Tuesday, April 12, 2011

Lựa chọn của Trung Hoa – Việt Nam

Bài của Jane Shi -Loạt bài mang tên Lựa chọn của Trung Hoa của chúng tôi viết về những quốc gia tiêu thụ hàng thủ công nghiệp của Trung Hoa tại châu Á nhưng bây giờ lại là những nơi bắt đầu chạy đua với Trung Hoa do họ có công lao động thấp, có cơ sở hạ tầng và năng lực vận hành. Trong kỳ này chúng tôi xem xét trường hợp Việt Nam.



Do chỗ nguyên liệu thô và giá dầu thô tăng lên, nền kinh tế phần lớn dựa trên thủ công nghiệp của Việt Nam đã phải vật lộn để giữ cân bằng phát triển bên cạnh việc tập trung vào nhu cầu kiểm soát lạm phát.

Tương tự như Trung Hoa, Việt Nam là một nhà nước cai trị độc đảng. Nước này đã có được sự ổn định tương đối về chính trị, chỉ thỉnh thoảng bùng nổ những tranh chấp của các viên chức chính trị khi gần tới những thời kỳ thay đổi về cắt đặt các chức vụ, những cuộc phản đối việc chiếm đất đai mang tính gây hấn, và tình trạng quan liêu hủ bại ở cả cấp quốc gia và cấp địa phương.

Những vấn đề nổi cộm trong việc kiểm soát xã hội vào thời điểm này và vào một thời kỳ trong tương lai khả dĩ dự đoán trước được gồm có những hạn chế chặt chẽ hơn và khủng bố các nhóm tôn giáo và dân tộc thiểu số cùng với sự chiếm đoạt các sở hữu tài sản của tôn giáo. Tờ New York Times gần đây công bố một tường trình về những cuộc đàn áp gia tăng mạnh mẽ các cuộc tụ tập tôn giáo bí mật của người Thượng – những bộ tộc dân thiểu số sống ở vùng núi – những người dân đông đảo đã cải đạo sang đạo Ki-tô từ 500 năm qua. Cùng với sự phát triển mạnh hơn về kinh tế và việc dân vùng thấp bành trướng lên những vùng sở hữu lâu đời của dân tộc thiểu số, phương diện tôn giáo này tác động mạnh đến các quyền sở hữu đất đai và sở hữu các tài sản khác nữa của các nhà thờ.

Những tranh chấp lãnh thổ ở vùng biển Nam Hải (“biển Đông” – ND chú thích) giữa Việt Nam, Trung Hoa, Đài Loan, Malaysia, Philippines và Brunei sẽ tiếp tục là một thách thức đối với khả năng của Việt Nam trong sự phát triển các mối quan hệ hữu nghị đối ngoại với các nước láng giềng. Khu vực tranh chấp này gồm cả những con đường giao thương mật độ cao, vùng đánh cá, và rất có thể là cả những khu trầm tích dầu mỏ và khí đốt thiên nhiên. Những cuộc thảo luận đa phương đi tìm giải pháp cho tranh chấp hiện đang được khối ASEAN thúc đẩy mạnh mẽ.

Nền kinh tế năm 2010 của Việt Nam gặp những vấn đề lớn về lạm phát và mất giá đồng tiền. Giá tiêu dùng tăng 13,89 phần trăm vào tháng Ba năm nay so với cùng kỳ năm ngoái và trông đợi năm 2011 sẽ tăng trung bình 14,3 phần trăm so với 9 phần trăm năm 2010. Lạm phát tăng nhanh là do cả hai nguyên nhân giá cả tăng cao hơn đối với các mặt hàng trên phạm vi thế giới và áp lực lên đồng tiền Việt Nam. Tổ Tình báo Kinh tế (Economist Intelligence Unit – của báo The Economist – ND chú thích) ước tính giá dầu thô sẽ tăng 13 phần trăm và lương thực tăng 27 phần trăm vào năm 2011. Trong ba tháng đầu năm nay, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam đã cho tăng 15 phần trăm giá điện, 17 phần trăm giá xăng và 24 phần trăm giá dầu diesel.

Không có lòng tin vào tiền đồng VN cũng tạo ra tình trạng khắp cả nước đổ xô vào các ngân hàng có dự trữ ngoại tệ khi đồng đô-la Hoa Kỳ chiếm tới khoảng 20 phần trăm đồng tiền được dùng để giao dịch trong nước. Tỷ giá chuyển đổi tiền đồng sang USD được dự đoán là đồng tiền Việt Nam sẽ mất giá, từ 19.127 VND ăn 1 US$ sang 23.873 VND ăn 1US$ vào năm 2015. Tháng Mười năm ngoái, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund) ước tính dự trữ ngoại hối của Việt Nam là 14,11 tỷ US$, tương đương với dưới hai tháng nhập khẩu. Với dự trữ thấp như vậy và với sự liên tục thâm hụt thương mại, chính phủ bị ép phải tìm một giải pháp dễ thực hiện.

Tuy nhiên, trong những nỗ lực nhằm cắt giảm lạm phát, hồi tháng Hai năm nay, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã thông qua một giải pháp mang tính chính sách nhằm hạn chế thâm hụt ngân quỹ xuống dưới 5 phần trăm GDP, cắt giảm gia tăng tín dụng xuống dưới 20 phần trăm, và hạ bớt việc gia tăng cung cấp tiền xuống từ 15 đến 16 phần trăm. Ngân hàng nhà nước Việt Nam hiện nay đang yêu cầu tất cả các doanh nghiệp Nhà nước, là bộ phận tạo ra khoảng 40 phần trăm GDP hằng năm, phải bán lại cho các Ngân hàng số US đô-la họ nắm giữ. Thâm thủng đã hạ xuống từ 6,2 phần trăm xuống 5,9 phần trăm vào năm 2010 so với năm trước, nhưng do chỗ những chi tiêu cho hạ tầng cơ sở và cho phúc lợi xã hội vẫn còn cao nên sẽ còn phải đánh vật nhiều để hạ sự thâm hụt xuống dưới 5 phần trăm.

Sản xuất kinh tế và năng lực cạnh tranh có thể thủ tiêu điều các nhà làm chính sách vẫn nhấn mạnh đối với vấn đề kiểm soát lạm phát, như ta được thấy trong những gì vừa xảy ra và những dỡ bỏ sớm các hạn chế ngay khi xuất hiện các dấu hiệu hồi phục kinh tế. Chẳng hạn như, sau đợt sóng khủng hoảng tín dụng đầu tiên năm 2009, Việt Nam bứt phá lên cho phát triển nhanh, dẫn tới kết quả là cuối năm 2010 lạm phát lên hai con số. Lạm phát vẫn được trông đợi là vẫn còn cao, trung bình khoảng 13,3 phần trăn trong cả năm 2011, và sẽ không có hạ nhiệt cho tới ít nhất là năm 2012, với tỷ lệ trung bình trông đợi là 6,8 phần trăm.

Tính chất nhất quán trong các chính sách tiền tệ ở Việt Nam giỏi lắm là có kết quả “lốm đốm”, do chỗ chính phủ phải vật lộn với vô số vấn đề về thuế và tiền tệ. Tỷ lệ nợ công chưa trả xong năm 2010 là gần 57 phần trăm của GDP. Dù rằng xuất khẩu có gia tăng 25 phần trăm từ năm 2009 qua năm 2010, song tổng giá trị nhập khẩu vẫn cao hơn. Tháng Ba, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu các ngân hàng từng bước hạ thấp các món cho vay vào “khu vực phi sản xuất” – thí dụ như bất động sản và chứng khoán – xuống 22 phần trăm vào cuối tháng Sáu và xuống 16 phần trăm vào cuối năm 2011. Cũng yêu cầu thực hiện tăng gấp đôi các dự trữ theo định mức hiện nay từ 1 tới 3 phần trăm, nếu không làm được thì sẽ bị phạt.

Nhìn chung, tỷ lệ phát triển kinh tế trung bình của Việt Nam được trông đợi là 7,2 phần trăm trong vòng 5 năm tới. Gia tăng trong các khoản đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng – nhớ thị trường lao động tốt hơn và lương cao hơn – được trông đợi sẽ đóng góp cho một nền kinh tế mạnh hơn của Việt Nam. Lương tối thiểu tăng 14 phần trăm, có hiệu lực thi hành từ tháng Năm năm nay, sẽ nâng gía trị lao động hàng tháng từ VND 730.000 lên VND 830.000 cho mỗi người lao động.

Chính phủ cũng có bước tiến trong vòng năm năm tới sẽ thực hiện tự do hóa và nửa-tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù việc tiến hành chậm và rất chú ý bảo đảm sự lành mạnh về tài chính sau vụ Vinashin xin khất trả nợ nhóm chủ nợ quốc tế đợt đầu vào năm 2010.

Mối quan tâm của nước ngoài đến hàng hóa thủ công nghiệp Việt Nam vẫn có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư từ Trung Hoa, Hoa Kỳ và từ các nền kinh tế phát triển khác. Bán lẻ và quần áo, hàng tiêu dùng, kim loại và khai mỏ, và các mặt hàng công cụ và công nghiệp chiếm phần lớn tổng sản phẩm xuất khẩu năm 2009 đạt 13 phần trăm, tương ứng từng loại hàng nói trên là 10,5 phần trăm (đối với bán lẻ và trang sức – ND thêm), 9 phần trăm (đối với hàng tiêu dùng, kim loại và khai mỏ – ND thêm) và 8,5 phần trăm (đối với các mặt hàng công cụ và công nghiệp – ND thêm). Hoa kỳ là nước đối tác xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam với 20 phần trăm mặt hàng xuất khẩu hướng sang các bến cảng Hoa Kỳ năm 2010. Trung Hoa bỏ xa nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với 23,8 phần trăm trong toàn bộ nhập khẩu vào Việt Nam năm 2010.

Trong khi Trung Hoa hiện thời đang chuyển đổi nền kinh tế của nó lên một trình độ phát triển sản xuất cao hơn trong những khu vực đụng nhiều hơn đến kỹ thuật, như Công nghệ Thông tin và những khu vực dịch vụ giá trị gia tăng, thì Việt Nam có lực lượng lớn lao động thiếu kỹ năng, lực lượng này có vai trò cạnh tranh cao khi tham gia sản xuất trong những ngành công nghiệp kỹ năng thấp như bán lẻ và quần áo.

Tuy Việt Nam tụt lại sau Trung Hoa trong những hàng đem chào có trình độ gần gũi với những khách hàng và những nhà cung cấp có kinh nghiệm, (tuy Việt Nam) không có hệ thống phức hợp xe lửa – hàng không – đường biển, không có những khả năng hậu cần to lớn, không cung ứng nhanh được cho sản xuất và thị trường, không có hạ tầng và khả năng cung cấp năng lượng rộng lớn, song Việt Nam là một quốc gia có đường bờ biển có giá trị để thu hút đầu tư, đặc biệt trong việc đóng gói và xuất khẩu hàng hóa, nhất là khi Trung Hoa gia tăng các nỗ lực di chuyển các trung tâm đóng gói và lượng lao động trong đại lục về phía Tây vì chi phí gia tăng ở các vùng ven biển.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới trong Chỉ số Thuận lợi Kinh doanh năm 2011 (Ease of Doing Business index) Việt Nam đã được nâng thêm 10 điểm so với năm ngoái lên thành 78 điểm năm nay. Trong những địa hạt như khởi nghiệp kinh doanh, thương lượng xin giấy phép xây dựng, nhận tín dụng, và đóng thuế, không nghi ngờ gì hết, Việt Nam đang phát triển thành một môi trường kinh doanh tốt hơn cho các nhà đầu tư.

Trong khi quốc gia và chính phủ Việt Nam vẫn đương tiếp tục xử trí những vấn đề khó khăn xoắn xuýt vào nhau thuộc chính sách tiền tệ, phúc lợi xã hội, và những quan hệ với các quốc gia láng giềng, thật khó mà xác định được tác động chính xác của các vấn đề đó với những nhà đầu tư nước ngoài lên môi trường kinh doanh trong tương lai ở Việt Nam. Nhưng một khi chính phủ Việt Nam chú tâm đến năng lực mạnh hơn về cạnh tranh kinh tế và chú ý đến các giá trị lớn hơn về hàng xuất khẩu, thì dường như vấn đề môi trường sẽ có bước tiến đầy thuận lợi.

Dezan Shira & Associates là một trong những công ty dịch vụ cửa hàng chuyên nghiệp lớn nhất châu Á cung cấp tư vấn đầu tư kinh doanh trực tiếp, thuế, kế toán, trả lương và cung cấp dịch vụ chu đáo cho các khách hàng Trung Hoa, Hồng Kông, Việt Nam và Ấn Độ.

Tại Việt Nam, công ty có các trụ sở làm việc tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Để có tư vấn về mở doanh nghiệp và thâm nhập thị trường ở Việt Nam, xin liên hệ vietnam@dezshira.com.

Người dịch: Đại Phúc
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011

No comments:

Post a Comment