Nguyễn Quang Duy - Trước 1975, miền Nam vẫn lấy ngày 20/7 làm ngày Quốc Hận. Ngày mà thực dân và cộng sản đã chia đôi đất nước. Ngày 20/7 năm nay, Báo Đại Đoàn Kết lại có bài viết đề cập thẳng vào nội dung bản Công hàm 1958.
Bài
viết trên Báo Đại Đoàn Kết cố gắng chứng minh Công hàm 1958 không có
giá trị pháp lý, chỉ là tuyên bố ngọai giao và chính trị. Tất cả những
lập luận trong bài đều đã được Tiến sỹ luật học Từ Đặng Minh Thu trình
bày từ những năm 1995. Gần 20 năm sau các lập luận của Tiến sỹ Thu mới
xuất hiện trên một bài báo Quốc Nội đủ hiểu sự bưng bít thông tin của
nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.
Điều lạ là đúng ngày Quốc Hận 20/7 năm nay, bài viết lại có đọan như sau “ … Có
lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông
không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì
ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung
Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH …” Những tài
liệu từ phía cộng sản Việt Nam cho biết vì lệ thuộc vào Trung cộng, đảng
Cộng sản Việt Nam đã bị đảng Cộng sản Trung Hoa “ép” ngồi vào Bàn Hội
Nghị Genève chia đôi đất nước.
Bài
viết này xin bình luận về việc mất độc lập ngọai giao chính trị đã biến
Công Hàm 1958 thành một Công Hàm bán nước và phương cách để hóa giải
Công Hàm này.
Chúng
ta thường nghe phía nhà cầm quyền Trung cộng tuyên bố chủ quyền trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là “chủ quyền không thể tranh cãi
được”. Chủ quyền này cho phép họ vạch một đường chữ U chiếm đến 80 phần
trăm diện tích Biển Đông, bao vây hầu hết bờ biển Việt Nam. Phía Trung
cộng lại luôn sử dụng phương tiện truyền thông để tuyên truyền cho “chủ
quyền không thể tranh cãi ” này. Đầu tiên xin giới thiệu qúy vị một phần
của một bài báo Trung cộng đề cập đến chủ quyền của họ.
Báo Kim Dương Võng (Trung Cộng) ngày 16/06/2007.
Các
đảo ở Nam Hải bao gồm quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và quần đảo Tây Sa
(Hòang Sa) về lịch sử chính là lãnh thổ của TQ, TQ không chỉ có chứng cứ
đầy đủ về lịch sử và pháp lí, mà cả cộng đồng quốc tế trong đó bao gồm
cả VN cũng đã thừa nhận chủ quyền của TQ. Ngày 15 tháng 6 năm 1956, khi
Thứ trưởng Bộ ngoại giao VN Ung Văn Khiêm tiếp kiến Đại biện lâm thời
Lãnh sự quán TQ trú tại VN đã bày tỏ, theo các tư liệu về VN, xét về mặt
lịch sử, các quần đảo Tây Sa, Nam Sa nên thuộc về lãnh thổ TQ. Khi ấy,
Quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á Bộ ngoại giao VN Lê Lộc có mặt tại đó nói, xét
về mặt lịch sử, các quần đảo Tây Sa, Nam Sa đã thuộc TQ ngay từ đời
Tống. Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ TQ ra tuyên bố chiều rộng lãnh
hải là 12 hải lí, báo “Nhân dân” của VN đã đăng chi tiết lời tuyên bố
này vào ngày 6 tháng 9. Ngày 14 tháng 9, Thủ tướng VN Phạm Văn Đồng đã
bày tỏ với Thủ tướng Chu Ân Lai là thừa nhận và nhất trí với lời tuyên
bố này.
“Bản
đồ thế giới” do Phòng bản đồ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân VN vẽ năm
1960 và “Atlas Bản đồ thế giới” do Cục đo đạc và bản đồ thuộc Phủ Thủ
tướng VN in ấn, cũng chú thích các đảo ở Nam Hải , bao gồm cả quần đảo
Nam Sa, thuộc lãnh thổ TQ; sách giáo khoa địa lí trong trường học phổ
thông do Nhà xuất bản Giáo dục của VN năm 1974 đã viết ở bài “Nước cộng
hòa nhân dân Trung Hoa”: “Từ các đảo Tây Sa, Nam Sa đến đảo Hải Nam, đảo
Đài Loan… đã tạo thành một bức trường thành bảo vệ đại lục TQ.
Nhưng
về sau, thái độ của VN đã có sự thay đổi lớn. Tháng 1 năm 1974, TQ đã
thu lại quần đảo Tây Sa từ chính quyền Nam Việt, thái độ của Bắc Việt
khi ấy đã có phần thay đổi; sau đó VN nêu một cách rõ ràng, các quần đảo
Nam Sa và quần đảo Tây Sa là “lãnh thổ” của VN. Năm 1975, trong quá
trình thống nhất VN, VN đã chiếm đoạt phần đảo đá ngầm thuộc về TQ vốn
bị Nam Việt xâm chiếm, rồi tiếp đó lại không ngừng mở rộng phạm vi đã
chiếm lĩnh. Cho đến nay, con số đảo đá ngầm ở Nam Sa do VN khống chế là
nhiều nhất, theo thống kê chưa đầy đủ là có khoảng 29 đảo.
Phía
Trung cộng còn cho biết ngày 9/5/1965, nhà cầm quyền Hà Nội đã chỉ
trích Mỹ vi phạm "hải phận Trung Quốc chung quanh các đảo Tây Sa (tức
Hoàng Sa)". Thêm vào đó báo Nhân Dân nhiều lần đề cập đến không phận
Trung Quốc trên đảo Hoàng Sa.
Các sự kiện trên đều có chứng minh
Ngày
nay bức Công Hàm của Phạm văn Đồng có thể dễ dàng tìm thấy trên mạng
tòan cầu. Công Hàm này đã được phổ biến trên báo Nhân Dân ngày
22/9/1958. Xin xem phóng ảnh của bài báo. Công hàm cũng đã được tuyên
truyền rộng rãi qua các cuộc họp để ủng hộ “Tuyên Bố về Lãnh Hải của
Trung Quốc và lên án đế quốc Mỹ xâm lược”. Tuyên Bố này cũng đã được
đăng trên báo Nhân Dân ngày 9/9/1958. Báo Nhân Dân là tờ báo chính thức
của đảng Cộng sản Việt Nam.
Bức Công Hàm chính thức xác nhận “Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố
ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định
về hải phận của Trung Quốc.” Nhiều điều trong Bản tuyên bố ngày
4/9/1958 đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung cộng
(Xin xem Tuyên Bố để rõ). Năm 1977, Phạm Văn Đồng đã phải xác nhận
rằng: “Lúc đó là thời kỳ chiến tranh nên tôi phải nói như thế!”.
Vì
thiếu độc lập, vì lệ thuộc tư tưởng lệ thuộc chính trị, vì xa rời Tổ
Quốc Dân Tộc Việt Nam, đảng Cộng sản đã ký kết và tuyên bố những điều vô
cùng bất lợi, Trung cộng luôn lấy đó để khai thác nhằm từng bước hợp
thức hóa việc chiếm giữ Hoàng Sa – Trường Sa – Biển Đông về mặt pháp lý.
Tuần
vừa qua trên Mạng Tòan cầu lưu hành bản sao của trang 274 trong sách
với tựa đề "Luyện kỹ năng đọc hiểu Tiếng Hoa" do Ngọc Huyên biên soạn,
được Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành, có in hình bản đồ Trung cộng với
đường lưỡi bò liếm gần hết cả Biển Đông. Đủ thấy sự nguy hại của lệ
thuộc ngọai bang.
Biển Đông trong chiến lược toàn cầu của Trung cộng
Đầu
năm 1979, Trung cộng đã vượt biên giới Việt Nam để dạy cho đảng Cộng
sản Việt Nam một bài học. Khi ấy Bộ Ngoại Giao Việt cộng mới chính thức
công bố văn kiện “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua (1949-79)”. Văn kiện này vạch rõ chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền của Trung cộng.
Để
thực hiện chiến lược này, Trung cộng đã nhiều lần tấn công và chiếm
đóng biển đảo của Việt Nam. Năm 1956, khi quân đội Pháp rút khỏi Đông
Dương, Trung cộng cho quân chiếm phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Năm
1959, họ lại xâm lựơc một số đảo nhưng bị Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa
ngăn chận. Những việc này chắc chắn đã được phía cộng sản Bắc Việt nắm
rõ.
Năm
1974, lợi dụng Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam và Bắc Việt leo thang chiến
tranh, Trung cộng oanh tạc quần đảo Hoàng Sa và chiếm các đảo phía Tây,
do quân Việt Nam Cộng hoà đang đóng giữ. Tòan bộ quần đảo Hoàng Sa lọt
vào tay giặc Tàu xâm lược. Đến năm 1988, khi Liên Sô muốn rời khỏi Đông
Dương, Trung cộng lại tấn công quần đảo Trường Sa. Sáu đảo đã bị quân
Trung Quốc chiếm đóng. Từ đó đến nay họ tiếp tục lấn chiếm các đảo nhỏ
của Việt Nam khi có điều kiện.
Hành
động chiếm đóng bằng quân sự của Trung cộng là bằng chứng hùng hồn nhất
hai quần đảo Hòang Sa và Trừơng Sa không phải là “chủ quyền không thể
tranh cãi ” được của Trung cộng. Nói rõ hơn Trung cộng chỉ là bọn xâm
lược.
Những tuyên bố trước đây của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không giá trị về pháp lý
Từ
lâu các học giả Việt Nam đã đặt vấn đề Việt Nam nên nhờ quốc tế phân
xử. Do đó câu hỏi về giá trị pháp lý của các Tuyên Bố phía cộng sản Việt
Nam đều đã được nêu ra tận tình xem xét.
Học
giả Tạ Quốc Tuấn nghiên-cứu các lập luận của cả hai nhà cầm quyền
Bắc-kinh và Đài-bắc liên-quan đến vấn-đề chủ-quyền đã đi đến kết luận: “…
cả hai chính-phủ này có luận-cứ vu-vơ, mơ-hồ và võ-đoán. Họ chỉ nói đi
nói lại nhiều lần là Trung-quốc có chủ-quyền bất-khả tranh-nghị hay
chủ-quyền hợp-pháp và chủ-quyền đó có từ xa-xưa lắm rồi, nhưng lại không
đưa ra được một bằng-chứng cụ-thể nào, căn-cứ vào các tiêu-chuẩn
lịch-sử, địa-lý hay luật quốc-tế, để chứng-minh là chủ-quyền đó thuộc về
Trung-quốc.” Chính vì thế ngay từ thời Pháp, đã hai lần người Pháp
đề nghị (năm 1932 và năm 1947) nhờ Quốc Tế phân xử tranh chấp lãnh hải
đều đã bị Trung Hoa từ chối.
Luật
sư Nguyễn Hữu Thống nghiên cứu Công Pháp Quốc Tế cho biết Trung Quốc
hoàn toàn không có lý lẽ gì để xác minh Hoàng Sa Trường Sa là một phần
lãnh thổ của họ. Ông cho biết năm 1995 ông đã gửi một Bản Tường Trình
đến 7 vị nguyên thủ các Quốc Gia trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á
để trình bày nhận định nêu trên.
Khi
phân tích lập luận của hai phía Trung Quốc – Việt Nam, Tiến sĩ Luật học
Từ Đặng Minh Thu đặt biệt chú ý đến việc: Trung Quốc nói rằng Việt Nam
đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa vì những
lời tuyên bố trước đây của phiá Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Tiến sỹ Từ
Đặng Minh Thu lập luận “Những lời tuyên bố trên không có hiệu lực vì
trước năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý những đảo này.
Lúc đó, những đảo này nằm dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng hoà; mà các
chính phủ Việt Nam Cộng hoà luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam
trên hai quần đảo.” và “…đứng trên phương diện thuần pháp lý,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không phải là một quốc gia trong
cuộc tranh chấp. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp
gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hoà và Philippin. Như vậy,
những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời tuyên bố
của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.”
Nói
tóm lại các tuyên bố của nhà cầm quyền Hà nội khi ấy chỉ có giá trị
chính trị và hòan tòan không có giá trị về pháp lý. Trước Quốc Tế Trung
cộng có thể xem Công Hàm 1958 như một lời hứa. Lời hứa khi chiếm được
miền Nam nhà cầm quyền Hà nội sẽ trao hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa
cho Trung cộng để đổi lại phía Trung cộng quân viện cho cộng sản Bắc
Việt xâm lấn miền Nam.
Năm
1974, khi Trung cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, Hải quân Quân lực
Việt Nam Cộng Hòa đã một lòng hy sinh cố giữ lãnh thổ ông cha. Ngược lại
nhà cầm quyền Hà Nội đã lặng im đồng lõa để thực hiện lời hứa kể trên.
Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông, ngày 10/2/1994, ký giả Frank Ching viết về
vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Quần Đảo Hòang Sa nhận xét miền Bắc
luôn miệng cho rằng miền Nam là theo đế quốc Mỹ bán nước nhưng hành động
của nhà cầm quyền Bắc việt đã chứng minh ngược lại. Theo cách nói của
chúng ta Việt cộng là bọn bán nước và Công Hàm 1958 là Công Hàm bán
nước.
Ký giả Frank Ching đã kết luận bài viết như sau: “Không
một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng
giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm
ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ
được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung
Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc
trong khi họ phải bắt chước theo chính sách "đổi mới" của Trung Quốc để
tiến lên chủ nghĩa xã hội.”
Sau Khi Trung cộng tấn công Việt Nam
Năm
1979, khi bị Trung cộng tấn công Việt Nam, đảng Cộng sản mới tuyên bố
ngược lại. Điều 4 của Tuyên bố do Bộ Ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam về Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (7/8/1979)
nhấn mạnh:
“…Trung
Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn
dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn. Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã
tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau:
- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia;
-
Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc
tranh chấp giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng
rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng; và
-
Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng,
tôn trọng lẫn nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng
sự thương lượng.”
Khi
Đông Âu và Liên Sô sụp đổ, giới cầm quyền cộng sản Việt Nam lại tiếp
tục quay về thần phục Trung cộng. Từ đó đến nay họ đã ký những cam kết
những mật ước để đổi lấy nền bảo hộ đương thời.
Gần
đây nhất là ngày 25/6/2011, Thứ Trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn đã gặp Ủy
viên Trung Ương Đảng, Ủy Viên Quốc vụ Trung cộng Đới Bỉnh Quốc để “đồng
thuận” về vấn đề Biển Đông. Ông Sơn cho biết họ chỉ lập lại những “… nhận
thức chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước đã được ghi nhận trong các
Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc nhân các chuyến thăm của lãnh đạo
cấp cao hai nước, gần đây nhất là Tuyên bố chung tháng 10-2008 nhân dịp
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng thăm Trung Quốc.” Nhưng khi
tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và một số nhân sỹ Hà Nội muốn tìm hiểu thêm thì
Hồ Xuân Sơn và Bộ Ngọai Giao đã từ chối tiếp đón.
Ngày
nay dưới mắt người Việt, Bộ Chính Trị Việt cộng đều do chính Trung cộng
sắp đặt. Từ đó dẫn đến việc họ phải đối đầu với đòi hỏi thay đổi chính
trị và thoát ly ách chư hầu Trung Cộng. Từ ngay bên trong đảng Cộng sản,
trong quân đội, trong giới khoa bảng trí thức, trong giới ngoại giao.
Những đòi hỏi này lan rộng đến mọi tầng lớp dân chúng trong và ngoài
nước. Các cuộc biểu tình liên tiếp tám tuần qua đã phần nào nói lên
nguyện vọng của người dân Hoang Sa – Trường Sa Biển Đông là của Việt
Nam.
Trong một cuộc phỏng vấn do Nhã Trân, phóng viên Á Châu Tự Do thực hiện Luật sư Nguyễn Hữu Thống cho biết : ”Vấn
đề lãnh thổ - lãnh hải là do quốc dân. Dân mới quan trọng chứ không
phải đảng. Đảng phải trả lại quyền cho dân thì dân mới đòi lại được chủ
quyền đó. Đảng cộng sản như thế là vi phạm quyền của người dân. Đảng
cộng sản đã toa rập với Trung Quốc rồi thì bây giờ phải trả lại cho quốc
dân quyền đó. Phải cho người dân trở lại với chế độ dân chủ, với quyền
dân tộc tự quyết, cho người dân bầu chính phủ dân cử của họ thì lúc đó
mới có thể đấu tranh trên trường quốc tế được. Tức là trả lại quyền dân
tộc tự quyết cho dân, đại diện quốc dân là quốc hội, tức là dân phải bầu
lại quốc hội khác. Quốc hội dân cử đó lúc đó sẽ có lập trường về vấn đề
đó. Quốc hội phải lên tiếng huỷ bỏ công hàm Phạm Văn Đồng.”
Trong
Tuyên bố ngày 7-8-1979, nhắc đến bên trên, đảng Cộng sản Việt Nam đã
chính thức xác nhận chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đặt “Chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.”
Ngày
22/7/2011 vừa qua, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton kêu gọi các bên
trong vụ tranh chấp ở Biển Đông đưa ra chứng cớ pháp lý cho tuyên bố chủ
quyền của mình. Bà Clinton cho rằng những tuyên bố chủ quyền của Trung
Quốc và một số thành viên ASEAN phải phù hợp với Công ước Liên hiệp quốc
về Luật Biển năm 1982. Bà cũng cho biết việc giải quyết vụ tranh chấp
này bằng đường lối hòa bình là phù hợp với quyền lợi quốc gia của Hoa
Kỳ.
Nhưng
khi chế độ cộng sản vẫn còn thì Công Hàm 1958, các Tuyên Bố các hứa hẹn
Chính Trị, các mật ước bảo hộ vẫn gắn chặt Bộ Chính Trị Việt cộng với
quan thầy Trung cộng. Khi đất nước chưa có tự do thì sự thực về Hòang Sa
– Trường Sa – Biển Đông vẫn chỉ là nhưng bí mật giữa hai đảng Cộng sản
Việt Nam – Trung Hoa. Bốn chữ “tốt” và Mười Sáu chữ vàng vẫn ràng buộc
hai đảng Cộng sản Việt Trung. Và như thế Hòang Sa – Trường Sa vẫn bị
quân thù chiếm đóng. Biển Đông sẽ vẫn là ao nhà Trung cộng. Chỉ có một
thể chế tự do hậu cộng sản thì mới mong lấy lại được Hòang Sa – Trường
Sa - Biển Đông.
Khi
chưa có tự do phát biểu chính kiến thì ngụy biện yêu nước vẫn là độc
quyền của đảng Cộng sản Việt Nam. Khi chưa có tự do bầu cử, chưa có một
Hiến Pháp Tự Do một Quốc Hội Độc Lập, thì Trung Quốc vẫn đứng trong hậu
trường để thu xếp để lèo lái giới cầm quyền cộng sản Việt Nam, để giới
này thực thi chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền cho Trung
cộng.
Đó
là chưa kể đến việc giới cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục lệ
thuộc tư tưởng Tàu. Việc đảng Cộng sản Việt Nam đeo đuổi Mô hình phát
triển Tàu là một thí dụ điển hình. Mô hình này lấy kinh tế tự do rừng rú
và hệ thống công an sẵn sàng đàn áp mọi bất công hay tiếng nói bất đồng
làm căn bản. Một mô hình đang dẫn Việt Nam vào con đừơng phá sản. Lệ
thuộc tư tưởng lệ thuộc chính trị là mọi căn nguyên tạo ra một tập đòan
bán nước như Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Việt Nam.
Ở
hải ngọai nhiều cá nhân (như Luật Sư Nguyễn Hữu Thống) hay tổ chức Cộng
Đồng Hải Ngọai (như Cộng Đồng Việt Nam Bắc Cali) hậu duệ của Việt Nam
Cộng Hòa vẫn không ngừng lên tiếng trước Quốc Tế để tạo dư luận Hòang Sa
– Trường Sa – Biển Đông thuộc Việt Nam. Nhiều công trình nghiên cứu cá
nhân và tập thể đã được thực hiện và phổ biến rộng rãi trên mạng lưới
toàn cầu nhiều năm nay, cũng do tấm lòng hướng về quê hương của đàn con
nơi đất khách quê người.
Người
Việt tự do cũng luôn luôn nhắc nhở nhau hướng về quê cha đất tổ, nơi
một phần quê hương đang bị ngọai bang xâm chiếm. Cũng thường xuyên tổ
chức các cuộc biểu tình để xác nhận một phần đất nước đang nằm trong tay
giặc Tàu xâm lựơc. Cờ Vàng vẫn chính thức sử dụng trong Cộng đồng Người
Việt Tự Do là một thách thức cho tính chính danh của những người cầm
quyền cộng sản Việt Nam. Cộng sản Việt Nam không có tư cách đại diện
Việt Nam, mọi ký kết công khai hay bí mật với giặc Tàu đều hòan tòan
không giá trị. Một chính quyền Tự Do sẽ nhờ Quốc Tế phân xử mọi ký kết
bán nước mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã ký với Tàu.
Biểu
tình lần thứ tám, bà con đặc biệt tri ân những chiến sỹ hải quân quân
lực Việt Nam Cộng hòa đã anh dũng hy sinh trong cuộc hải chiến Hoàng Sa
năm 1974, cùng các liệt sỹ Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đã nằm xuống trong
trận chiến bảo vệ Trường Sa năm 1988. Một Buổi Lễ tri ân cũng đã được
tổ chức tại Sài gòn. Càng tri ân các chiến sỹ bỏ mình vì đất nước lại
phải càng phải biểu lộ quyết tậm dẹp bỏ bọn tay sai bán nước cho Tàu. Có
dẹp được nội thù thì mới mong chống được ngọai xâm, bảo vệ mảnh đất quê
hương do tiền nhân để lại.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
28/7/2011
gửi Dân Làm Báo
*
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải
(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958)
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
1.
Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý.
Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc,
bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi,
Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và
các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
2.
Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và
các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải
dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý
tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên
trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng
nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo
Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và
Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội
hải Trung Quốc.
3.
Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc,
tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận
Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại
quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật
lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
4. Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài
Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất
hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các
phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các
vấn đề nội bộ của Trung Quốc
(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
*
Chú thích: Quần
đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands;
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly
Islands
Tài Liệu Tham Khảo Chính:
Bộ
Ngoại giao nước Cộng Hoà Xã hội chủ nghĩa Việt (1979), Sự thật về quan
hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua (1949-79), Nhà Xuất Bản Sự
Thật Hà Nội.
Đặng
Minh Thu (1995) Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Thử
phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc, Tạp Chí Thời Đại Mới, Số
11 - Tháng 7/2007
Nguyễn Hữu Thống (1995) “Hoàng Sa Trường Sa Theo Công Pháp Quốc Tế.”
Frank
Ching, Vấn đề Tranh chấp Chủ quyền trên Quần đảo Hoàng Sa: Saigon -
Hanoi - Paracels Islands Dispute – 1974 (Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông - Far
Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
Nhã Trân, phóng viên RFA phỏng vấn Luật sư Nguyễn Hữu Thống “Sự thật về công hàm của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng”.
Quốc Trung (dịch), Báo Kim Dương Võng (TQ): Việt nam đã từng thừa nhận Nam Sa là của Trung quốc, Nguồn Da Vàng Blog
Tạ
Quốc Tuấn, Vấn-đề chủ-quyền đối với hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa:
Vài nhận-xét về lập luận của hai chính-phủ Bắc-Kinh và Đài-Loan, mạng
Internet. Tham luận đọc tại Hội Thảo Hè “Vấn Đề Tranh Chấp Biển Đông”
tại New York City, ngày 15-16 tháng 8, 1998.
Nguyễn Quang Duy, 2010, Đừng để mất Hoàng Sa – Trường Sa – Biển Đông.
*
Sách
với tựa đề "Luyện kỹ năng đọc hiểu Tiếng Hoa" do Ngọc Huyên biên soạn,
được Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành, ở trang 274 có in hình bản đồ
Trung Quốc với đường lưỡi bò liếm gần hết cả biển Đông.
No comments:
Post a Comment