“Có một thực tế là hiện nay ở một số vùng, người dân không phá rừng thì không có tiền để tồn tại được.”
Ông
Phạm Hữu Khánh, điều phối viên dự án phát triển du lịch sinh thái vườn
quốc gia Cát Tiên, phát biểu trong cuộc hội thảo về quản lý tổng hợp
rừng đầu nguồn và lưu vực sông tổ chức tại thành phố Ðà Lạt do Viện Sinh
Học Nhiệt Ðới (Viện Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam) tổ chức các ngày 23
và 24 tháng 5, 2011 vừa qua.
Tường
thuật cuộc hội thảo này, báo Tuổi Trẻ hôm Thứ Tư, 26 tháng 5 thuật lời
ông TS Vũ Ngọc Long, phó viện trưởng Viện Sinh Học Nhiệt Ðới, cho rằng
rừng và sông suối đầu nguồn suy thoái không chỉ tác động bất lợi đến đa
dạng sinh học, các chức năng sinh thái, điều kiện tự nhiên khác mà còn
làm giảm chất lượng cuộc sống, đặc biệt với cộng đồng đang sống ở những
lưu vực sông và các khu rừng.
- Rừng đầu nguồn bị tàn phá, hậu quả là hạ lưu sẽ cạn nguồn nước. (Hình: báo Tuổi Trẻ)
Ông
Long “chua chát” dẫn ra một thí dụ. Rừng quốc gia Cát Tiên và Cát Lộc
“ôm trọn sông Ðồng Nai.” Nhưng sau 15 năm nghiên cứu và theo dõi, ông
thấy 328 ha đất rừng Cát Lộc, vùng đệm của vườn quốc gia Cát Tiên, được
giao cho dân địa phương quản lý, sau 5 năm hiện chỉ còn khoảng 10-20 ha.
Rừng
mất thì “túi nước” của vườn quốc gia Cát Tiên và các khu phụ cận sẽ cạn
kiệt, dẫn đến nguồn nước cung cấp cho sông Ðồng Nai bị giảm nhiều.
Cũng
trong cuộc hội thảo này, ông Ðào Trọng Tứ, giám đốc Trung tâm Thủy văn
phát triển bền vững tài nguyên nước và thích nghi biến đổi khí hậu (đại
diện khoa học Viện Quản Lý Nước Quốc Tế - IWMI), cho rằng việc phát
triển ồ ạt các công trình thủy điện trong những năm qua đã và đang đặt
tài nguyên nước nói riêng và hệ sinh thái của các vùng đầu nguồn, các
sông suối Việt Nam vào tình trạng báo động về cạn kiệt và suy thoái khó
hồi phục.
Theo ông này, hệ thống sông
ngòi tại Việt Nam đang đang phải gánh tới hơn 500 công trình xây dựng
đập thủy điện lớn nhỏ. Không những vậy, còn đến 1,201 dự án thủy điện
đang chờ xây dựng trong thời gian tới.
Những
tin tức hai năm vừa qua sau các đợt thủy điện xả lũ làm ngập lụt các
vùng hạ lưu và chết dân ở miền Trung, người ta được biết chỉ riêng hệ
thống sông Vu Gia Thu Bồn dài 200 km mà gánh tới hơn 100 dự án thủy
điện. Mùa lũ thì ngập lụt còn mùa nắng nóng thì sông trơ đáy vì thủy
điện giữ nước. Ngay cả tích nước, nước từ các hồ chứa đó cũng không đủ
để chạy máy nên nhiều nhà máy thủy điện phải “đắp chiếu” khi hết mùa
mưa.
Theo ông Tứ, từ khi thủy điện
được xây dựng trên thượng nguồn sông Ðồng Nai, trữ lượng nước từ 22
triệu m3/ngày trước kia nay giảm rất đáng kể vào mùa khô trong khi mùa
mưa thì có lũ dữ và lụt ở hạ lưu.
“Ví
dụ rõ nét nhất là thác Pongour, từng được người Pháp tôn vinh là dòng
thác hùng vĩ nhất Ðông Dương, cao 40m, rộng 100m, nước tuôn ào ạt xuống
vách đá bảy tầng nhưng từ năm 2008 khi đập thủy điện Ðại Ninh tích nước
thì Pongour cạn khô, trở thành dòng thác chết,” tờ Tuổi Trẻ thuật lời
ông Tứ.
Tờ báo dẫn lời ông GS Bert
Covert, trường ÐH Colorado (Mỹ), nói trong cuộc hội thảo cho rằng việc
xây dựng đập thủy điện trên đầu nguồn các dòng sông trong thời gian qua
chưa tính đúng, tính đủ đến lợi ích của các bên. “Việc xây dựng các đập
thủy điện, khai thác tài nguyên nước của các dòng sông phải tính toán
đến yếu tố môi trường, phát triển kinh tế và hai lợi ích đấy phải được
cân bằng.” (TN)
No comments:
Post a Comment