Nguyễn Quốc Khải - Cơ
quan Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United Nations Development Program –
UNDP) với sự cộng tác của Oxford University, đã thực hiện một nghiên cứu
về nghèo đói và phát triển con người trong những năm gần đây tại 104
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc.
Khoảng 1.75 tỉ
người trên tổng số 5.7 tỉ dân của tất cả các nước này, tức khoảng 1/3,
sống dưới mức nghèo đói được đo lường theo chỉ số nghèo đa diện
(multidimensional poverty index – MPI) bao gồm các khía cạnh như giáo
dục, sức khỏe, và dịch vụ. Cũng theo cuộc nghiên cứu này, khoảng 2.6 tỉ
người tại những quốc gia này sống bằng dưới 2 Mỹ kim mỗi ngày.
Vùng
Sub-Sahara của Phi châu có tì lệ nghèo đói cao nhất. Tỉ lệ này tăng từ
3% tại Nam Phi đến 93% tại Niger. Tuy nhiên Nam Á châu chiếm 51% dân số
nghèo của thế giới (844 triệu người) và Phi châu chiếm hơn 28% (458
triệu người), và Đông Nam Á và Thái Bình Dương chiếm 15% (247 triệu
người).
Kết quả của cuộc nghiên cứu
cho thấy là Việt Nam có 12.3 triệu người so với một dân số 86.1 triệu,
tức khoảng 14.3%, sống dưới mức nghèo đa diện. Tì lệ số người có lợi tức
dưới 2 Mỹ kim mỗi ngày là 48% và theo mức nghèo quốc gia là 29%. Việt
Nam xếp hạng thứ Trung Quốc có 165.8 triệu người trên dân số 1,329.1
triệu, tức khoảng 12.5%, sống dưới mức nghèo đa diện. Tì lệ số người có
lợi tức dưới 2 Mỹ kim mỗi ngày là 36% và theo mức nghèo quốc gia là 3%.
Tình
trạng nghèo đói và khác biệt giầu nghèo đáng kể ở trên thế giới nói
chung và ở Việt-Nam nói riêng là một đề tài làm cho nhiều nhà xã hội học
và kinh tế gia lưu tâm. Chúng ta thử làm một cuộc so sánh nhanh chóng
giữa các quốc gia để tìm hiểu những nguyên nhân gây ra sự nghèo đói.
Tuổi tác của quốc gia.
Chắc
chắn không phải là vì tuổi tác của những quốc gia này. Trước nhất chúng
ta hãy xem xét một số nước trên thế giới. Việt-Nam và Trung Quốc đã có
trên 4,000 năm. Ấn Độ và Ai Cập đã thành lập trên 2,000 năm. Nhưng đây
lại là những nước nghèo. Mặt khác, Hoa-Kỳ, Canada, Úc Đại Lợi, và Tân
Tây Lan là những nước chỉ mới thành lập dưới 250 năm nay nhưng lại ở
trong những nước giầu nhất thế giới. Israel mới lập quốc vào năm 1948
tại phần đất Palestine. Dân số là 7.5 triệu người. Tuy là một quốc gia
trẻ trung, nhưng sau một nửa thế kỷ Israel đã mau chóng trở thành một
quốc gia giầu có với lợi tức trung bình mỗi đầu người tính theo mãi lực
quân bình (purchasing power parity GDP) là 29,500 Mỹ kim. East Timor là
một quốc gia mới nhất, thành lập vào năm 2002, với dân số vỏn vẹn có
khoảng 1 triệu người, nhưng East Timor là một trong những nước nghèo
nhất thế giới với lợi tức trung bình hàng năm mỗi đầu người tính theo
mãi lực quân bình là 2,600 Mỹ kim.
Tài nguyên thiên nhiên.
Sự
khác biệt giầu nghèo cũng không phải do nguồn tài nguyên thiên nhiên
của các quốc gia. Thật vậy, dân Iraq sống trên mỏ dầu lớn thứ nhì trên
thế giới với số dầu dự trữ ước tính là 115 tỉ thùng , gần bằng 43.5%
số dầu dự trữ lớn nhất thế giới ở Saudi Arabia. Nhưng mức sống của dân
Iraq không hơn gì dân Việt-Nam bao nhiêu. Tổng sản lượng nội địa mỗi đầu
người theo mãi lực quân bình của Iraq là 3,600 Mỹ kim, so với con số
của Việt-Nam là 3,100 Mỹ kim vào năm 2010.
Trái
lại, Nhật Bản đất hẹp dân đông. Tổng số diện tích của Nhật bản là
377,835 Km2, hơi nhỏ hơn tiểu bang California. Khoảng 12.1% đất đai là
có thể trồng trọt được. Phần còn lại là đồi núi. Tuy nhiên, Nhật Bản có
127 triệu dân, gần gấp 4 lần dân số của California. Mỗi năm Nhật Bản có
khoảng 1,500 trận động đất (phần lớn là những chấn động nhỏ). Nước Nhật
hầu như không có một khoáng sản nào cả. Quốc gia này phải nhập cảng mọi
nguyên liệu từ cát, sát thép phế thải, cho đến dầu thô và thực phẩm từ
khắp nơi trên thế giới và sản xuất các sản phẩm chế biến để xuất cảng
đến hầu hết mọi quốc gia. Người ta thấy ngay trên đất Mỹ cách xa Nhật
Bản một nửa vòng trái đất, những dụng cụ khổng lồ dùng trong kỹ nghệ xây
cất và nông nghiệp nặng cả ngàn tấn, mang các nhãn hiệu như Komasu,
Hitachi, Mitsubishi, Kubota và Shibaura.
Thụy
Sĩ là một thí dụ khác. Tổng số diện tích của quốc gia này là 41,300
Km2, tương đương với 12.5% diện tích của Việt-Nam. Tuy nhiên đất đai
trồng trọt của Thụy Sĩ được chỉ bằng 10% tổng số diện tích. Không những
thế, Thụy Sĩ không có đường thông thẳng ra biển và hoàn toàn bị bao vây
bởi năm quốc gia khác là Đức, Áo, Pháp, Ý và Liechtenstein. Dân số của
Thụy Sĩ là 7.6 triệu gồm 3 sắc dân chính là Đức, Pháp, và Ý. Vì những
giới hạn về thời tiết và đất đai, nông dân Thụy Sĩ chỉ có 4 tháng để
trồng trọt và chăn nuôi gia súc ngoài trời. Tuy nhiên, Thụy Sĩ sản xuất
kẹo xúc cù là và sữa bò ngon nhất thế giới. Ngoài ra, quốc gia này còn
có những sản phẩm công nghệ tinh sảo mà không một ai trên thế giới có
thể sánh kịp: đồng hồ, dao kéo, dụng cụ làm vườn, dụng cụ khoa học chính
xác và hóa phẩm. Dịch vụ ngân hàng tân tiến của Thụy Sĩ đã thu hút rất
nhiều ngoại tệ từ mọi nơi trên thế giới nhờ danh tính của khách hàng và
nguồn gốc của tiền tệ được bảo vệ tối đa. Tổng sản lượng nội địa tính
theo mãi lực quân bình của Thụy Sĩ là 326.5 tỉ Mỹ kim. Con số tương
đương tính theo đầu người là 42,900 Mỹ kim, cao hơn hầu hết các nước ở
Âu châu, kể cả Đức và Hoa-Kỳ, ngoại trừ Norway và Luxembourg.
Hòa
Lan là một nước rất nhỏ ở Âu châu nhưng cũng đáng chú ý, với dân số là
16 triệu người và diện tích là 41,500 Km2 mà một phần nằm dưới mặt nước
biển, nên máy bơm phải hoạt động 24 giờ mỗi ngày và 7 ngày mỗi tuần để
bơm nước ra khỏi phần đất này. Đất trồng trọt được chỉ chiếm có 26.5%,
tuy nhiên Hòa-Lan nổi tiếng về kỹ nghệ nông nghiệp. Quốc gia này xuất
cảng hoa tươi, hạt giống và các nông phẩm chế biến đi khắp thế giới.
Ngoài ra, Hòa Lan còn sản xuất dụng cụ kim loại, máy móc điện và điện
tử, hóa phẩm. Kỹ nghệ xây cất của Hòa Lan rất mạnh. Tổng sản lượng nội
địa cho mỗi người (GDP tính theo mãi lực quân bình) là 40,500 Mỹ kim.
Chúng
ta chắc chắn phải nghĩ ngợi rất nhiều về những nước nhỏ như Bỉ, Đan
Mạch, Hòa Lan, Thụy Sĩ, Tân Gia Ba, và Tân Tây Lan với dân số của tất cả
6 nước cộng lại chỉ bằng 54.6 dân số của Việt-Nam mà phải viện trợ cho
một quốc gia với 90 triệu dân.
Kiến thức
Sự
khác biệt giầu nghèo một phần do sự chênh lệch về kiến thức. Người có
kiến thức rộng, học lên trình độ cao, ra trường thường có việc làm tốt.
Tuy nhiên trên bình diện quốc gia, yếu tố này cũng không có một tầm quan
trọng đặc biệt.
Ấn Độ, Trung Quốc,
và ngay cả Việt-Nam sản xuất nhiều nhà trí thức, khoa học gia mà kiến
thức của họ không thua gì những đồng nghiệp của họ ở những nước Tây
phương. Những quản trị gia của các nước giầu nhận định rằng không có sự
khác biệt sâu xa về kiến thức của những đối tác viên của họ tại những
những nước nghèo và thường những chuyên viên ngoại quốc lại phải học hỏi
Kinh nghiệm địa phương từ những chuyên viên bản xứ vì sự khác biệt về
văn hóa và ngôn ngữ. Nhưng thiếu kinh mghiệm về quản trị là một yếu tố
quan trọng.
Phần lớn những phát minh
khoa học trên thế giới từ trước đến nay đều do những người Mỹ, Đức,
Pháp, Anh, Thuỵ Sĩ, và Ý thực hiện. Phát minh mới cần rất nhiều thời
gian. Tuy nhiên học hỏi những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật ngày nay
không phải là một vấn đề khó khăn. Người Nhật và Đaị Hàn và hiện nay là
Trung Quốc đã mau chóng hấp thụ và áp dụng những tiến bộ khoa học vào bộ
máy sản xuất của họ. Ngoài ra, chính sách đầu tư nước ngoài đã giúp
cho việc chuyển giao kỹ thuật cho các nước chủ trở nên dễ dàng. Thêm vào
đó, hàng năm cả trăm ngàn sinh viên từ các nước Á châu, Phi châu, Châu
Mỹ Latin du học tại các cường quốc kỹ nghệ. Không những các sinh viên
này học về những môn khoa học và kỹ thuật mà còn cả về những ngành quản
trị, kinh tề và tài chánh nữa. Với các phương tiện thông tin tân tiến
hiện nay, kiến thức được phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới. Sự cách
biệt về kiến thức ngày càng thu hẹp.
Sắc tộc
Sự
khác biệt giầu nghèo cũng phải do sự khác biệt về sắc tộc hay mầu da.
Một cách tổng quát người ta nhận thấy những quốc gia ở Bắc Mỹ và Châu Âu
là những nước giầu hơn cả. Mặt khác, những nước ở Phi châu tương đối
nghèo nhất, rồi đến các nước Á châu, Trung và Nam Mỹ. Nhưng không phải
nước nào ở Âu châu cũng giầu có. Liên Bang Nga, Serbia – Montenegro và
Moldova là những nước nghèo. Mặt khác không phải nước nào ở Á châu cũng
nghèo. Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, và Tân Gia Ba là những nước giầu.
Nhìn
về Tây Bán Cầu, từ Mexico trở xuống Cape Horn ở cực nam, không kể
Virgin Islands và Puerto Rico của Hoa-Kỳ, tổng sản lượng nội địa hàng
năm cho mỗi đầu người tính theo mãi lực quân bình của những quốc gia
trong vùng này ở trong từ khoảng 1,200 Mỹ kim tới 15,500 Mỹ kim. Nhưng
có nước tương đối giầu hơn là Barbados và Bahamas. Đây là hai nước nhỏ
mà đa số là dân da đen với tổng sản lượng nội địa theo mãi lực quân bình
trung bình hàng năm cho mỗi người lần lượt là 21,700 Mỹ kim và 28,600
Mỹ kim.
Như vậy người ta không có thể
kết luận rằng dân thuộc sắc tộc sống ở miền Bắc thường giầu có hơn dân
thuộc sắc tộc sống ở miền Nam. Nhìn một cách tổng quát, người ta có thể
có cảm tưởng rằng cách phân biệt này có phần đúng. Các nhà kinh tế học
thường hay dùng đến danh từ “North-South Trade” để chỉ sự buôn bán giữa
hai khối giầu và nghèo Bắc và Nam. Nhưng xét kỹ hơn cũng có một số
trường hợp không theo định luật này. Liên Bang Nga, Mongolia, và Trung
Quốc ở miền cực Bắc, nhưng là những nước nghèo. Nếu so sánh những quốc
gia lân bang với nhau, người ta cũng thấy có những nước miền Bắc nghèo
hơn nước láng giềng ở phương Nam như Bắc Hàn so với Nam Hàn, Miến Điện
so với Thái Lan, Bắc Việt so với Nam Việt (trước 1975), Nepal so với Ấn
Độ, hoặc Afghanistan so với Pakistan. Úc châu và Tân Tây Lan ở miền Nam
Bán Cầu là hai trường hợp đặc biệt vì công dân của hai nước này phần
lớn thuộc gốc người miền Bắc là Anh quốc.
Chính trị
Thể
chế chính trị rõ ràng có ảnh hưởng đến sự giầu nghèo. Kinh tế gia đoạt
giải Nobel người Ấn Độ Amartya Sen nghiên cứu về nghèo đói và dân chủ đã
đưa ra một lời tuyên bố nổi tiếng: “Không bao giờ có một nạn đói nào
đáng kể xẩy ra ở một nước độc lập, dân chủ và có tự do báo chí” . Nhân
loại đã chứng kiến nhiều nạn đói khủng khiếp, nhưng hầu hết xẩy ra dưới
những chế độ độc tài: (1) Ireland dưới sự đô hộ độc đoán của người Anh
(1845-1850). Hậu quả: 1 triệu ngưới Ái Nhĩ Lan chết và 2 triệu người di
dân qua Mỹ châu; (2) Nga Sô dưới chế độ Cộng Sản và hạn hán (1921). Hậu
quả: 5.1 triệu người chết; (3) Ukraine do kế hoạch nông trường tập thể
của Cộng Sản Liên Sô (1932-1933). Hậu quả: 7-10 triệu người chết; (4)
Ethiopia dưới chế độ Cộng Sản và hạn hán (1984-1985). Hậu quả: 8 triệu
người chết; (5) India: liên tục trong thời gian người Anh chiếm đóng cho
tới khi Ấn Độ được độc lập vào năm 1947; (6) Trung Quốc do kế hoạch
“Bước Nhẩy Vọt” (1958-1961). Hậu quả: 30 triệu người chết; (7) Somalia
dưới chế độ độc tài (1992). Hậu quả: 1.5 triệu người chết đói; (8) Bắc
Hàn dưới chế độ Cộng Sản (1996 đến nay). Đây không phải là thiên tai mà
tất cả là tai họa do con người tạo ra.
Riêng
tại Việt-Nam nạn đói xẩy ra hai lần kể từ Đệ Nhị Thế Chiến đến nay: (1)
dưới sự đô hộ tàn bạo và độc tài của quân phiệt Nhật và thực dân Pháp
(1945). Hậu quả: một triệu người chết; (2) trong thời kỳ kinh tế xã hội
chủ nghĩa (1975-1986). Kết quả: nạn đói đe dọa từ Bắc vào Nam, trầm
trọng hơn hết là những vùng núi xa xôi hẻo lánh. Nhà nước phải lên tiếng
kêu gọi Liên Hiệp Quốc giúp thực phẩm và một triệu người vượt biên.
Chế
độ kinh tế chỉ huy tại những nước Cộng Sản đã làm cho hầu hết những
nước này trở nên nghèo đói. Nổi bật nhất là Liên Bang Sô Viết và Đông
Đức. Một số các nước Cộng Sản trước đây sau khi trở thành những nước tự
do dân chủ đã trở nên giầu có hơn trong hơn một thập niên vừa qua: Czech
Republic, Estonia, Poland, Hungary, Slovakia, và Slovania. Trung Quốc
và Việt-Nam một mặt cải tổ kinh tế, mặt khác vẫn chủ trương độc tài về
phương diện chính trị. Chế độ kinh tế chỉ huy tuyệt đối đã được hủy bỏ
nhưng nhà nước vẫn chủ trương đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế. Tham nhũng, hiệu năng thấp kém, và khu vực tư nhân bị đối sử phân
biệt là những hàng rào cản cho sự phát triển. Mức sống của dân chúng đã
được cải thiện một phần nhưng chậm chạp và mất quân bình. Sự chênh lệch
giầu nghèo mỗi ngày một gia tăng. Cuba mới đây chuẩn bị chuyển sang kinh
tế thị trường. Cả thế giới chỉ còn một nước duy nhất còn tuyệt đối
trung thành với chế độ chuyên chính vô sản là Bắc Hàn. Tổng sản lượng
nội địa cho mỗi người tính theo mãi lực quân bình của Bắc Hàn là 1,800
Mỹ kim vào năm 2009, một trong những nước nghèo nhất thế giới.
Kết luận
Tuổi
tác của quốc gia, tài nguyên thiên nhiên, và sắc tộc không phải là
những yếu tố sống chết định đoạt sự tiến bộ của một quốc gia. Căn bệnh
nghèo đói có những nguyên nhân trực tiếp như thể chế chính trị, chính
sách kinh tế, xã hội và giáo dục của mỗi quốc gia. Nhưng chính trị và
chánh sách bị chi phối bởi địa lý và văn hóa. Như sẽ được trình bầy
trong bài “văn Hóa Chậm Tiến”, văn hóa là yếu tố sâu sa làm cho một quốc
gia chậm tiến.
Nếu một dân tộc có
một bản chất vững mạnh, một nhân sinh quan đúng đắn, dân tộc đó có thể
vượt qua được những hoàn cảnh khó khăn và những nguyên nhân trực tiếp
của sự nghèo đói.
© Nguyễn Quốc Khải
© Đàn Chim Việt
—————————————————
[1] UNDP, “Human Development Report 2010 —20th Anniversary Edition”, 2010.
[2] Tất cả những số liệu về tổng sản lượng nội địa, dân số, diện tích và tôn giáo dùng trong bài viết này đều liên hệ với năm 2010 và lấy từ tài liệu “World Factbook 2010” do cơ quan CIA soạn và lưu trữ trên mạng lưới www.cia.gov.
[3] Mỗi thùng (barrel) chứa 42 gallons dầu thô.
[4] CIA, “World Factbook – Country Comparison: Oil Proved Reserves, March 2011.
[5] Tổng sản lượng nội địa (không tính theo căn bản mãi lực quân bình) cho mỗi đầu người là 1,100 Mỹ kim vào năm 2010 so với 430 Mỹ kim vào năm 2002.
[6] Amartya Sen and Amartya K. Sen, “Poverty and Famines – an Essay on Entitlement and Deprivation”, Oxford University Press, London, 1983.
[7] Nguyễn Quốc Khải, “Liệu cải tổ kinh tế và mở cửa buôn bán với thế giới sẽ mang lại tự do dân chủ cho Việt-Nam hay không?” Thế Kỷ 21, số 176, Westminster, California: December 2003.
[2] Tất cả những số liệu về tổng sản lượng nội địa, dân số, diện tích và tôn giáo dùng trong bài viết này đều liên hệ với năm 2010 và lấy từ tài liệu “World Factbook 2010” do cơ quan CIA soạn và lưu trữ trên mạng lưới www.cia.gov.
[3] Mỗi thùng (barrel) chứa 42 gallons dầu thô.
[4] CIA, “World Factbook – Country Comparison: Oil Proved Reserves, March 2011.
[5] Tổng sản lượng nội địa (không tính theo căn bản mãi lực quân bình) cho mỗi đầu người là 1,100 Mỹ kim vào năm 2010 so với 430 Mỹ kim vào năm 2002.
[6] Amartya Sen and Amartya K. Sen, “Poverty and Famines – an Essay on Entitlement and Deprivation”, Oxford University Press, London, 1983.
[7] Nguyễn Quốc Khải, “Liệu cải tổ kinh tế và mở cửa buôn bán với thế giới sẽ mang lại tự do dân chủ cho Việt-Nam hay không?” Thế Kỷ 21, số 176, Westminster, California: December 2003.
No comments:
Post a Comment