Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
– Trong có một tuần mà tin xấu dồn dập trên khắp các mặt trận kinh tế
của Việt Nam khiến người ta nêu câu hỏi về sách lược phát triển của xứ
này.Vũ Hoàng tìm hiểu sự thể qua phần trao đổi sau đây cùng chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa, tư vấn kinh tế của đài Á châu Tự do.
Quản lý kém
RFA photo Trụ sở chính của tập đoàn tàu thủy Vinashin tại Hà Nội. Ảnh chụp tháng 4/2012.
Vũ Hoàng: Xin kính chào
ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, những tin tức dồn dập tuần qua về kinh
tế Việt Nam khiến nhiều thính giả muốn biết về nguyên nhân và hậu quả.
Từ bên ngoài thì truyền thông quốc tế nói đến sự sa sút của Việt Nam sau
khi đạt một số thành tựu ngoạn mục về tăng trưởng. Tiêu biểu là hai bài
nhận định của tờ báo chuyên đề về kinh tế và kinh doanh là The
Economist của Anh và Forbes của Mỹ mà đài Á châu Tự do đã có dịp giới
thiệu hôm Chủ Nhật mùng tám.
Từ bên trong, ban Thanh tra Chính phủ báo
cáo về những sai sót trong các tập đoàn kinh tế nhà nước khiến công quỹ
bị mất có thể đến một tỷ rưỡi, nếu tính bằng đô la. Trong khi ấy, không
khí chung là sự bải hoải của các doanh nghiệp sản xuất, được thấy rõ
nhất qua sự kiện là cả Ngân hàng Thế giới lẫn Chính quyền Việt Nam đã
nói đến mấy vạn doanh nghiệp bị phá sản mà con số thật là bao nhiêu thì
dường như chưa ai rõ.
Thưa ông, trong hoàn cảnh đó, người ta có
thể nêu câu hỏi là vì sao lại như vậy? Phải chăng vì Việt Nam cũng đang
bị hiệu ứng suy trầm toàn cầu khởi sự năm 2008 hay là vì lý do gì khác?
Trong chương trình chuyên đề tuần này, Diễn đàn Kinh tế xin yêu cầu ông
trình bày cho một cái nhìn toàn cảnh về nguyên nhân của những khó khăn
dồn dập tại Việt Nam hiện nay.
Nói chung thì hệ thống quản lý vĩ mô bị rối loạn và biện pháp bơm tiền cấp cứu cũng tựa bơm nước: nơi thì hạn hán, nơi lại bị úng thủy, sử dụng không đúng mục tiêu và gây thất thoát khổng lồ cho công quỹ.Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết, tôi xin được trở lại khái niệm “nhân duyên” mà mình hay nhắc đến trên diễn đàn này.
Trước hết, nguyên nhân là loại động lực
nội tại khiến một sự việc nào đó sẽ tất yếu xảy ra. Duyên là yếu tố thời
cơ, hay điều kiện khách quan có thể là từ bên ngoài, khiến sự biến ấy
lại xảy ra lúc này. Tôi xin lấy một thí dụ mong là dễ hiểu: một cơ thể
mắc bệnh nội thương trầm trọng thì thế nào cũng có ngày bị quỵ. Đó là
cái nhân. Khi thời tiết thay đổi chẳng hạn thì đấy là cái duyên làm căn
bệnh dễ phát tác nhất. Vì vậy, bảo rằng vì thời tiết nóng lạnh mà bệnh
nhân bị đau nặng đến độ thương vong thì không hẳn là sai mà chắc chắn là
không đúng.
Kinh tế Việt Nam có những nhược điểm tích
lũy từ quá lâu và đấy là cái nhân. Kinh tế toàn cầu bị suy trầm khiến
số cầu sút giảm nên đòi hỏi chính quyền phải chống đỡ và do những yếu
kém nội tại bị khỏa lấp bên dưới mà biện pháp chống đỡ càng dẫn tới nguy
cơ khủng hoảng hiện nay, và đó là cái duyên. Bây giờ, ta sẽ lần lượt mở
ra cái mối nhân duyên đó.
Vũ Hoàng: Chúng tôi hiểu
ra cái chuỗi lý luận của ông qua cách trình bày. Khi tạp chí kinh tế
The Economist nói về hoàn cảnh từ anh hùng về tăng trưởng của Việt Nam
mà nay rơi vào số không, hoặc khi tờ Forbes viết là Việt Nam mất sự sáng
láng đầy hấp dẫn cho giới đầu tư thì phải chăng họ chỉ tổng hợp những
điều mà nhiều nhà quan sát khác đã thấy từ trước đó rồi?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng
ta không quên rằng ngay giữa giai đoạn còn lạc quan hồ hởi, ít ra là
của chính quyền Việt Nam từ cuối năm kia, thì nhiều công ty lượng cấp
tín dụng đã đánh sụt mức tín nhiệm của trái phiếu Việt Nam xuống hàng
giấy lộn hay “junk bonds”.
Chúng ta cũng khó quên là trước khi có
chuyện phanh phui những sai phạm của các tập đoàn kinh tế nhà nước khiến
công quỹ bị thất thoát đến cả tỷ rưỡi – mà con số này thật ra còn là
thấp – thì ta đã thấy vụ khủng hoảng của tập đoàn Vinashin với khoản nợ
lên tới bốn tỷ đô la.
Cũng thế, từ năm ngoái diễn đàn này đã
nhắc đến hiện tượng gọi là “chết lâm sàng” của các doanh nghiệp sản xuất
tại Việt Nam khi phải vay vốn kinh doanh với lãi suất từ 20 đến 22%
chưa kể tiền chè lá trả dưới gầm bàn. Sau cùng, từ nhiều năm qua, ta
cũng đã thấy và phân tích sự kiện gọi là “liều thuốc đổ bệnh” khi chính
quyền cấp phát tín dụng bừa phứa để kích thích kinh tế rồi gây hậu quả
lạm phát khiến nhà nước lật đật nâng lãi suất và xiết tín dụng khiến
doanh nghiệp tư nhân không thể vay tiền và chết khát trong khi các đại
gia chung quanh hệ thống doanh nghiệp nhà nước vẫn có tiền trút vào loại
dự án vô giá trị, hoặc thổi tiền vào thị trường đầu cơ.
Nói chung thì hệ thống quản lý vĩ mô bị
rối loạn và biện pháp bơm tiền cấp cứu cũng tựa bơm nước: nơi thì vẫn bị
hạn hán là doanh nghiệp đang phá sản, nơi lại bị úng thủy là nạn sai
phạm, sử dụng không đúng mục tiêu và gây thất thoát khổng lồ cho công
quỹ.
Tham nhũng cao
Tòa nhà EVN 33 tầng ở Hà Nội, nơi từng xảy ra vụ cháy dữ dội hôm 15/12/2011. RFA photo
Vũ Hoàng: Khi ông nhắc
lại hiện tượng này từ nhiều năm qua thì thính giả có thể phần nào hình
dung ra tương quan nhân quả trong cơ cấu mà yếu tố thời cơ hay chu kỳ
suy trầm chỉ là cái duyên khiến mọi sự cùng phát tác lúc này. Bây giờ,
suy ngược lên căn nguyên của vấn đề thì đâu là nguyên nhân chính, hay
cái nút thắt mà mình gỡ ra thì có thể ít nhiều giải quyết được vấn đề?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi
còn nhớ là ngay từ năm 2008, diễn đàn này của chúng ta đã nói đến việc
nhân cơ hội suy trầm toàn cầu mà tiến hành cải cách từ cơ bản thì may ra
sẽ thoát hiểm. Đấy là khuyến cáo lạc quan vì còn tin vào thiện chí và
khả năng ứng phó của giới hữu trách. Kết cuộc thì ta chưa thấy thiện chí
còn khả năng thì lại rất tệ, chưa nói đến trở lực của các nhóm quyền
lợi ở vào cái thế ngồi mát ăn bát vàng và cố tình cưỡng chống cải cách
và thậm chí trục lợi nhờ sự yếu kém này.
Rốt cuộc thì căn nguyên sâu xa nhất của
kinh tế Việt Nam chính là cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa” với
hậu quả là sự hiện hữu bất công của khu vực kinh tế nhà nước vốn dĩ bất
lực về quốc kế dân sinh vì có năng suất đầu tư thấp mà tham nhũng cao.
Cái định hướng tai hại ấy mới giải thích vì sao mà từ các tổng công ty
người ta còn lập ra 12 tập đoàn kinh tế nhà nước là những trung tâm phúc
lợi riêng của một thiểu số.
Vũ Hoàng: Chúng tôi quả
là có nhớ rằng diễn đàn này đã nhiều lần nói đến yêu cầu cải cách từ cái
đầu, tức là từ dư duy mang đầy quán tính về sự ưu việt của mô hình phát
triển. Và biện pháp đầu tiên là cải cách doanh nghiệp, tức là tái cơ
cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, khu vực vẫn được coi là chủ đạo
hay chủ lực của nền kinh tế quốc dân.
Nhưng một số quốc gia, nổi bật là Trung
Quốc, đã từng tạo ra thành tựu kinh tế khi xây dựng chiến lược phát
triển dựa trên vai trò chủ động của nhà nước và hệ thống quốc doanh.
Song song, các quốc gia tiên tiến đã trông cậy quá nhiều vào thị trường
tự do thì lại khủng hoảng nặng từ nhiều năm nay. Nếu như vậy, làm sao
chứng minh hay thuyết phục người ta về nhược điểm của chiến lược gọi là
“định hướng xã hội chủ nghĩa”?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa
đấy là lý do mà năm năm qua chúng ta thường xuyên nói đến và gần như nói
ngược về trào lưu cải cách kinh tế cho tự do hơn. Chỉ vì ta dễ nhìn vào
hiện tượng biểu kiến mà không thấy bản chất bất công và bất lực của
“định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Trước hết, không ai minh xác nổi cái định
hướng ấy là gì, kể cả giới lãnh đạo Hà Nội. Một cách lý thuyết và lý
tưởng, ta có thể nghĩ “định hướng xã hội chủ nghĩa” hàm ý bênh vực, bảo
vệ hoặc nâng đỡ đa số người dân nghèo đói nhất xã hội hầu phần nào cân
bằng lại cái thế mạnh của thị trường và của thiểu số giàu có nhất. Sự
thật xảy ra hoàn toàn trái ngược về mặt xã hội: chính cái định hướng ấy
lại khiến đa số người dân bị bỏ rơi, thậm chí bị bóc lột, là tình trạng
đang xảy ra tại cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, là nơi có tỷ lệ bất công xã
hội cao nhất trong các nước đang phát triển.
Về mặt kinh tế, cái gọi là định hướng xã
hội chủ nghĩa của Việt Nam hoặc của Trung Quốc chỉ là nhân danh người
dân vô quyền trong xã hội mà khai thác quy luật thị trường có chọn lọc
theo cái hướng phát triển hệ thống tư bản nhà nước. Định hướng ấy mặc
nhiên củng cố thế lực của một thiểu số được bảo vệ về chính trị và nâng
đỡ về kinh doanh nên nó vừa bất công vừa bất lực.
Nhiều nước Đông Á từng áp dụng chiến lược
này khi khởi phát, cũng với thành tích ban đầu rất cao và sau đó bị
khủng hoảng, như Nhật Bản năm 1990 hay các nước kia vào năm 1997. Nhưng
dù sao mấy xứ Đông Á đó vẫn sáng suốt về xã hội khi họ không để mở rộng
khoảng cách giàu nghèo trong tiến trình phát triển và họ vẫn có dân chủ
nên khủng hoảng kinh tế không dẫn tới sự sụp đổ của cả chế độ và lãnh
đạo mới đã có thể cải sửa với kết quả khả quan hơn.
Vũ Hoàng: Nói về chuyện
cải sửa, thưa ông, hình như là lãnh đạo Việt Nam từ trong đảng ra tới
nhà nước cũng đã nói đến việc tái cấu trúc kinh tế và dư luận các chuyên
gia đều ngày càng nêu ra nhiều ký kiến thẳng thắn hơn về yêu cầu cải
tổ. Ông nghĩ sao về hy vọng đó cho Việt Nam.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước
hết, từ dưới lên thì ta thấy rằng dân chúng ngày càng bày tỏ sự thất
vọng một cách công khai thậm chí dữ dội hơn. Tôi thấy rằng đây là cần
thiết vì nếu người dân cứ cúi đầu mãi thì họ tiếp tục là bầy cừu bị cạo
lông, là đám sinh vật bị bóc lột mà không dám cãi.
Thứ hai, các chuyên gia ở trong nước cũng
thấy rõ những nguyên nhân và hậu quả của tệ nạn ngày nay. Khi thấy
người dân thấp cổ bé miệng mà còn dám tổ chức biểu tình khiếu kiện và
công nhân còn đình công tập thể thì họ cũng có can đảm hơn mà nói ra một
phần của sự thật. Nhưng họ khó nói nhiều hơn và khó làm được gì trong
tiến trình quyết định nên ta cũng thông cảm.
Ở cấp cao nhất thì ngoài lời kêu gọi
chung chung thì vẫn là ngôn ngữ kiểu lưỡi gỗ, sau Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương hoặc hội nghị về chỉnh đốn đảng. Tôi nghĩ là lãnh đạo Hà Nội
chưa đổi mới tư duy nên không dám cải cách từ cái đầu xuống. Nhưng tai
hại hơn thế còn có hiện tượng khác. Đó là nhân cơ hội khó khăn nguy ngập
mà các phe nhóm về quyền lợi đã tranh giành ảnh hưởng và triệt hạ lẫn
nhau, rồi dùng chuyện diệt trừ tham nhũng làm lý cớ.
Ví dụ, việc cải cách doanh nghiệp, cụ thể
là cổ phần hóa để tư nhân hoá hệ thống doanh nghiệp nhà nước, được đề
xướng từ hai chục năm trước mà chẳng có kết quả. Thậm chí còn giật lùi
là sự tăng cường các tổng công ty nhà nước thành tập đoàn kinh tế chiến
lược trong tay quản lý của Thủ tướng kể từ năm 2006. Nếu gọi đó là “thí
điểm”, hay điểm thí nghiệm, thì sáu năm sau là ngày nay, người ta tất
nhiên đã thấy kết quả tai hại và phải sửa sai chứ?
Khó thay đổi
Người nghèo buôn bán trong một khu chợ nhỏ ở Hà Nội. Ảnh chụp tháng 4/2012. RFA photo
Vũ Hoàng: Ông nghĩ rằng vì sao mà người ta khó thể sửa sai?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Kinh
tế học có nói đến một chế độ “kinh tế quả đầu”, một từ Hán-Việt hơi khó
hiểu. Thật ra, đó là chế độ hay thị trường mà một thiểu số nắm giữ cái
thế độc quyền thực tế. Nhóm thiểu số này có cơ sở là các tập đoàn kinh
tế nhà nước, chung quanh là một chùm doanh nghiệp của thân tộc hoặc tay
chân thân tín ngụy danh là tư doanh trong sản xuất hay ngân hàng nhưng
thực tế là mạng lưới quyền lợi cấu kết.
Ở trên, các nhóm thiểu số này có thế lực
từ trên Bộ Chính trị xuống. Họ có thể tranh đoạt quyền lợi với nhau với
lý cớ – tức là lý do không thật – như điều tra về tham nhũng hoặc sai
phạm của phe nhóm kia và đưa ra vài biện pháp kỷ luật để nhất thời làm
nguôi ngoai sự bất mãn của dân chúng hoặc đưa người lên thay. Nhưng về
cơ bản thì không ai muốn thay đổi cả hệ thống vì ai ai cũng có quyền lợi
hay thân tộc nằm trong hệ thống đó. Kết quả là người ta gây ra nhiễu âm
ồn ào mà sau cùng chẳng sửa sai nổi những chứng tật bên trong vì chính
là chứng tật đó mới đưa họ lên vị trí lãnh đạo.
Vũ Hoàng: Hình như là ông có một kết luận khá bi quan về triển vọng cải cách của Việt Nam.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi
nghĩ đến một sự thể khách quan chứ không bi quan hay lạc quan về tương
lai mà có lẽ rất nhiều người khác kể cả ở trong đảng Cộng sản Việt Nam
cũng thấy ra.
Nhưng về cơ bản thì không ai muốn thay đổi cả hệ thống vì ai ai cũng có quyền lợi hay thân tộc nằm trong hệ thống đó.Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Đó là nếu đảng và tay chân trong bộ máy
nhà nước và hệ thống kinh tế mà không sửa đổi thì sẽ sụp đổ. Về ý thức
hệ thì mọi người đều thấy ra từ 20 năm trước khi hệ thống Xô viết tự tan
rã trên sự ruỗng nát nội tại của nó. Về thực tế thì giải pháp cứu vãn
kiểu Bắc Kinh với vai trò tư bản nhà nước cũng đi hết sự vận hành với vụ
phá sản của tư doanh Ôn Châu, vụ khủng hoảng chính trị dưới cơ sở tại Ô
Khảm và sự sụp đổ của mẫu mực Trùng Khánh vừa qua. Không ai muốn Việt
Nam bị loạn bây giờ, nhưng lãnh đạo Hà Nội đang tích lũy mầm loạn mà vẫn
cố bám lấy con thuyền sắp chìm và còn đòi giành chỗ tốt trong sự mục
nát chung. Bi hay lạc quan vì vậy còn tùy vào tầm nhìn gần hay xa….
Vũ Hoàng: Đài Á châu Tự do xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa về cuộc trao đổi này.
No comments:
Post a Comment