Nguyễn Hưng Quốc - Mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển là một trong những đề tài thú
vị thu hút sự chú ý của rất nhiều học giả trên thế giới. Mối quan hệ
này, thật ra, có hai chiều: một, từ phát triển đến dân chủ; và hai,
ngược lại, từ dân chủ đến phát triển. Hai chiều này có thể được cụ thể
hóa bằng hai câu hỏi chính: thứ nhất, có phải sự phát triển, đến mức nào
đó, sẽ tự động làm nảy sinh ra dân chủ? Và thứ hai, có phải dân chủ sẽ
làm cho xã hội phát triển và giàu có nhanh chóng hơn?
Trong bài này, tôi xin đề cập đến câu hỏi thứ nhất trước. Với câu hỏi thứ hai, xin hẹn vào kỳ tới.
Trước hết, xin lưu ý: phát triển là một khái niệm khá mơ hồ và có
tính lịch sử rõ rệt. Từ khởi thủy, loài người không ngừng tìm cách cải
thiện cuộc sống trên mọi phương diện, từ vật chất đến tinh thần, từ cái
ăn, cái mặc, cái ở đến cách suy nghĩ, cách yêu thương, cách tổ chức gia
đình và xã hội, v.v... Do đó, phát triển luôn luôn ở số nhiều. Có những
sự phát triển đột biến và cũng có, nhiều hơn, những sự phát triển tiệm
tiến. Có những sự phát triển có kích thước lớn lao, làm thay đổi hẳn
toàn bộ diện mạo đời sống nhân loại (như sự phát triển trong cách chế
biến thức ăn – mà trung tâm là việc tìm ra lửa; hay trong truyền thông –
mà trung tâm là việc phát hiện ra chữ viết, sau đó, ra máy in; hay
trong giao thông – mà trung tâm là việc chế tạo ra xe lửa và tàu thủy
chạy bằng hơi nước, v.v...); và cũng có, nhiều hơn, những sự phát triển
mang tầm vóc quốc gia hoặc địa phương. Sự phát triển gắn liền với dân
chủ mà chúng ta đang bàn chủ yếu diễn ra vào giữa thế kỷ 19 vốn mang một
tên gọi nhất định đến nay vẫn còn phổ cập: hiện đại hóa.
Khái niệm hiện đại hóa, tự nó, cũng rất phức tạp. Có nhiều lý thuyết
gia, từ Karl Marx đến Adam Smith và Max Weber, bàn về vấn đề này, và mỗi
người có một cách kiến giải khác nhau. Ở đây, chỉ xin nói một cách vắt
tắt: hiện đại hóa là một tiến trình biến chuyển của một xã hội từ truyền
thống đến hiện đại trên nhiều phương diện: kinh tế, xã hội, văn hóa và
chính trị.
Về phương diện kinh tế, hiện đại hóa chủ yếu là quá trình kỹ nghệ hóa
mang tính tư bản chủ nghĩa, trong đó, nổi bật nhất là hai yếu tố: cơ
khí hóa và lợi nhuận thuộc về cá nhân. Cả hai đều là những điều kiện tối
cần để đẩy mạnh sản xuất, từ đó, nâng cao mức sống của mọi người.
Về phương diện xã hội, song song với quá trình kỹ nghệ hóa ấy là quá
trình đô thị hóa với hiện tượng càng ngày càng có nhiều người từ bỏ
ruộng đồng để ùn ùn kéo nhau vào thành phố, làm việc trong các công ty
và xí nghiệp, và sống trong các căn nhà chật chội san sát bên nhau. Môi
trường làm việc và sinh sống như vậy làm nảy nở nhiều yếu tố mới. Thứ
nhất là sự xuất hiện của tầng lớp trí thức thị dân trung lưu, trong đó,
nhờ sự phổ cập của giáo dục và sự phát triển của nền kinh tế dựa trên
dịch vụ, vai trò của nữ giới càng ngày càng trở nên quan trọng. Thứ hai
là sự phân biệt giữa môi trường sống và môi trường lao động dần dần làm
xuất hiện ý niệm về sự riêng tư như một sự đối lập với không gian công
cộng và tập thể, từ đó, dần dần làm nảy nở ý niệm về cá nhân, cuối cùng
dẫn đến việc hình thành chủ nghĩa cá nhân.
Về phương diện văn hóa, một nền kinh tế kỹ nghệ không những cần công
nhân mà còn cần các chuyên viên kỹ thuật và quản trị; để có các chuyên
viên ấy, người ta cần phát triển giáo dục; và giáo dục chỉ có thể được
phát triển khi nó được phổ cập. Khi lao động dựa trên kỹ thuật, kiến
thức và kỹ năng sẽ đóng vai trò quan trọng hơn sức lực và kinh nghiệm;
do đó, một mặt, vị thế của phụ nữ (vốn được xem là chân yếu tay mềm)
cũng được nâng cao hơn; mặt khác, tuổi trẻ (vốn tiếp thu cái mới nhanh)
dễ có ưu thế hơn hẳn tuổi già. Kết quả là sự phát triển của kỹ thuật
cũng đồng thời là sự phát triển của văn hóa tuổi trẻ (youth culture) và,
cùng với nó, văn hóa tiêu thụ cũng như văn hóa giải trí.
Tất cả những sự thay đổi trên các phương diện kinh tế, xã hội và văn
hóa kể trên dẫn đến những sự thay đổi về phương diện chính trị: giới trí
thức thị dân trung lưu muốn có quyền lực nhiều hơn trong xã hội và muốn
thay thế vai trò lãnh đạo của giới phong kiến và quý tộc. Hình thức cầm
quyền chủ yếu của giới trí thức thị dân trung lưu này là thông qua Quốc
Hội do dân chúng bầu một cách tự do. Đó cũng là hình thức căn bản của
dân chủ.
Như vậy, trên nguyên tắc, quá trình hiện đại hóa, đến một mức và một
lúc nào đó, sẽ tự động dẫn đến dân chủ. Tuy nhiên, trên thực tế, người
ta nhận thấy có không ít ngoại lệ: nhiều quốc gia đã tiến rất xa trên
con đường hiện đại hóa vẫn còn chịu đựng nạn độc tài một cách dai dẳng.
Ví dụ: Singapore, Trung Quốc, Iran, Nga, Các Tiểu vương quốc A-rập thống
nhất, v.v...
Nên giải thích trường hợp nghịch lý này như thế nào?
Theo nhiều học giả, mặc dù hầu hết các quốc gia có nền dân chủ vững
chắc đều giàu có, mức thu nhập quốc dân cao không hẳn đã là điều kiện
tất yếu của dân chủ. Sự phát triển kinh tế chỉ là một phần. Phần ấy chỉ
phát huy tác dụng trong quá trình dân chủ hóa với một điều kiện: nó phải
làm thay đổi cách hành xử của dân chúng. Nói một cách tóm tắt, sự phát
triển kinh tế chỉ dẫn đến dân chủ trong chừng mực, thứ nhất, nó tạo ra
một giai cấp trung lưu có học thức đông đảo quen với lối suy nghĩ độc
lập và tự lập; và thứ hai, nó làm thay đổi bảng giá trị và động cơ của
mọi người.
Thật ra, cả hai hiện tượng này (tầng lớp trung lưu và bảng giá trị
mới) cũng là hệ quả của những phát triển về kinh tế xã hội. Quan hệ giữa
kỹ nghệ hóa và sự xuất hiện của tầng lớp thị dân trung lưu là một quan
hệ tất yếu: Không nơi nào có thể đẩy mạnh kỹ nghệ hóa nếu không có giới
kỹ thuật viên, hay, rộng hơn, giới trí thức. Giới trí thức là điều kiện
căn bản của kỹ nghệ hóa. Khi trí thức trở thành một lực lượng đông đảo,
bảng giá trị xã hội cũng thay đổi theo.
Một cuộc điều tra trên phạm vi quốc tế từ năm 1981 đến 2007 cho thấy:
dân chúng thuộc các xã hội có trình độ phát triển khác nhau có những
bảng giá trị khác nhau. Chẳng hạn, ở một số nơi, 95% dân chúng tin tưởng
Thượng Đế đóng vai trò quan trọng trong đời sống của họ; ở những nơi
khác, số người tin như thế chỉ có khoảng 3%. Ở một số nơi, 90% dân chúng
tin nam giới được ưu tiên có việc làm hơn nữ giới; ở nhiều nơi khác,
con số này chỉ có 8%. Điều thú vị là: sự khác biệt này tương ứng với
những khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Nói chung, dân
chúng ở các nước có thu nhập thấp dễ có khuynh hướng nhấn mạnh vào tôn
giáo và vai trò của nam giới hơn là các nước giàu có. (1) Khuynh hướng
này có hai khía cạnh: một, trong khi ở các nước nghèo, ưu thế thuộc về
các giá trị truyền thống; ở các nước giàu, ưu thế thuộc về các giá trị
có tính duy lý (rational) và thế tục (secular); hai, trong khi ở các
nước nghèo, người ta tự khép kín mình lại để tồn tại; ở các nước giàu,
nhu cầu tự diễn tả (self-expression) càng ngày càng trở nên quan trọng.
Các nhà nghiên cứu cũng nhận định: trong khi tự biến chuyển từ bảng
giá trị truyền thống sang bảng giá trị duy lý và thế tục tương ứng với
sự biến chuyển từ xã hội nông nghiệp sang xã hội kỹ nghệ, sự biến chuyển
từ nhu cầu tồn tại sang nhu cầu tự diễn tả gắn liền với sự xuất hiện
của xã hội hậu kỹ nghệ (postindustrial).
Như vậy, có rất nhiều bằng chứng để khẳng định:
Thứ nhất, những sự phát triển về kinh tế không sớm thì muộn cũng nhất
định dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu xã hội, trong đó, quan trọng
nhất là sự hình thành của tầng lớp trí thức thị dân trung lưu.
Thứ hai, tầng lớp này không sớm thì muộn cũng sẽ thay đổi cách nhìn
về thế giới và về chính bản thân họ với một bảng giá trị mới liên quan
không những đến tôn giáo mà còn đến quan hệ giữa phái tính và quyền lực
về chính trị; giữa nhu cầu tồn tại và nhu cầu tự khẳng định bản sắc và
quyền cá nhân, trong đó, quan trọng nhất là quyền được lên tiếng, quyền
được lựa chọn và quyền được quyết định.
Thứ ba, khi ý thức mạnh mẽ được những cái quyền ấy, người ta cũng
đồng thời ý thức được cái quyền được sống trong một xã hội dân chủ.
Nhưng như vậy, chúng ta lại trở lại một vấn đề đã nêu lên ở trên: Tại
sao ở một số quốc gia đã phát triển rất cao mà vẫn chưa có dân chủ?
Câu trả lời là:
Một, tầng lớp trí thức trung lưu ở các nước đó vẫn còn tâm lý thỏa hiệp với chính quyền để mưu lợi.
Hai, điều đó cũng có nghĩa là: ở họ, bảng giá trị mới vẫn còn chưa đủ
sâu sắc và mạnh mẽ. Nhu cầu sống còn vẫn lớn hơn nhu cầu tự thể hiện và
tự khẳng định mình.
Ba, hai sự kiện trên cho thấy quá trình chuyển tiếp từ phát triển đến
dân chủ không phải là một con đường thẳng tắp. Ngược lại, nó rất gập
ghềnh và đầy bất trắc. Nhưng vấn đề chủ yếu ở đây là vấn đề thời gian.
Chỉ là vấn đề thời gian.
Bây giờ, nếu ứng dụng vào hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, bạn có nghĩ là
Việt Nam đã có đủ điều kiện về kinh tế, xã hội và văn hóa cho một sự
thay đổi lớn lao về chính trị?
Nguyễn Hưng QuốcNguồn: VOA (Blog Nguyễn Hưng Quốc)
Chú thích:
Xem bài “Development and Democracy: What We Know about Modernization Today” của Ronald Inglehart and Christian Welzel trên Foreign Affairs tháng 3, 2009. Có thể đọc trên xem thêm cuốn Modernization, Cultural Change and Democracy: The Human Development Sequence của hai tác giả này do Cambridge University Press xuất bản năm 2005.
No comments:
Post a Comment