Warren I. Cohen - Phê bình cuốn On China (Bàn về Trung Quốc) của Henry Kissinger, Penguin Press, 2011, 608 trang.
Điều mà người ta đã vui vẻ
bỏ quên ở các cuộc tranh luận gay gắt hiện nay về các chính sách của
chính quyền Obama là vấn đề Hoa Kỳ phải ứng xử thế nào với Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa.
Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích Mỹ, cả trong lẫn ngoài
chính phủ, đã có những quan điểm rất khác nhau về cách quản lý mối quan
hệ với Trung Quốc (TQ). Henry Kissinger, cùng với Richard Nixon, đã đóng
góp to lớn cho việc mở ra những quan hệ với TQ vào đầu thập niên 1970.
Cuốn sách vừa xuất bản của ông, On China (Bàn về Trung Quốc),
là một nỗ lực biện minh dài dòng về những điều ông đã làm lúc bấy giờ và
lý giải tư duy hiện nay của ông về phương cách tránh xung đột với một
TQ đang trỗi dậy.
Sự gia tăng đột biến sức
mạnh quân sự của TQ trong thập kỷ vừa qua đặt ra một mối đe dọa nghiêm
trọng cho các lợi ích của Hoa Kỳ và cho trật tự quốc tế được thiết lập
sau Thế chiến II. Cuộc đối đầu giữa Bắc Kinh và Washington tại Eo biển
Đài Loan – nghĩa là, giữa hai cường quốc nguyên tử – có thể được coi là
một cuộc đối đầu nguy hiểm nhất hoàn cầu. Dù có bất đồng đến đâu về bản
chất của mối đe dọa TQ, các chuyên gia cũng thực sự nhất trí cho rằng
hai nước phải hợp tác với nhau.
Có
một số chính trị gia và trí thức chỉ trích TQ gay gắt, trong đó nhiều
người đã coi chính sách Mỹ kể từ khi chấm dứt Chiến tranh lạnh đến nay
là nhượng bộ vô nguyên tắc (appeasement). Dù quyết tâm chống cộng hay
tha thiết cổ vũ cho nhân quyền, những người này đều muốn thay đổi chế độ
bằng một nền dân chủ tự do cho TQ. Mặc dù chúng ta liên tục ngạc nhiên
trong những năm qua trước sự sụp đổ của Liên Xô và ngọn triều cách mạng
tại Trung Đông, nhưng những trở ngại cho những biến cố tương tự có thể
xảy ra tại TQ là rất lớn. Hoa Kỳ chẳng làm được một điều gì đáng kể để
mang lại “diễn biến hoà bình” cho xã hội TQ, một diễn biến mà các lãnh
đạo và các nhà chính trị Mỹ đã kêu gọi kể từ thập niên 1950. Nước Trung
Hoa mà chúng ta chứng kiến hiện nay là nước Trung Hoa mà chính phủ Hoa
Kỳ phải đối phó trong một tương lai có thể tiên đoán được.
Những nhận thức về “mối đe
dọa TQ” xoay quanh khả năng ngày càng lớn của chính phủ TQ trong việc
làm rối loạn trật tự quốc tế hiện hữu. Về quân sự, TQ đang thu thập
những phương tiện chiến tranh nhằm phóng chiếu quyền lực của mình ra
ngoài biên giới Đông Á và thách thức Hải quân Hoa Kỳ tại Tây Thái Bình
Dương, cụ thể là trong vùng lân cận Đài Loan. Những thí nghiệm về chiến
tranh mạng của TQ đã làm cho Lầu Năm Góc dao động. Về kinh tế, nhu cầu
vĩ đại của TQ về nguyên vật liệu đã đẩy cao giá cả của rất nhiều thương
phẩm. TQ đã mở rộng các hoạt động khai thác nguyên liệu đến mọi châu lục
ngoại trừ Nam Cực và đã dùng thủ đoạn để thao túng thị trường khoáng
sản “đất hiếm”. TQ đã đặt ra hối suất giả tạo cho đồng nhân dân tệ bất
chấp cả những khó khăn nó tạo ra cho Hoa Kỳ và nhiều nước khác. TQ đã
trí trá tránh né những bổn phận đối với WTO về việc mở cửa thị trường
nội địa và TQ đã gây nhiều thiệt hại to lớn [cho các công ty nước ngoài]
vì đã coi thường quyền sở hữu trí tuệ. Về chính trị, TQ đã bao che một
số quốc gia thù nghịch với Hoa Kỳ vì những vi phạm nhân quyền của họ:
Miến Điện, Sudan, Uzbekistan, và Zimbabwe. Điều nghiêm trọng là, sự trỗi
dậy của TQ đã cống hiến một mô hình thay thế cho mô hình dân chủ và thị
trường tự do của phương Tây trong việc tổ chức quốc gia.
Không có một chỉ dấu rõ ràng
nào cho thấy Bắc Kinh có ý định sẽ làm gì với quyền lực mới khôi phục
của mình. Đường lối tuyên truyền chính thức của nhà nước nói rằng TQ
không có ý định xâm lấn, rằng TQ vẫn còn là một nước đang phát triển, và
rằng phải mất thêm nhiều thập kỷ nữa quân đội TQ mới có thể cạnh tranh
với quân đội Hoa Kỳ. Nhưng mặt khác, nhiều sĩ quan cấp cao trong Giải
phóng quân Nhân dân và một số trí thức TQ lại tỏ ra hiếu chiến hơn, lên
tiếng cảnh báo người Mỹ và các dân tộc khác không được thách thức quan
niệm đang phổ biến ngày một rộng rãi của TQ về “quyền lợi cốt lõi của
họ”. Những nỗ lực gần đây nhằm đe nẹt các nước láng giềng của TQ tại
Biển Đông chí ít cho thấy khả năng là, khi quyền lực của Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa gia tăng, nước này sẽ không chống lại cám dỗ hành xử một
cách quyết đoán, như các đại cường thường làm, kể cả nước Trung Hoa ngày
xưa và Hoa Kỳ.
Có một số trí thức Mỹ nổi
tiếng – chẳng hạn, Andy Nathan tại Đại học Columbia và Rod MacFarquhar
và Elizabeth Perry tại Đại học Harvard – không tin rằng những dự đoán
hiện nay về sự trỗi dậy của TQ là có cơ sở vững chắc. Một số người tiên
đoán sự sụp đổ của chế độ Cộng sản; một số người khác tranh luận giản dị
rằng kinh tế TQ sẽ chao đảo. Họ ghi nhận những khuyết tật trong hệ
thống ngân hàng, đặc biệt là những món nợ cho doanh nghiệp nhà nước vay
mà không đòi lại được. Họ viện dẫn bất ổn xã hội ngày một gia tăng, với
bằng chứng là hằng chục ngàn cuộc biểu tình chống chính phủ diễn ra khắp
nước mỗi năm. Gần đây, các nhà nghiên cứu dân số đã vạch ra tình trạng
ngày một già nua của lực lượng lao động TQ mà không có giới trẻ thay thế
– do chính sách một con của nước này. Ngoài ra, những đòi hỏi của lao
động TQ về đồng lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn đang đẩy một
số công nghiệp ra nước ngoài. Cộng đồng tình báo tại Hoa Kỳ đã xét đến
nhiều kịch bản khác nhau liên quan đến sự sụp đổ của chế độ Bắc Kinh.
Nhưng sự tăng trưởng kinh tế phi thường của TQ vẫn tiếp tục, tương phản
rõ nét với những khó khăn hiện nay tại châu Âu và Hoa Kỳ. Bộ máy công an
hiện diện khắp mọi nơi tại TQ đã giúp Đảng Cộng sản bóp nghẹt sự chống
đối của dân chúng trong nước một cách dễ dàng.
Cuốn On China của
Kissinger có thể được coi như một diễn văn từ biệt của ông về quan hệ
Mỹ-Trung. Cũng như hầu hết các tác phẩm ông viết ra từ khi rời chức vụ
vào năm 1977, phần lớn cuốn sách này được dùng để tự đề cao mình và bỏ
qua một số sai lầm ghê gớm của ông trong những lần tiếp xúc đầu tiên với
Chu Ân Lai, đáng lưu ý nhất là việc ông đưa ra những nhượng bộ to lớn
về Đài Loan vào đầu cuộc thương thuyết – một động thái tiến tới việc bỏ
Đài Loan – lớn hơn cả điều mà họ Chu có thể tưởng tượng. Nhưng phân tích
của ông về cách lý luận và phương pháp làm việc của phía Bắc Kinh là
đáng suy nghĩ. Hẳn nhiên, Kissinger nhấn mạnh rằng sự hợp tác giữa TQ và
Hoa Kỳ là thiết yếu cho hoà bình và ổn định của thế giới, cũng như lợi
ích của hai quốc gia. Ông luôn luôn ám chỉ rằng chính việc Hoa Kỳ che
chở cho Đài Loan và việc Hoa Kỳ đòi hỏi Bắc Kinh cải thiện hồ sơ nhân
quyền là nguyên nhân chính cho sự căng thẳng trong mối quan hệ hữu nghị
giữa hai nước, dù cho những chính sách này có phản ánh những giá trị
đáng chiêm ngưỡng bao nhiêu đi nữa. Ông không đòi hỏi người Mỹ phải từ
bỏ những giá trị của mình, nhưng gợi ý rằng đường lối thực tế của ông,
theo đó những giá trị này phải được đặt dưới các nhu cầu của quốc gia,
là vô cùng ưu việt.
Phần đầu cuốn sách là một
lịch sử đại cương về nước Trung Hoa cổ trước thời Cộng hòa dân quốc.
Kissinger dùng lịch sử này để giải thích những điểm nhạy cảm và chiến
lược của TQ. Việc ông phân tích tính nhạy cảm này cũng là một cách trình
bày tinh tế lời than phiền quen thuộc của TQ về một “thế kỷ bị chà
đạp”, những năm trong đó TQ bị bọn đế quốc châu Âu, Nhật Bản, và Mỹ xâu
xé. Kissinger còn đưa vào trong phần này một số vấn đề mà TQ đã chịu
đựng trước đó, chẳng hạn những đợt tàn phá do người Mông Cổ gây ra, và
nhấn mạnh nỗi sợ kinh niên của TQ về hiểm họa bị bao vây. Tuy nhiên,
Kissinger, cũng như người TQ, không chịu nói đến những nỗi nhục nhã mà
người Trung Hoa đã gây ra cho các nước láng giềng qua những thế kỷ mà
lãnh đạo của họ xây dựng Đế quốc Trung Hoa – phần lãnh thổ tối đa mà TQ
đang tuyên bố chủ quyền. Trong quá trình kiến tạo một đế quốc như vậy,
người Trung Hoa cũng hống hách, tàn bạo không thua gì người châu Âu,
người Nhật Bản, hay người Mỹ trong việc xây dựng đế quốc của mình. Người
Trung Hoa cũng dùng biện pháp quân sự để xâm chiếm và khuất phục những
giống dân yếu kém mà họ cho là bọn man di thiếu phẩm chất con người
(subhuman) để biện minh cho hành vi của mình. Điều hiển nhiên – nhưng bị
làm cho lu mờ bởi cách Kissinger bàn về Khổng giáo và các chiến lược
lịch sử – là chúng ta không có lý do, văn hóa hay di truyền, để tin chắc
TQ trong tư thế một đại cường có thể hành động ít hiếu chiến hơn các
đại cường khác qua hằng ngàn năm nay.
Điểm rất dễ bộc phát xung
đột trong quan hệ Mỹ-Trung hiện nay vẫn là Đài Loan. Vào cuối thập niên
1940, khi Tưởng Giới Thạch và đám tàn dư của bại quân lục địa cai trị
đảo này với thái độ khinh miệt thô bạo đối với dân bản xứ, chính quyền
Truman đã toan tính bỏ rơi Đài Loan. Chiến tranh Triều Tiên buộc chính
quyền này phải thay đổi đường lối và quay ra hậu thuẫn chế độ độc tài
độc đảng của Tưởng Giới Thạch. Hầu hết các quan chức chính phủ từng chỉ
trích họ Tưởng, một con cưng của Cánh hữu Mỹ, đều bị thanh trừng trong
thời kỳ McCarthy [một giai đoạn chống cộng rất điên cuồng tại Mỹ, DG.]
Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles gia tăng luồng viện trợ và
ký một thỏa ước phòng thủ chung với Đài Bắc. Việc Hoa Kỳ chống đối quyết
tâm của Bắc Kinh tái thống nhất đảo Đài Loan với lục địa là điểm thường
gây bế tắc trong các cuộc thương thuyết Mỹ-Trung. Mãi cho đến chính
quyền Nixon mới có một toan tính thứ hai nhằm bỏ rơi Đài Loan. Nixon và
Kissinger biết mình đã liều lĩnh gây phẫn nộ bên cánh hữu nhưng, vì kết
luận rằng thiết lập một quan hệ hữu hiệu với TQ là có ích lợi hơn làm
một nước bảo hộ Đài Loan, đã bày tỏ cho Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông
biết quyết tâm bỏ Đài Loan của mình. Điều mà cả Washington và Bắc Kinh
đều đinh ninh là, nếu không có hậu thuẫn Mỹ, chế độ Tưởng cuối cùng sẽ
sụp đổ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc TQ sáp nhập Đài Loan.
Nhưng Đài Loan đã không sụp
đổ, thập chí cả sau sự kiện bình thường hóa quan hệ Mỹ-Trung và sự kiện
Mỹ chấm dứt liên minh với Đài Loan dưới chính quyền Carter. Thay vì sụp
đổ, Đài Loan đã phát triển thành một nước dân chủ vững mạnh, thường
xuyên được lãnh đạo bởi những chính khách từng được đào tạo ở Mỹ và chia
sẻ những giá trị của Mỹ. Hậu thuẫn cho Đài Loan lan rộng tại Hoa Kỳ khi
cả giới tự do và giới bảo thủ Mỹ cùng nhau bày tỏ niềm hân hoan trước
sự chuyển đổi văn hóa chính trị của Đài Loan. Những âm mưu hù dọa người
dân đảo quốc của TQ đã bị Hoa Kỳ chặn đứng, rõ ràng nhất là khi Bill
Clinton gửi hai toán tàu chiến có hàng không mẫu hạm (carrier battle
groups) vào trong khu vực năm 1996. Vấn đề Đài Loan một lần nữa đã trở
thành nguyên nhân chính cho mối căng thẳng giữa Washington và Bắc Kinh.
Kissinger không bao giờ công
khai kêu gọi bỏ rơi Đài Loan, nhưng rõ ràng là ông vẫn còn tin tưởng
rằng quan hệ hữu nghị với TQ là quá quan trọng, không thể để cho nó bị
đe dọa vì việc Mỹ tiếp tục hậu thuẫn Đài Loan. Suốt sự nghiệp và ngay cả
trong cuốn On Politics, Kissinger nhấn mạnh khuynh hướng Realpolitik
(chính trị thực tế) của mình. Ông ca ngợi Bismark và một số nhà lãnh
đạo khác, những nhân vật ít bận tâm với các lý tưởng nhân đạo nhưng biết
coi trọng lợi ích quốc gia. Kissinger không cần đến cái nhiệt tình
“truyền giáo” của Hoa Kỳ để đi rao giảng các giá trị Mỹ, nhưng ông lại
coi những nhân vật như Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông là những nhà chiến
lược đáng khâm phục, được khuôn nắn theo hình ảnh của ông.
Nếu có cái gọi là Học thuyết
Kissinger, thì học thuyết này sẽ gạt bỏ các giá trị nhân đạo qua một
bên và chỉ tập trung một cách không nương nể vào lợi ích chiến lược của
quốc gia. Áp dụng vào quan hệ hữu nghị với TQ, nhất là trong những năm
kể từ khi sự trỗi dậy của TQ đã trở nên hiển nhiên, Kissinger yêu cầu Mỹ
phải chấm dứt chỉ trích chế độ độc tài độc đảng của TQ và chấm dứt than
phiền về những vi phạm nhân quyền của TQ. Luôn luôn bênh vực tinh thần
Hoà ước Westphalia, một chủ trương không can thiệp vào công việc nội bộ
của các nước khác, ông tuyên bố người Trung Quốc là những người mang
tinh thần Westphalia gương mẫu trong thế giới ngày nay. Nếu Washington
muốn tránh xung đột với một TQ đang trỗi dậy, thì việc nhượng bộ về
những điểm này và chỉ tập trung vào những vấn đề mà TQ và Hoa Kỳ cùng có
lợi ích chung sẽ là một điều khôn ngoan.
Đương nhiên, vẫn còn có một
đường lối khác: đó là, quân bình các lý tưởng với lợi ích quốc gia. Thật
vậy, chúng ta có thể lý giải rằng hậu thuẫn các lý tưởng nhân đạo của
Mỹ ở nước ngoài cũng là phục vụ lợi ích quốc gia, rằng cổ vũ dân chủ và
tôn trọng nhân quyền khắp địa cầu sẽ gia tăng cơ may sống trong một thế
giới mà lợi ích của Hoa Kỳ có thể phát triển. Qua nhiều năm nay, Hoa Kỳ
là mô hình hấp dẫn đối với các dân tộc khác nhờ nó có một xã hội cởi mở,
một chế độ dân chủ, và cam kết bảo vệ nhân quyền. Sự tập trung của Hoa
Kỳ vào những giá trị này tỏ ra có sức hấp dẫn trong thời Chiến tranh
Lạnh. Ngày nay, những giá trị này có thể thu hút loài người thêm một lần
nữa, nếu chúng được phát huy mà không cần sử dụng vũ lực – nếu
Washington khắc phục được vết ô nhục gắn liền với cái ý thức về một sứ
mệnh (sense of mission) của Mỹ trong thời chính quyền George W. Bush.
Chúng ta không thể kỳ vọng
người TQ lấy làm thích thú vì Hoa Kỳ chỉ trích văn hóa chính trị của họ;
họ cũng sẽ không hài lòng vì Washington tiếp tục hậu thuẫn Đài Loan.
Những bất đồng này và việc Hoa Kỳ phản đối hành vi của TQ ở nước ngoài
chắc chắn sẽ tạo ra những va chạm trong những năm tới. Người TQ chắc
không khác hơn người Mỹ ở chỗ chịu chấp nhận những phàn nàn về hành vi
của mình mà không phản đối. Nhưng đấy là lý do chúng ta cần đến những
nhà ngoại giao. Những vấn đề này có thể đá qua đá lại, có thể hậm hực
với nhau, có thể thương thuyết – tất cả đều không cần đến xung đột vũ
trang.
Ngày nay TQ chưa ở trong tư
thế có thể thay thế Hoa Kỳ như một siêu cường để giải quyết các vấn đề
thế giới, nhưng các học giả TQ tỏ ra rất hân hoan trước viễn ảnh suy yếu
của Hoa Kỳ. Nếu chúng ta muốn sống trong hoà bình với TQ trong vòng từ
50 đến 100 năm, học thuyết Kissinger với chủ trương tôn trọng những điểm
nhạy cảm của TQ là một đường lối sai lầm. Người Mỹ cần chứng tỏ rằng
quốc gia của mình không suy yếu. Họ phải đối phó thành công với những
vấn đề kinh tế và chính trị mà họ đã đương đầu trong những năm đầu tiên
của thế kỷ này. Họ phải chuẩn bị về mặt quân sự để ngăn chặn chủ nghĩa
phiêu lưu mà những đế chế thịnh trị của TQ đã lao vào trong quá khứ. Các
nhà phân tích Mỹ đủ mọi khuynh hướng chính trị, bất luận nhận thức của
họ về ý đồ của TQ là như thế nào, đều đồng ý rằng đe dọa chính cho vai
trò siêu cường quốc tế của Hoa Kỳ xuất phát từ bên trong.
W.I.C.
Warren I. Cohen
là giáo sư danh dự của Đại học Maryland, Baltimore, và là học giả thâm
niên trong chương trình châu Á thuộc Trung tâm Học giả Nghiên cứu Quốc
tế Woodrow Wilson. Ông là tác giả cuốn America’s Response to China: A
History of Sino-American Relations.
Trần Ngọc Cư dịch theo Dissent, August 11, 2011
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN.
No comments:
Post a Comment