào phá hoại:
Gài các đảng viên, những thành phần bất hảo vào giả tu trì để phá hoại
tôn giáo, mà những vị có thẩm quyến, nếu biết, cũng không dám loại những
kẻ này ra khỏi danh sách khi đệ nộp cho nhà nướ
2. Tập gian dối cho tôn giáo:
Có nhiều vị đạo đức chân tu, nhưng không biết “ngoại giao” đút lót cho
nhà nước, hoặc gia đình không có tiền, tên của họ có nhiều cơ hội bị
loại ra khỏi danh sách do đề nghị của địa phương vì lý do lý lịch! Một
khi tên họ đã bị loại ra thì không ai dám phong chức cho những vị này.
Ngoài trừ Tổng Giám Mục ngô Quang Kiệt
Đấy là cái “ gía” của ân huệ Xin – Cho.
Ai thật, ai giả? Ai thực tình làm việc vì Chúa,vì giáo hội, vì tôn giáo?
Ai làm việc cho bác đảng? Không một ai biết, ngoại trừ kẻ trong cuộc.
Một khi, trong lòng tôn giáo đã có sự hoài nghi, không còn niềm tin nơi
nhau, thiếu sự hiệp thông, chỉ còn lai những toan tính thì đời sống tôn
giáo cũng chỉ còn là cái vỏ bọc, không còn sự sống đích thực trong sự
hiện hữu của Thần Linh. Nghi lễ, kinh sách khi ấy dễ trở thành cái vỏ để
che lấp lối sống gian dối, là một lối sống mà cộng sản tôn thờ và người
bị cài đặt vào đã tự nguyện sống theo cái giả hình ấy. Như thế, chính
lối sống gian dối của cộng sản là một định nghĩa gắn kết cho lối sống
theo chủ nghĩa vô tôn giáo của chúng.
Nói cách khác, sách lược vô tôn giáo mà
cộng sản chủ trương chính là sự việc thúc đầy, thực hiện cuộc sống gian
dối trong tôn giáo, hơn là sự việc xóa sổ, không còn tôn giáo trong xã
hội. Bởi vì, Tôn giáo là cuộc sống của Sự Thật, của Chân Lý của Niềm Tin
lành thánh. Nhưng khi sự gian dối đã được thực hiện ngay trong đời sống
tôn giáo thì Sự Thật, Chân Lý sẽ dần dần bị loại trừ. Không còn Chân
Lý, không còn Sự Thật thì không còn tôn giáo. Nghĩa là, khi niềm tin về
Sự Thật, về Chân Lý về sự Thánh Thiện trong tôn giáo không còn, tôn giáo
sẽ tự rã, hoặc chỉ còn cái vỏ bọc với nhiều vết thương. Như thế, việc
cố tạo ra gian dối trong tôn giáo, theo tôi, chính là điểm căn bản, là ý
nghĩa đích thực của chủ nghĩa vô tôn giáo mà cộng sản chủ trương, theo
đuổi, thực hiện, hơn là việc chúng muốn xóa sổ các tôn giáo trong xã
hội.
Thật vậy, vì ấu trĩ và vì mặc cảm phát
sinh từ sự thấp hèn trong xã hội, ( K. Mark cũng chỉ là kẻ ăn bám, sống
nương nhờ vào kẻ khác) cộng sản như những kẻ nô lệ chưa được giáo hóa,
bỗng nhiên chiếm được quyền lực nên không thể hiểu được ý nghĩa của
quyền lực xã hội, quyền lực nhân bản là gì. Từ đó, cộng sản chỉ biết
dùng bạo lực, khủng bố để phá hủy luân thường đạo lý trong xã hội, và
đẩy xã hội ngụp lặn vào cảnh sống loạn thường, không nhân tính. Theo đó,
đời sống đạo đức, luân lý xã hội Việt Nam ngày nay bị xuống cấp là phản
ành trực tiếp từ cái căn bản vô đạo của chế độ cộng sản. Nó được thể
hiện rõ nét trong việc chế độ này thúc đẩy, giáo dục, nuôi nấng và tạo
ra gian dối ở mọi nơi, mọi chốn. Từ học đường cho đến môi trường xã hội
đều phải gian dối, thấp hèn để tồn sinh.
Riêng với tôn giáo, cộng sản còn chủ
trương xử dụng bạo lực để áp đặt lên các tôn giáo hệ thống Xin – Cho,
ngõ hầu đạt đến mục đích là gian dối hóa đời sống của tôn giáo để loại
trừ Chân Lý, Sự Thật, Thánh Thiện ra khỏi cuộc sống của con người. Để từ
đó, cộng sản sẽ đồng hóa cái gian dối của cộng sản với xã hội và tôn
giáo, rồi buộc con người quy phục và tin vào cái duy vật biện chứng hiện
thực: Đảng cho anh danh vọng chứ không phải Chúa Trời hay Thần Linh!
Nghĩa là, đảng là sự hiện diện, còn Thần Linh thì không! Đó là lý do trả
lời tại sao chúng đặt ra lệ xin cho và tìm cách đưa cái đầu lâu của Hồ
chí Minh vào chùa, nhà thờ. Để đưa tà ác thần trên thần quyền
Dĩ nhiên, khi muốn thực hiên công tác
này, cộng sản sẽ từng bước từng bước xiết chặt lệ xin cho với những điều
kiện được áp dụng riêng cho từng cá nhân. Khi một người muốn được việc
cho mình, dù trong ý muốn tốt, có khi việc của tập thể sẽ không hay. Một
ông thầy muốn chịu chức phải đút tiền để có tên trong danh sách được
phong chức Linh Mục (điều này đã xảy ra). Tiền có thể ông không có,
nhưng nhiều người đứng ra vay mượn cho ông. Khi ông làm Linh Mục thay vì
phải sống xa lánh tiền của để phục vụ cho đời sống tinh thần dân Chúa.
Nhưng vì món nợ của ngày chịu chức, buộc ông phải tìm tiền để trả nợ.
Không phải nợ không mà cả vốn lẫn lời. Khi ấy, đời sống tinh thần cho
nhà Chúa sẽ ra sao? Rồi giáo dân càng ngày càng nghe biết thêm nhiều
trường hợp như thế, tôn giaó sẽ đi về đâu? Liệu có bước vào cuộc phá sản
niềm tin hay không?
Ấy là chưa kể đến việc vị chức sắc này đã
bị cộng sản “nắm”, giữ những điều kiện ngay từ trước khi nhận chức.
Liệu ông có đủ can đảm chống lại những công việc gian dối của chúng? Hay
sẵn sàng tham gia vào những công tác của Việt cộng, và được chúng ưu
đãi thêm nhiều đặc quyền đặc lợi? Hoặc giả, giữ im lặng trước những hành
động bạo ngược vô đạo của chúng vì đã trót nhận ân huệ? Dẫu nằm ở trong
trường hợp nào thì cũng đều giúp vốn cho việc phá sản niềm tin mau hơn
mà thôi.
Như thế, chủ trương vô tôn giáo của cộng
sản không phải chỉ là việc muốn xóa sổ tôn giáo ở trong xã hội cộng sản,
Nhưng còn là việc thúc đẩy gian dối hoá đời sống tôn giáo để tiêu diệt
niềm tin vào Chân Lý, Sự Thật và Thánh Thiện của tôn giáo.
Điều tôi vừa viết, có lẽ mọi người đều
biết và đều có thể cảm nghiệm được. Nhưng nếu buộc phải chứng minh cho
từng trường hợp thì không ai có thể làm được. Bởi lẽ, nó là cái chìa
khóa mang ẩn số của cuộc chiến dấu mặt. Sẽ chẳng tìm ra bằng chứng.
Người trong cuộc gian dối thì chối cãi và người ngoài thì vô kế chứng
minh. Có chăng chỉ dựa vào những việc làm, lý lẽ, lời nói của họ để mà
dẫn chứng, suy luận mà thôi. Liệu viết như thế, người viết có bị kết án
là hàm hồ, hay là vạch áo cho ngưòi xem lưng không? Điều đó cũng có thể
xảy ra.
Tuy nhiên:
Tôi không nghĩ thế. Trái lại, nếu không
dùng cái cuốc mà cuốc xuống đất thì cũng không gieo được hạt giống mới!
Không thấy được sâu bọ đang phá hoại cây trái. Nói cách khác, khi công
khai hóa cái lệ xin cho sấu xa của cộng sản áp đặt trên tôn giáo là lúc
chúng ta đang giải cứu tôn giáo ra khỏi cái ách của cộng sản. Phần bạn,
bạn nghĩ sao? Có hay là không có các Linh Mục, Giám Mục, Đại Đức, Thượng
Tọa là những đoàn đảng viên của đảng cộng sản Việt Nam ? Kế đến, các
tôn giáo có nên lên tiếng công khai về những trường hợp này để loại trừ
gian dối ra khỏi đời sống của tôn giáo hay không? Hay nên giữ im lặng để
cho người ta tưởng tôn giáo của mình không bị cộng sản xâm nhập, điều
hành?
Tạm thay lời kết. Trong cuộc chiến dấu
mặt này, cộng sản là những kẻ hoàn toàn chủ động và vạch ra đường đi
nước bước mà các tôn giáo thật khó thoát ra khỏi cái vòng vây của chúng.
Nếu tiếp tục giữ im lặng, hoặc né tránh giải quyết mạnh mẽ những trường
hợp cụ thể như nhóm tứ nhân bang và những nhân sự trực tiếp tham dự vào
sinh hoạt của các tổ chức do Việt cộng điều hành, vì họ đã vi phạm sắc
lệnh năm 1949 của Đức Pio XII. Công giáo nói riêng và tôn giáo nói
chung, lần hồi sẽ trở thành những tác nhân bảo vệ cho chính cuộc chiến
triệt hạ niềm tin, Sự Thật, Chân Lý và Thánh Thiện của tôn giáo. Và biết
đâu, vô tình trở thành những mắt xích giúp cho cộng sản có cơ hội thực
hiện gian dối hóa đời sống tôn giáo, để dần đi vào cái chủ trương vô tôn
giáo của chúng? Tệ hơn, khi cái đầu lâu của Hồ chí Minh đã lấn vào
trong chùa, trong nhà thờ thì đời sống của tôn giáo ra sao? Đạo đức,
Thần Thánh được đánh gía ngang hàng với ác quỷ chăng?
Hẳn nhiên, mọi người sẽ trả lời là không.
Không bao giớ. Tuy nhiên, khi trả lời là không, chúng ta có hiểu rõ
ràng, hay có biết: Cái ân huệ Xin – cho và thái độ tiêu cực, giữ im lặng
hôm nay chính là cánh cửa mở ra để cho ta đi vào cái tai họa ấy hay
không?
Bảo Giang
No comments:
Post a Comment